MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản trên phạm vi tồn thế giới
nói chung vẫn đang tiếp diễn và con đường phát triển quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội tại các nước chủ nghĩa xã hội nói riêng cũng có cơ
sở lịch sử, thực tiễn sâu xa, vững chắc, mang tính quy luật khách quan, tất yếu
và hồn tồn khả thi. Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào (CHDCND) Lào trong
xu thế chung của thế giới cũng đang tiến hành quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đây là quá trình lâu dài và cũng có nhiều khó khăn.
Về mặt lý luận, ở CHDCND Lào đã có một số tài liệu nghiên cứu về
vấn đề này nhưng ở mỗi tài liệu thì mới đề cập đến một khía cạnh, một đặc
điểm của thời kỳ quá độ này và còn sơ sài, chưa được nghiên cứu nhiều như ở
các nước XHCN khác, đặc biệt là Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, sau nhiều năm chuyển đổi cơ chế kinh tế, hiện nay,
công cuộc đổi mới ở CHDCND Lào đang chuyển sang một giai đoạn mới giai đoạn hình thành cơ cấu và thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội
chủ nghĩa (XHCN). Kết quả quan trọng của đường lối đổi mới chuyển sang
cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập này là sự hình thành và phát triển của
thành phần kinh tế.
Việc nghiên cứu về “Đặc điểm của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội, liên hệ với đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào” sẽ cung cấp thêm những
thông tin quý báu về thời kỳ quá độ lên CNXH trên các mặt, kinh tế, chính trị
và xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở CHDCND Lào, những cơng trình nghiên cứu về đề tài này cịn hạn
chế, nhưng tại Việt Nam thì ở đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan
1
đến đề tài, dưới nhiều khía cạnh khác nhau của thời kỳ quá độ từ tư bản chủ
nghĩa lên chủ nghĩa xã hội như:
- PGS,TS. Nguyễn Quốc Phẩm: Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội qua 20 năm đổi mới, Thông tin chủ
nghĩa xã hội – Lý luận và thực tiễn, số 20, tháng 12 – 2008
- GS,TS. Trịnh Quốc Phẩm: Tồn cầu hóa và triển vọng của chủ nghĩa
xã hội, Thông tin chủ nghĩa xã hội – Lý luận và thực tiễn, số 10, tháng 6 –
2006.
Trong các công trình này đều đề cập đến lý luận, về đổi mới tư duy trên
cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn
cơng cuộc đổi mới ở CHDCND Lào.
Chính vì thế, tác giả sẽ đi sâu vào phân tích và làm rõ về khái niệm, nội
dung của những vấn đề đó.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài tiểu luận
Đặc điểm của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
liên hệ với đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài tiểu luận
- Làm rõ những nhận thức của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về Đặc
điểm của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
- Sự vận dụng của CHDCND Lào để xây dựng CNXH hiện nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Kaysone Phomvihane về chủ nghĩa xã hội và chủ trương của Đảng
NDCM Lào về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
2
- Đề tài dựa vào phương pháp luận duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy
vật lịch sử và sử dụng một số phương pháp như: diễn dịch - quy nạp, lơgích lịch sử, phân tích tổng hợp, thu thập tài liệu, phân loại tài liệu,….
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo đề tài
gồm có 2 chương 6 tiết.
3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
1.1. Khái niệm về thời kỳ quá độ
Định nghĩa kinh điển về thời kỳ quá độ được C. Mác nêu lên trong tác
phẩm Phê phán cương lĩnh Gôtha, rằng: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã
hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã
hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước
của thời kỳ ấy khơng thể cái gì khác hơn là nền chun chính cách mạng của
giai cấp vô sản”. Trong tác phẩm này, đáng chú ý những điểm sau đây:
Xã hội của thời kỳ quá độ là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ
nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện – kinh tế, đạo đức, tinh thần –
còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đa lọt lịng. Đó là xã hội chưa
phát triển trên những cơ sở của chính nó.
Thời kỳ q độ là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội
kia.
Công cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước. Nhà nước của thời kỳ q
độ khơng thể là cái gì khác hơn là nền chun chính cách mạng của giai cấp vơ
sản.
Những tư tưởng trong tác phẩm trên đã được V.I. Lênin cụ thể hóa và
làm phong phú thêm nhiều. Ơng đã đưa ra một định nghĩa về thời kỳ quá độ
như sau: “... Danh từ q độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó
có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận,
những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không ? Bất cứ ai
cũng đều thừa nhận là có”. Tiếp sau đó, Lênin lại nói rõ thêm: “ Về lý luận,
khơng thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng
4
sản, có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó khơng thể khơng bao gồm
những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế – xã hội ấy. Thời kỳ
quá độ ấy không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ
nghĩa tư bản đang dãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một
cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn,
và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu”.
1.2. Đặc điểm thời kỳ quá độ
Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cài biến
cách mạng từ xã hội tiền tư bản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã
hội chủ nghĩa. Xã hội của thời kỳ quá độ là xã hội có sự đan xen của nhiều tàn
dư về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần của chủ nghĩa tư bản và
những yếu tố mới mang tính chất xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa xã hội mới
phát sinh chưa phải là chủ nghĩa xã hội đã phát triển trên cơ sở của chính nó.
Đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải
tạo cách mạng sâu sắc, triệt để xã hội tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh
vực, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây dựng từng bước cơ sở vật chất- kỹ
thuật và đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ lâu dài, gian
khổ bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính
quyền đến khi xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội. Có thể khái quát những
đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội như sau:
- Trên lĩnh vực kinh tế
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương
diện kinh tế, tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành
phần đối lập. Đề cập tới đặc trưng này, V.I.Lênin cho rằng: “Vậy thì danh từ
quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế
độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ
nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có.
5
Song không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành
phần của kết cấu kinh tế- xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế
nào?. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở đó”. Tương ứng với nước
Nga, V.I Lênin cho rằng thời kỳ quá độ tồn tại 5 thành phần kinh tế: Kinh tế
gia trưởng; kinh tế hàng hóa nhỏ; kinh tế tư bản; kinh tế tư bản nhà nước;
kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Trên lĩnh vực chính trị
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội về phương
diện chính trị, là việc thiết lập, tăng cường chun chính vơ sản mà thực chất
của nó là việc giai cấp cơng nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp
giai cấp tư sản, tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là sự
thống trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ
đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính với
những phần tử thù địch, chống lại nhân dân; là tiếp tục cuộc đấu tranh giai
cấp giữa giai cấp vô sản đã chiến thắng nhung chưa phải đã toàn thắng với
giai cấp tư sản đã thất bại nhưng chưa phải thất bại hoàn toàn. Cuộc đấu tranh
diễn ra trong điều kiện mới- giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm
quyền, với nội dung mới- xây dựng toàn diện xã hội mới, trọng tâm là xây
dựng nhà nước có tính kinh tế, và hình thức mới- cơ bản là hịa bình tổ chức
xây dựng.
- Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại
nhiều tư tưởng khác nhau, chủ yếu là tư tưởng vô sản và tư tưởng tư sản. Giai
cấp công nhân thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sàn từng
bước xây dựng văn hóa vơ sản, nền văn hố mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá
trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, bảo đảm đáp ứng nhu cầu
văn hóa- tinh thần ngày càng tăng của nhân dân.
6
- Trên lĩnh vực xã hội
Do kết cấu của nền kinh tế nhiều thành phần qui định nên trong thời kỳ
quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp, tầng lớp và sự khác biệt giữa các giai cấp
tầng lớp xã hội, các giai cấp, tầng lớp vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.
Trong xã hội của thời kỳ quá độ cịn tồn tại sự khác biệt giữa nơng thơn,
thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Bời vậy, thời kỳ quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về phương diện xã hội là thời kỳ đấu
tranh giai cấp chống áp bức, bất cơng, xóa bỏ tệ nạn xã hội và những tàn dư
của xã hội cũ để lại, thiết lập công bằng xã hội trên cơ sờ thực hiện nguyên
tắc phân phối theo lao động là chủ đạo.
1.3. Nhận thức và quan điểm về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện của CHDCND Lào
1.3.1. Nhận thức
Đại hội IV của Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1986) đã đề ra đường lối
đổi mới tồn diện, trong đó, khâu then chốt là thực hiện mở cửa, chuyển dịch
mạnh mẽ cơ cấu nền kinh tế, phát triển kinh tế theo hướng XHCN, từng bước
đưa Cộng hòa Dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào hội nhập với dòng chảy
chung của khu vực và thế giới. Đến nay, sau hơn 30 năm đổi mới, CHDCND
Lào đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, giành được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử về kinh tế, chính trị, đối ngoại, văn hóa, xã hội.
Sau hơn 30 năm đổi mới, bài học quan trọng đầu tiên mà Đảng NDCM
Lào rút ra là: “trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Kaysone
Phomvihane và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu
chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn
hơn. Đổi mới không phải xã rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và
7
phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Kaysone Phomvihane, lấy đó làm
nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội và
xây dựng chủ nghĩa xã hội có giá trị bền vững trong việc tạo ra thế giới quan
và phương pháp luận khoa học và cách mạng cho các Đảng Cộng sản nhận
thức, xác định những mơ hình, những đặc trưng và cách thức xây dựng chủ
nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước mình.
Thực tiễn cách mạng thế giới đã và đang chứng minh sức sống, giá trị
bền vững của những “nguyên lý tổng quát” – những quan điểm thể hiện tính
phổ biến về chủ nghĩa xã hội và về xây dựng chủ nghĩa xã hội của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin.
C.Mác và Ph.Ăngghen, với rất nhiều công trình nghiên cứu đã khái
quát nên những đặc trưng (mang tính dự báo) về xã hội cộng sản chủ nghĩa
(giai đoạn cao) mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu (giai đoạn thấp) của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Khi mà “thay thế cho xã hội tư sản
cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên
hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển
tự do của tất cả mọi người” [1, 628].
Đồng thời với việc phác thảo những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản, C.Mác, Ph.Ăngghen cũng đã chỉ ra tính quy luật phổ biến
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là: Cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa phải do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua đội tiền phong của họ là
Đảng Cộng sản; cuộc cách mạng phải được tiến hành thường xuyên liên tục,
không ngừng qua từng thời kỳ với các nhiệm vụ cụ thể; sau khi giai cấp cơng
nhân đã giành được chính quyền thì phải sử dụng chính quyền phát triển lực
lượng sản xuất, giải quyết tốt các mối quan hệ lợi ích giữa giai cấp công nhân
với dân tộc, dân tộc và quốc tế v.v…
8
V.I.Lênin, người kế tục sự nghiệp vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen đã
vừa bảo vệ, vừa bổ sung, phát triển những quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, cụ thể hóa quan niệm về chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô viết
và cách thức con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga.
Chính sách kinh tế mới (NEP) của V.I.Lênin đã cho thấy sự vận dụng,
phát triển sáng tạo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về chủ nghĩa xã hội
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga.
Điều quan trọng nhất trong khi coi những quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về chủ nghĩa xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cơ sở lý luận và
phương pháp luận để có nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở CHDCND Lào là phải quán triệt đầy đủ, nhận thức thật đầy đủ, sâu
sắc các quan điểm biện chứng, lịch sử - cụ thể để có nhận thức mới, tránh giáo
điều, rập khn, máy móc.
C.Mác và Ph.Ăngghen là những nhà duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử. Các ông ln ln có quan điểm biện chứng và lịch sử - cụ thể trong xem
xét đánh giá các sự vật, hiện tượng, các mơ hình phát triển, đặc biệt là trong
quan niệm về con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sau 25 năm viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, trong Lời tựa viết
cho bản tiếng Đức năm 1872, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên quan điểm
đánh giá: “Mặc dầu hoàn cảnh đã thay đổi trong hai mươi lăm năm qua,
nhưng cho đến nay, xét về đại thể, những ngun lý tổng qt trình bày trong
“Tun ngơn” này vẫn cịn hồn tồn đúng. Ở đơi chỗ, có một vài chi tiết cần
phải xem lại. Chính ngay “Tun ngơn” cũng đã giải thích rõ ràng bất cứ ở
đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo
hồn cảnh lịch sử đương thời, …” [2, 128].
Sau đó, Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Sự phát triển của chủ nghĩa xã
hội từ không tưởng đến khoa học” cũng đã nêu lên một luận điểm rất nổi
9
tiếng: “Muốn làm cho chủ nghĩa xã hội trở thành khoa học thì trước hết phải
đặt chủ nghĩa xã hội trên cơ sở hiện thực” [3, 293] đồng thời “phải nghiên cứu
thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó” [3, 305].
V.I.Lênin khi vận dụng lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học nói chung,
các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng đã
nêu lên hàng loạt các quan niệm, các định nghĩa về chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản và con đường, phương thức để thực hiện. Nhưng quan trọng
nhất là những quan điểm mang tính phương pháp luận của Người về chủ
nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước khi cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa tháng Mười Nga nổ ra, từ năm 1916, trong tác phẩm “Về một sự
biếm họa chủ nghĩa Mác”, V.I.Lênin từng khẳng định: “Tất cả các dân tộc
đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là điều không tránh khỏi, những tất cả các
dân tộc đều tiến lên chủ nghĩa xã hội khơng phải một cách hồn toàn giống
nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức
khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chun chính vơ sản,
vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
các mặt khác nhau của đời sống xã hội” [16, 160]. Sau Cách mạng tháng
Mười năm 1917, Người còn khẳng định: “với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản
các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô viết và qua
những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải
trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” [17, 295].
Về sau, bằng thực tế sinh động của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước Nga Xô viết trong tác phẩm: Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào
cộng sản (1920) Người còn chỉ rõ: “ … nhiệm vụ của những người cộng sản là
phải biết áp dụng những nguyên tắc phổ biến và cơ bản của chủ nghĩa cộng sản
vào đặc điểm của những mối quan hệ giữa các giai cấp và các đảng, vào đặc
điểm của sự phát triển khách quan hướng tới chủ nghĩa cộng sản, những đặc
10
điểm riêng của mỗi nước, mà chúng ta phải biết nghiên cứu, phát hiện và dự
đoán”.
Cơ sở lý luận và phương pháp luận để có những nhận thức mới về chủ
nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải biết kết hợp những nguyên lý
phổ biến vào đặc điểm riêng của từng quốc gia, dân tộc, phải nghiên cứu, phát
hiện những nét đặc thù của chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở từng
nước.
Từ quan niệm cụ thể, thiết thực về chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Kaysone
Phomvihane cũng đã nêu lên rất nhiều luận điểm về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, con đường và cách thức xây dựng để quá độ lên chủ nghĩa xã
hội trong điều kiện cụ thể của CHDCND Lào. Người đã xác định đặc điểm
của thời kỳ quá độ và nhiệm vụ quan trọng nhất cần thực hiện: “… đặc điểm
to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu, tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa…
1.3.2. Quan điểm
-
Xuất phát từ một xã hội vốn là thuộc địa ; nửa phong kiến, lực lượng
sản xuất rất thấp. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực
thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc
lập dân tộc của nhân dân Lào.
-
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh
mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và
đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hoá sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới
nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo
thời cơ phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt.
-
Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, cho dù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.
11
Các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa
hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc
đấu tranh của nhân dân các nước vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát
triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, song theo quy luật
tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Quá độ lên chù nghĩa xã hội bò qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự lựa
chọn duy nhất đúng, khoa học, phản ánh đúng qui luật phát triển khách quan
của cách mạng CHDCND Lào trong thời đại ngày nay. Đây là sự lựa chọn
dứt khoát và đúng đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của dân tộc,
nhân dân, phản ánh xu thế phát triển của thời đại, phù hợp với quan điểm
khoa học, cách mạng và sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, như Đại
hội IV của Đáng NDCM Lào (1986) xác định: Con đường đi lên của
CHDCND Lào là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bàn chủ nghĩa, đặc biệt về
khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền
kinh tế hiện đại.
Đây là tư tưởng mới, phản ánh nhận thức mới, tư duy mới của Đảng
NDCM Lào về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Tư tưởng này cần được hiểu đầy đủ với những nội dung sau đây:
Thứ nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
là con đường cách mạng tất yếu khách quan, con đường xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở CHDCND Lào.
Thứ hai, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
12
thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là trong thời kỳ q độ cịn
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, song sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa và thành phần kinh tế tư nhân tư bản tư bản chủ nghĩa khơng chiếm
vai trị chủ đạo; thời kỳ q độ cịn nhiều hình thức phân phối, ngoài phân
phối theo lao động vẫn là chủ đạo cịn phân phối theo mức độ đóng góp và
quĩ phúc lợi xã hội; thời kỳ quá độ vẫn còn quan hệ bóc lột và bị bóc lột, song
quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa khơng giữ vai trị thống trị.
Thứ ba, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi
hỏi phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chủ
nghĩa tư bản, đặc biệt là những thành tựu về khoa học và công nghệ, thành
tựu về quản lý để phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội, đặc biệt là phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Thứ tư, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là
tạo ra sự biến đồi về chất của xã hội trên tắt cả các lĩnh vực, là sự nghiệp rất
khó khăn, phức tạp, lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế. xã hội có tính chất q độ địi hỏi phái có quyết tâm chính trị cao và
khát vọng lớn của toàn Đàng, toàn dân.
13
Chương 2.
LIÊN HỆ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ TỪ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CHDCND LÀO
Đối với những nước lạc hậu như CHDCND Lào, sau khi giành được
chính quyền về tay nhân dân lao động còn thiếu những tiền đề kinh tế cho chủ
nghĩa xã hội. Việc tạo lập những cơ sở vật chất – kỹ thuật là vấn đề vơ cùng
khó khăn. Do đó thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội ở CHDCND Lào sẽ kéo
dài hơn so với những nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước tư bản chủ
nghĩa phát triển.
Trước đây, Đảng NDCM Lào thường khẳng định, CHDCND Lào quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, sau 15
năm đổi mới, trong Văn kiện Đại hội VII, CHDCND Lào khẳng định “Con
đường đi lên của CHDCND Lào là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại” . Thuật ngữ “bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa” thực chất là bỏ qua việc xác lập sự thống trị của giai cấp tư sản trên hai
lĩnh vực cơ bản là chính trị và kinh tế. Nhờ đó, “nội dung bỏ qua và nội dung
kế thừa” cái gì vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở CHDCND Lào
được xác định rõ ràng hơn, cụ thể hơn, việc vận dụng vào hoạt động thực tiễn
cũng thuận lợi hơn.
2.1. Thực trạng về kinh tế
Như đã phân tích ở trên, có thể thấy rằng, đặc trưng cơ bản nhất của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phát
14
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng CHDCND Lào thành một nước cơng nghiệp
có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại để đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2.1.1. Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nhận thức của Đảng NDCM Lào về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một quá trình tư duy lý luận về kinh tế dựa trên cơ sở nghiên cứu lý
luận và tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước. Ngay từ Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IV Đảng NDCM Lào đã phê phán những hạn chế, yếu kém của cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp, đưa ra những quan niệm mới về cơ chế kinh tế
và thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa, thị trường, đồng thời
chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với các hình thức kinh doanh
phù hợp.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V, Đảng NDCM Lào nhận
định, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước đã bước đầu được hình thành và khẳng định:
“Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một chủ trương chiến
lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” [7, tr.21].
Tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VI, với những thành tựu của 10
năm đổi mới, Đảng NDCM Lào nhận định: “Cơ chế thị trường đã phát huy tác
dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó chẳng những khơng
đối lập mà cịn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát
triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa” [8, tr.26]. Như vậy, Đảng
NDCM Lào đã có bước đột phá tư duy về kinh tế thị trường, coi đó là yếu tố
quan trọng để phát triển đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tiếp tục cùng với q trình đổi mới tịan diện của đất nước và thông
qua tổng kết thực tiễn, đến Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng chỉ rõ: “…thực
15
hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường hàng
hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” [9, tr.86]. Và khẳng định rõ ràng: Phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất
qn, là mơ hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội ở CHDCND Lào.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
CHDCND Làotiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X
như sau: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh
thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn
kết dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm
vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế” [10, tr.69]. Đồng thời, những vấn đề lý luận liên quan đến
xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được làm
sáng rõ hơn, cụ thể với bốn nội dung cơ bản là: Nắm vững định hướng xã hội
chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở CHDCND Lào hiện nay; nâng cao
vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước; phát triển đồng bộ và quản lý có
hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản theo hướng cạnh tranh
lành mạnh; phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức kinh
doanh.
2.1.2 Đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cơng nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Từ một nước nông nghiệp tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
16
bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa cái thiếu nhất là cơ sở vật chất kỹ
thuật của một nền sản xuất hiện đại, vì vậy Cơng nghiệp hoá là nhiệm vụ
trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở CHDCND Lào.
Đến Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng NDCM Lào nhận định CHDCND Lào đã
ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và khẳng định cần chuyển sang thời
kỳ mới đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước … để đến năm
2020 đưa CHDCND Lào cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đại hội VII
xác định rõ thêm: trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
“Công nghiệp hố, hiện đại hố là q trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ
sử dụng lao động thủ cơng là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra
năng suất lao động xã hội cao” (Nghị quyết Hội nghị TƯ 6, khóa VII).
Đảng NDCM Lào coi khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo là
nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chiến lược kinh tế
đến năm 2000 được Đại hội Đảng lần thứ VII thông qua đã nêu: Phát triển
mạnh giáo dục và đào tạo, không ngừng nâng cao năng lực khoa học và công
nghệ, để cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Đại hội Đảng lần thứ VIII
khẳng định: giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ làm nền tảng và động
lực của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính sách phát triển đất nước là chính
sách phát triển dựa vào giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ.
Trong bối cảnh quốc tế mới, CHDCND Lào phải hội nhập vào xu thế
phát triển nền kinh tế tri thức tồn cầu hóa. Đại hội Đảng lần thứ VIII nhận
định: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và cơng nghệ sẽ
có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trị ngày càng nổi bật trong
q trình phát triển lực lượng sản xuất”. Tồn cầu hoá kinh tế là một xu
17
thế phát triển tất yếu khách quan, ngày nay đang bị chủ nghĩa tư bản thao
túng, với những thủ đoạn bóc lột tinh vi của một kiểu thực dân mới, đang
làm gia tăng nhanh khoảng cách giàu nghèo, bất công xã hội, và đặt ra cho
các nước đang phát triển nhiều thách thức gay gắt, nguy cơ tụt hậu ngày
càng xa. Nhưng mặt khác nền kinh tế tri thức toàn cầu hóa lại là cơ hội lớn
cho các nước đi sau nếu biết thông qua thương mại, chuyển giao công
nghệ, đầu tư nước ngồi để thu hút vốn và cơng nghệ, tri thức mới cho
cơng cuộc cơng nghiệp hóa đất nước mình. Vì vậy hội nhập quốc tế ngày
nay là sự lựa chọn duy nhất của CHDCND Lào cũng như các nước đang
phát triển khác, coi sự hội nhập là chấp nhận tham gia vào một sân chơi
lớn, vừa hợp tác vừa phải đấu tranh. Hội nhập để đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tạo nền tảng để đến
năm 2020 CHDCND Lào cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định: “Con đường cơng nghiệp
hố, hiện đại hố của CHDCND Lào cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có
những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất
nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ cơng nghệ tiên tiến, đặc biệt là
công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng
nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học
và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Đại hội Đảng lần thứ XI khẳng định cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong bối cảnh quốc tế mới phải gắn với phát triển kinh tế tri thức. “Tranh thủ
cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của CHDCND
Lào để rút ngắn q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phát triển mạnh các
ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết
hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người CHDCND Lào với tri thức
18
mới nhất của nhân loại”. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội
mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây
dựng có hiệu quả hơn.
Vấn đề đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức đã được Đại hội IX của Đảng NDCM Lào đề cấp. Trong Dự thảo
Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã phát triển và cụ thể hoá thêm một bước “Phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hoá
đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý,
hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ… Phát triển khoa học và cơng nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình
độ tiên tiến của thế giới”.
2.1.3 Chiến lược kinh tế mở
Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1986, đã tiến hành đổi mới, chuyển sang
cơ chế thị trường và song song với nó là thực hiện chuyển hướng chiến lược
trong kinh tế đối ngoại, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Tiếp đó tại Đại hội V của Đảng NDCM Lào năm 1991 đã đề ra đường
lối chiến lược “thực hiện đa dạng hoa đa phương hoá quan hệ quốc tế, mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại”.
Đến Đại hội VI (1996) Đảng NDCM Lào tiếp tục chủ trương chính sách
đối ngoại độc lập tự chủ mở rộng các quan hệ đối ngoại với tinh thần “muốn làm
bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới”. Tháng 12/1997 Nghị quyết
Trung ương 4 khoá VI đề ra nhiệm vụ: Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động
tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế CHDCND
Lào trên trường quốc quốc tế. Và gần đây nhất là tại Đại hội Đảng lần XI năm
19
2021 đã nêu rõ: “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát
triển trên nguyên tắc giữa vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Thực hiện chủ trương đường lối trên đây của Đảng NDCM Lào , những
năm qua CHDCND Lào đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. CHDCND Lào đã đẩy mạnh quan hệ kinh
tế song phương và đa phương phát triển quan hệ đầu tư với gần 50 nước, tham
gia quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như ngân hàng thế giới
(UB), quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng phát triển Châu Á (ADB). Chúng
ta rất coi trọng việc liên kết với các nước Đơng Nam á, từ đây chúng ta có thể
mở rộng liên kết với các nước người tổ chức ASEAN.
Để nâng cao vị thế của CHDCND Lào trên trường quốc tế cũng như đa
dạng hoá các mối quan hệ kinh tế. CHDCND Lào đã tham gia sáng lập diễn
đàn Á - Âu (ASEAN), gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC) trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Kế thừa và phát huy những thành tựu trong quan hệ đối ngoại trong
thời kỳ đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở CHDCND Lào đòi hỏi
“phải thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp
tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ quốc tế. CHDCND Lào là bạn, đối tác đáng tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế”.
Việc chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn liền với
hàng loạt giải pháp: đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế
quốc tế sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và
song phương; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, thực hiện cam
kết với các nước về thương mại, đầu tư và các thương mại khác; chuẩn bị tốt
các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa
phương…