Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ TOÀN CẦU CẠN KIỆT NGUỒN NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.16 KB, 18 trang )

HỌC VIỆN QUAN HỆ QUỐC TẾ
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO
NHỮNG VẤN ĐỀ TOÀN CẦU
VẤN ĐỀ CẠN KIỆT NGUỒN NƯỚC
Nhóm báo cáo: Nhóm đề 4
Hà Nội, 2/2008
1
LỜI MỞ ĐẦU
Nước là một tài nguyên vô tận, là tặng phẩm không bao giờ cạn của thiên nhiên! – Đó
chỉ còn là sự thực của cách đây hơn 30 năm. Còn ngày nay, khi cuộc sống đã có vô vàn
những thay đổi, đặc biệt là những thay đổi trong kinh tế, đời sống sản xuất thì tình trạng
thiếu hụt nước lại trở thành một trong những mối lo ngại hàng đầu của con người, của các
quốc gia, thậm chí bao gồm cả các “ông lớn”!
Hệ lụy của tình trạng cạn kiệt nguồn tài nguyên nước là không thể lường trước, nó gây
ra những ảnh hưởng to lớn tới từng cá thể trong cộng đồng quốc tế; cuộc sống sinh hoạt và
sản xuất sẽ trở nên khó khăn hơn, dẫn đến tình trạng đói nghèo và những hệ quả liên quan.
Hệ lụy nghiêm trọng hơn là những mâu thuẫn nảy sinh ở cấp độ quốc gia, khu vực,
quốc tế. Chính những mâu thuẫn về tranh chấp sở hữu nguồn nước này có thể làm nảy sinh
những cuộc chiến không mong muốn giữa các quốc gia hay giữa các khu vực, gây thiệt hại
to lớn về người và của.
Báo cáo gồm bốn nội dung nhằm làm rõ thực trạng của vấn đề cạn kiệt nguồn nước trên
toàn cầu, tìm ra những nguyên nhân vấn đề, những tác động của nó trong quan hệ quốc tế
và đề xuất hướng giải quyết cho vấn đề.
Danh mục tài liệu tham khảo và nguồn trích dẫn được sử dụng để hoàn thành báo cáo
đã được nêu cụ thể trong nội dung báo cáo.
Nhóm báo cáo
2
I. Các khái niệm
Từ trước đến nay có rất nhiều những khái niệm khác nhau liên quan đến nguồn nước
nói chung. Dưới đây là một số khái niệm phổ biến nhất có đề cập đến trong bài báo cáo.
Nguồn nước là khái niệm để chỉ các dạng nước tích tụ tự nhiên hoặc nhân tạo, có


thể khai thác, sử dụng được, bao gồm: sông, suối, kênh, rạch; biển, hồ, đầm, ao; các tầng
chứa nước dưới đất; mưa, băng tuyết và các dạng tích tụ nước khác.
1
Nguồn nước quốc tế: Theo khoản a, điều 2, Công ước quốc tế về Sử dụng các
nguồn nước quốc tế vào mục đích phi giao thông năm 1997 thì : “Nguồn nước quốc tế là
hệ thống các nguồn nước mặt và nước nguồn, nước ngầm tạo thành một thể thống nhất bởi
quan hệ mang tính vật lý và chảy vào một điểm cuối chung nằm trên lãnh thổ của hai hay
nhiều quốc gia”.
Nước là một tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống và
môi trường, quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của từng quốc gia cũng như của cả
nhân loại. Tuy nhiên, những năm gần đây, vấn đề cạn kiệt nguồn nước đã trở nên báo
động. Như thế nào là Cạn kiệt nguồn nước?
Cạn kiệt nguồn nước là sự suy giảm về chất lượng và số lượng của nguồn nước. Ở
bài này, chúng tôi nghiên cứu chủ yếu vào vấn đề cạn kiệt nguồn nước ngọt và sạch, hay
còn gọi là Tài nguyên nước.
Nước được mệnh danh như “vàng xanh”
2
của thế kỷ XXI, một tài nguyên chiến
lược của mỗi quốc gia. Tại sao các quốc gia lại đề cao vai trò của nước như vậy? Tại sao
cạn kiệt nguồn nước lại là một vấn đề mang tính toàn cầu? Để trả lời cho những câu hỏi đó,
trước hết, chúng ta cần hiểu: Thế nào là một vấn đề toàn cầu?
Những vấn đề toàn cầu là những vấn đề xảy ra trên phạm vi toàn cầu, gây ảnh
hưởng tới nhiều quốc gia, gây ra những tác hại to lớn, và để giải quyết được nó thì cần sự
phối hợp của nhiều quốc gia, một quốc gia đơn lẻ không thể tự giải quyết được vấn đề này.
Những phân tích dưới đây của chúng tôi sẽ chỉ rõ rằng: Cạn kiệt nguồn nước là một
vấn đề mang tính toàn cầu.
I. Thực trạng vấn đề
1
Vương Dật Châu, An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2004, trang 552.
2

Smair & Francois Houtart, Toàn cầu hóa các cuộc phản kháng – Hiện trạng các cuộc đấu tranh 2002, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2004,
trang 219
3
1. Nguồn nước đang cạn kiệt
Theo báo cáo của Ủy ban tài nguyên thiên nhiên (UNEP) của Liên hợp quốc năm 2003,
hiện nay, 40% dân số thế giới ở hơn 80 quốc gia đang trong tình trạng thiếu nước nghiêm
trọng và dự báo rằng, đời sống sẽ tồi tệ hơn nhiều trong 50 năm tới. Cũng theo báo cáo này
thì trên 1/3 dân số (khoảng 2.4 tỷ người) không có các điều kiện vệ sinh đầy đủ do khan
hiếm và ô nhiễm nước sinh hoạt.
3
Mỗi năm có hàng triệu người chết vì những căn bệnh có
liên quan đến việc dùng nước bị ô nhiễm.
Trữ lượng nước tính theo đầu người của thế giới đang suy giảm một cách nghiêm trọng.
Năm 1950, khối lượng nước tính theo đầu người là 16800m3/người/năm thì hiện nay, con
số này là 7300m3/người/năm. Như vậy, lượng nước tính theo đầu người của thế giới đã
giảm xuống một nửa so với những năm 1950. Các chuyên gia dự đoán rằng đến năm 2025,
khối lượng nước theo đầu người của thế giới chỉ còn 4800m3/người/năm.
4
Quốc tế lấy lượng nước 1000m3/người/năm làm “tuyến cảnh báo”. Cách đây 50 năm,
không một nước nào trên thế giới phải đối mặt với mực nước thấp “thảm hại” này. Nhưng
ngày nay, 50% dân số thế giới đang phải sống trong tình cảnh này và dự đoán đến năm
2025, 2/3 dân số thế giới phải chịu cảnh mức độ cấp nước từ thấp (2100-
5000m3/người/năm) đến rất thấp (1100-2000m3/người/năm) và “thảm hại”.
5
2. Cạn kiệt nguồn nước là một vấn nạn diễn ra trên phạm vi toàn thế giới
Khu vực Trung Đông và Bắc Phi là những khu vực thiếu nước nghiêm trọng. Mỗi năm
gần 2/3 khu vực châu Phi đứng trước nguy cơ hạn hán, trong đó, 6 nước Trung Phi và 5
nước Bắc Phi là những quốc gia thiếu nước nghiêm trọng. Năm 2005, lượng nước bình
quân theo đầu người của khu vực này chỉ là 677 m3/người/năm, thấp hơn rất nhiều so với
“tuyến cảnh báo” mà quốc tế đưa ra; đặc biệt, một số nước như Xyri, Ả rập Xê út, Giooc

đa ni, Yê men, lượng nước bình quân theo đầu người chỉ đạt 100-200m3/người/năm
6
.
3
Gs.Ts. Nguyễn Trọng Chuẩn, Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
– 2006, trang 175
4
Gs.Ts. Nguyễn Trọng Chuẩn, Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
– 2006, trang 175
5
Gs.Ts. Nguyễn Trọng Chuẩn, Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
– 2006, trang 175
6
Vương Dật Châu, An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2004, trang 557-558
4
Khu vực Châu Á là khu vực có tài nguyên nước rất phong phú nhưng do sự tăng trưởng
dân số và kinh tế nên nhu cầu về nước ở khu vực này ngày càng gia tăng. Theo dự đoán,
chỉ trong một thời gian ngắn nữa, châu Á sẽ phải đổi mặt với tình trạng thiếu nước nghiêm
trọng. Theo báo cáo nghiên cứu của một số chuyên gia quốc tế về tài nguyên nước, đến thế
kỷ XXI, phần lớn các nước Châu Á sẽ phải đứng trước vấn đề thiếu nước.
Cụ thể:
Khu vực Nam Á, hạn hán ngày càng trầm trọng, các nguồn nước ngầm bị cạn kiệt, diện
tích biển Aran bị thu hẹp. Điển hình là Trung Quốc, tổng lượng tài nguyên nước của Trung
Quốc đứng thứ 6 thế giới, nhưng lượng nước bình quân tính theo đầu người chỉ có
2400m3/người/năm, thấp hơn rất nhiều so với lượng nước bình quân theo đầu người của
thế giới là 7300m3/người/năm, đứng ở vị trí 109/192 quốc gia và bị xếp vào một trong số
các quốc gia thiếu nước trên thế giới.
Khu vực Trung Á cũng đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước. Hiện nay, một số
quốc gia trong khu vực này đã có những biện pháp để bảo vệ nguồn nước.
Khu vực Tây Á là khu vực có mối đe dọa lớn nhất về nước ở Châu Á với hơn 90% dân

số đang chịu những áp lực nặng nề về thiếu nước.
7
Việt Nam trong những năm gần đây cũng thường xuyên ở trong tình trạng thiếu nước
nghiêm trọng vào mùa khô, gây những ảnh hưởng nghiêm trọng cho đời sống sinh hoạt và
sản xuất của con người. Mùa khô vừa qua, do tình trạng thiếu hụt nước nghiêm trọng khiến
các địa phương phải đau đầu trong việc giải quyết nguồn nước cho hoạt động tưới tiêu
trong nông nghiệp. Điện năng, cũng do nguồn nước cạn kiệt mà không đủ cung cấp điện
cho cả nước trong mùa nóng nực, gây ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của
người dân.
Khu vực Châu Mỹ: Tài nguyên nước ở khu vực này phong phú nhưng lại phân bổ không
đồng đều giữa các quốc gia, hoặc giữa các vùng trong cùng một quốc gia. Do vậy, nhiều
nới ở Châu Mỹ cũng đang phải chịu cảnh thiếu nước nghiêm trọng
7
Vương Dật Châu, An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2004, trang 558
5
Khu vực Châu Âu: Cũng là một khu vực có nguồn nước phong phú song dự báo có khả
năng khu vực này phải chịu tình cảnh hạn hán xảy ra trên diện rộng trong vòng vài thập
niên tới.
8
Như vậy, qua việc phân tích ở trên, có thể thấy rằng: cạn kiệt nguồn nước không chỉ
diễn ra trên một quốc gia, một khu vực mà nó diễn ra ở hầu hết các nước, các khu vực trên
thế giới. Do đó, những khó khăn do vấn đề cạn kiệt nguồn nước đem lại không chỉ cho một
quốc gia hay khu vực riêng lẻ mà cho toàn bộ nhân loại – một vấn đề chung của cả loài
người. Vì thế, lẽ đương nhiên, để giải quyết vấn đề cạn kiệt nguồn nước cần sự phối hợp
của tất cả các quốc gia, các tổ chức có liên quan.
Trên thực tế, vấn đề cạn kiệt nguồn nước đang là vấn đề quan tâm của thế giới. Kể từ
hội nghị đầu tiên của Liên hợp quốc về nước diễn ra ở Mar del Plata năm 1977, thì đến
nay, Liên hợp quốc đã phát động và tổ chức rất nhiều diễn đàn, hội nghị quốc tế để tìm ra
biện pháp khắc phục tình trạng thiếu nước của thế giới như Hội nghị của năm trăm chuyên
gia vào tháng Giêng năm 1992 tại Dublin (Ailen), Hội nghị bộ trưởng năm 1994 về nước

sinh hoạt và làm sạch môi trường vùng Noordwijk (Hà Lan); hay Diễn đàn thế giới về
nước ở Marrakech năm 1997 và La Haye năm 2000…
9
Tóm lại, cạn kiệt nguồn nước là một vấn đề mang tính toàn cầu, một vấn đề mà hầu hết
tất cả các quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt. Đó cũng là một vấn đề mang tính thời
sự quốc tế. Nhiều dự báo đáng lo ngại về việc tăng nhu cầu về nước đã được đăng tải trên
trang nhất các báo. Mức tăng thực tế thấp hơn nhiều so với dự báo ban đầu nhưng nó cũng
phản ánh mức tăng đáng kể và vấn đề nguồn nước đang trở lại là vấn đề hàng đầu ở thế kỷ
XXI và không ngày nào báo chí lại không đề cập đến vấn đề này. Nhưng những nguyên
nhân nào dẫn đến thực trạng đó?
II. Nguyên nhân của vấn đề
1. Những nguyên nhân khách quan
Xuất phát từ những đặc trưng của nguồn nước như: sự khan hiếm, tính không thể thay
thế, sự phân bố không đồng đều.
a. Tính khan hiếm
8
Theo UPI
9
Smair & Francois Houtart, Toàn cầu hóa các cuộc phản kháng – Hiện trạng các cuộc đấu tranh 2002, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2004,
trang 220-221.
6
Người Trung Quốc thường nói: “vật hiếm là quý”, nước không phải là tài nguyên vô
cùng vô tận, giơ tay ra là lấy được, mà là tài nguyên vô cùng quý giá và ít ỏi. Phải khẳng
định rằng nước ở xung quanh chúng ta rất phong phú, 70% diện tích trái đất được bao phủ
bởi nước. Nhưng 97,5% trong số đó là nước mặn, chỉ có 2,5% là nước ngọt. Trong khối
lượng nước ngọt đó có tới 74% là nước ở trạng thái băng tuyết ở hai cực Nam-Bắc địa cầu
và các dòng sông băng; 22,4% phân bố ở những chỗ sâu dưới lòng đất hay tích tụ dưới
dạng sương mù và độ ẩm; một phần khác nằm trong bề mặt trái đất; trong khí quyển và
trong các thể sinh vật, chỉ có 0,4% là nước ngọt. Trong tổng số nước ngọt của trái đất, con
người có thể khai thác chưa tới 1% để phục vụ nhu cầu của mình. Lượng nước ngọt con

người sử dụng hiện nay là nước mưa. Lượng nước mưa trên trái đất vào khoảng 105
000km3/năm, trong đó con người mới sử dụng được khoảng 35000 km3, trong đó: 8% cho
các mục đích sinh hoạt đời sống, 23% cho công nghiệp và cho các hoạt động nông nghiệp
là 63%.
10
b. Tính không thể thiếu
Nhu cầu về nước của nhân loại ngày càng cao. Nếu thiếu nước con người không thể tồn
tại và phát triển, các hoạt động sinh hoạt sản xuất không thể diễn ra. Do vậy, nước có ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống cũng như sinh hoạt, lao động sản xuất của con người. Như
chúng ta đã biết, 70% cơ thể con người là nước, nếu thiếu nước trong 10 ngày thì con
người không thể tồn tại.
Đối với quá trình sản xuất và đời sống xã hội, như đã đề cập ở trên, nước có vai trò vô
cùng lớn và cực kì quan trọng. Nước quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Đặc
biệt, theo tính toán hiện nay, sản xuất nông nghiệp tiêu thụ tới 63% lượng nước ngọt trên
thế giới. Vì tầm quan trọng đó của nước, nước còn được coi là tài nguyên chiến lược của
mỗi quốc gia.
c. Tính khó có thể thay thế
Hiện nay, theo dự đoán, con người khó có thể tìm ra sản phẩm thay thế nước hơn tìm ra
sản phẩm có thể thay thế dầu mỏ hay gỗ. Với trình độ khoa học kỹ thuật đương đại, con
10
Gs.Ts. Nguyễn Trọng Chuẩn, Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội – 2006, trang 172-173
7

×