Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận môn chính sách công chính sách và thành tựu giáo dục singapore những bài học kinh nghiệm cho việt nam xong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.17 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: CHÍNH SÁCH CƠNG

Đề tài:
HÃY TRÌNH BÀY HIỂU BIẾT CỦA ANH (CHỊ) VỀ MỘT CHÍNH
SÁCH CƠNG ĐƯỢC COI LÀ THÀNH CÔNG CỦA CÁC NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI VÀ CHỈ RA NHỮNG GIÁ TRỊ CÓ THỂ THAM KHẢO
CHO VIỆT NAM?


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................3
1. Giới thiệu chung về Singapore......................................................................3
2. Những điểm nổi bật trong nội dung chính sách giáo dục của Singapore......4
2.1. Ngân sách chi cho giáo dục........................................................................5
2.2. Chính sách song ngữ..................................................................................6
2.3. Kết hợp mơ hình giáo dục theo kiểu phương Đơng và phương Tây.......10
2.4. Phương pháp dạy ít hơn, học nhiều hơn...................................................11
2.4.1. Lý do đưa ra chính sách này.................................................................11
2.4.2. Chính sách được thực hiện như thế nào?..............................................11
2.4.3. Thách thức đối với mơ hình giáo dục này.............................................14
2.5. Đầu tư giảng dạy mơn tốn và khoa học trong các trường học................14
3. Ưu điểm và hạn chế trong chính sách giáo dục của ...................................15
3.1. Ưu điểm....................................................................................................15
3.2. Hạn chế....................................................................................................17
4. Bài học kinh nghiệm cho giáo dục Việt Nam.............................................18
4.1.Tăng cường việc dạy và học tiếng Anh.....................................................18
4.2. Chú trọng đầu tư chất lượng giáo viên bằng các biện pháp thực tế........19
4.3. Đào tạo đáp ứng nhu cầu thị trường lao động.........................................20


KẾT LUẬN....................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................23


1

MỞ ĐẦU
Chính sách cơng là cơng cụ hữu hiệu chủ yếu để nhà nước thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình, duy trì sự tồn tại và phát triển của nhà nước,
phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ người dân. Dưới góc độ quản lý, quản trị
quốc gia, Singapore sử dụng chính sách cơng như một cơng cụ quan trọng tác
động vào các lĩnh vực đời sống xã hội để đạt được mục tiêu định hướng của
nhà nước.
Singapore được biết đến như là một đất nước đồng thời cũng là một
thành phố với diện tích chỉ vào khoảng 600km

2.

. Mặc dù vậy Singapore lại

trở thành quốc gia phát triển nhất khu vực Đông Nam Á. Ngay từ đầu thập
niên 90 Singaporre đã là một trong 4 con rồng châu Á, tốc độ kinh tế duy trì
ổn định thể hiện qua các năm : năm 1990 là 8,5%, năm 1991 là 6,7%( Phan
Ngọc Liên : “ Giáo dục - một động lực phát triển của Singapore”) đến năm
2007 đạt mức 7,7% [8]. Chỉ số GDP của Singaporre cũng có dấu hiệu tăng
trưởng khá rõ rệt. Nếu như năm 1960 GDP của Singaporre đạt 0,7 tỉ$và thu
nhập bình quân theo đầu người mới chỉ đạt 427$/người/năm thì đến năm 2005
GDP của Singaporre đạt mức trên 116 tỉ$ và thu nhập bình quân theo đầu
người đạt 26.892$/người/năm [9]. Những con số trên đã phản ánh sự phát
triển vượt bậc của Singaporre trong hơn 4 thập kỉ qua kể từ khi tách khỏi Liên

bang Malaysia năm 1965.
Có nhiều ý kiến cho rằng đóng góp vào sự thành cơng của Singapore
như ngày nay ngoài những nguyên nhân phải kể đến như : Vị trí địa lí thuận
lợi, khả năng lãnh đạo linh hoạt, bộ máy nhà nước trong sạch phải kể đến hệ
thống chính sách cơng rất có hiệu quả của đất nước Singapore. Trong đó
chính sách giáo dục là một trong những chính sách cơng thành cơng nhất, góp


2

phần không nhỏ vào sự phát triển của đảo quốc này và trở thành một trong
những nguồn nội lưc vô cùng quan trọng.
Chính vì vậy để trả lời cho câu hỏi “Hãy trình bày hiểu biết của anh
(chị) về một chính sách cơng được coi là thành cơng của các nước trên thế
giới và chỉ ra những giá trị có thể tham khảo cho Việt Nam? em đã chọn
chính sách công về giáo dục đào tạo của Singaporre để nghiên cứu và tham
chiếu.


3

NỘI DUNG
1. Giới thiệu chung về Singapore
Nếu như những năm đầu thập niên 50 của thế kỉ trước chúng ta được
chứng kiến sự phát triển thần kì của Nhật Bản- một quốc gia bại trận sau thế
chiến thứ hai đã vươn lên mạnh mẽ và đến nay đã trở thành cường quốc thứ
hai trên thế giới sau Mĩ thì đến những năm đầu thập niên 70 sự phát triển thần
kì ấy được lặp lại ở quốc đảo Singapore. Sau chiến tranh thế giới thứ hai,
Singapore gặp nhiều khó khăn: là một đảo quốc với diện tích nhỏ bé khơng
đầy 650km2, nghèo tài nguyên thiên nhiên, mức sống của người dân thấp, đất

canh tác tỉ lệ nghịch với dân số, đất chật người đông, nạn thất nghiệp ngày
càng tăng cao. Hơn nữa, Singapore lại vừa trải qua một thời kì dài nằm dưới
ách thống trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây nên nền kinh tế vẫn trong
tình trạng lạc hậu. Do những khó khăn đó, Singapore đã gia nhập Liên bang
Malaysia vào năm 1963 với mục đích tìm kiếm thị trường nội địa để phát
triển. Tuy nhiên từ năm 1963 – 1965 nền kinh tế Singapore đã không thể phát
triển được giống như kế hoạch mà những nhà cầm quyền đưa ra cùng với đó
là sự mâu thuẫn gay gắt về quyền lợi giữa tư sản người Hoavà tư sản người
Malaysia nên các nhà cầm quyền Singapore quyết định chuyển hướng chiến
lược tách Singapore ra khỏi Malaysia năm 1965. Sau đó các nhà lãnh đạo
Singapore quyết tâm thi hành các chính sách phát triển kinh tế xã hội và đạt
được một số kết quả đáng mừng như : ngay từ đầu những năm 80 của thế kỉ
trước Singapore đã là một nước công nghiệp mới, phúc lợi xã hội của người
dân ngày càng được nâng cao. Từ đầu những thập niên 90 thu nhập quốc dân
của Singapore đã đạt 7.000$ và đang phấn đấu trở thành Thụy Sĩ của châu Á
(Phan Ngọc Liên : Giáo dục – một dộng lực phát triển của Singapore). Năm
2002 GDP đạt 160 tỉ $ [3]. Năm 2005 theo báo cáo của ngân hàng thế giới


4

Singapore được xếp hạng thứ 3 trên tổng số 45 nước trên thế giới có mơi
trường kinh doanh thuận lợi. Singapore trở thành quốc gia sử dụng dịch vụ
viễn thông lớn nhất tại châu Á với tỉ lệ sử dụng dịch vụ Internet là 42 %.
Tháng 3/ 2002 Tạp chí Economist đưa ra cho thấy chất lượng sống tại
Singapore còn vượt hơn cả hai thành phố London và New York dựa trên tiêu
chuẩn đánh giá trên 39 lĩnh vực bao gồm ổn định chính trị, tự do cá nhân, ơ
nhiễm mơi trường, chất lượng chăm sóc y tế, trường học nhà hát, nhà hàng…
[3]
Thành cơng đó có được từ những chính sách hết sức linh họat, nhạy

bén của chính phủ Singapore trong sự phát triển kinh tế, đẩy mạnh hợp tác
đầu tư, xây dựng bộ máy hành chính trong sạch, và một yếu tố góp phần vơ
cùng quan trọng trong thành cơng đó là nhờ sự đầu tư vào giáo dục.
2. Những điểm nổi bật trong nội dung chính sách giáo dục của
Singapore
Chính phủ Singapore rất nỗ lực trong việc đưa ra các chính sách nhằm
phát triển kinh tế - xã hội như : “tập trung vị trí địa lí thuận lợi để phát triển
kinh tế hàng hóa xuất nhập khẩu, giao thương trên biển, tăng cường phát triển
khoa học kĩ thuật nhằm đưa Singapore trở thành một quốc gia có nền văn
minh điện tóan, một xã hội có độ chín về văn hóa, một thành phố hồn hảo,
một xã hội ưu việt”(Trần Khánh : Phát triển và thích nghi nguồn nhân lực với
cơng nghiệp hóa-kinh nghiệm của Singapore ). Trong các chính sách nhằm
phát triển đất nước sau khi tách khỏi Liên bang Malaysia của Singapore là
phát triển giáo dục và đề ra các chính sách giáo dục trọng điểm như : chú
trọng đầu tư ngân sách cho giáo dục, thu hút nhân tài ở trong và ngoài nước,
kết hợp cả phương pháp giáo dục của phương Đông và phương Tây, chú trọng
giảng dạy các môn khoa học tự nhiên,( đặc biệt là mơn tốn), áp dụng phương
pháp dạy ít học nhiều.


5

2.1. Ngân sách chi cho giáo dục
Chính phủ Singapore xác định đào tạo con người là một quốc sách
hàng đầu nhằm biến Singapore trở thành một xã hội có học vấn cao và xác
định đây là mục tiêu trọng điểm của quốc gia này từ khi thành lập cho đến
nay. Chính vì thế mà ngân sách chi cho giáo dục ln ở con số khổng lồ chỉ
đứng sau quốc phịng. Năm 1960-1970 ngân sách chi cho giáo dục của
Singapore vào loại cao nhất ở châu Á, bình quân hàng năm chiếm tới 20%
tổng ngân sách quốc gia (Trần Khánh : “Phát triển và thích nghi nguồn nhân

lực với cơng nghiệp hóa – kinh nghiệm của Singapore’’) Năm 1960 chi phí
cho giáo dục là $600.000 , đến năm 1963 lên đến $ 10.000.000 (Lê Thị Thanh
Hương : “ Tính cộng đồng, tính cá nhân và thành cơng trong phát triển đất
nước của Singapore ”)
Trong thập niên 80 chính phủ Singapore đã đề ra “cương lĩnh hoạt
động đến năm 1999”. Một phần trong cương lĩnh nhấn mạnh đên việc tăng
cường đầu tư cho giáo dục. Để tạo thêm nguồn vốn cho giáo dục , chính phủ
Singapore vào những năm 1980 đã thành lập Quỹ phát triển kĩ năng. Nguồn
vốn của quỹ là do các ơng chủ xí nghiệp, cơng ty đóng góp với 2% tiền thu
nhập hàng tháng của mình( Phan ngọc Liên : “ Giáo dục – một động
luwjcphast triển của Singapore” ). Mặt khác chính phủ kêu gọi các cơng ty tổ
chức chính phủ trên thế giới giúp đỡ Singapore về nguồn vốn, thiết bị kĩ
thuật, giảng viên và chương trình giảng dạy để thành lập các trung tâm đào
tạo và nghiên cứu tại nước này. Cách làm này không những tạo thêm nguồn
vốn để phát triển nguồn nhân lực mà còn là một trong những cách tốt nhất cho
lực lượng lao động tiếp cận và lĩnh hội nhanh chóng những kiến thức và công
nghệ tiên tiến nhất của thế giới. Ngồi ra, chính phủ cịn khuyến khích các tổ
chức cộng đồng quyên góp tiền của xây dựng trường học cho con em mình.
Việc làm này đã giúp mở ra rất nhiều trường học mới đáp ứng nhu cầu của


6

ngành giáo dục và phát huy tinh thần đoàn kết của tồn dân vì một nền giáo
dục phát triển. Kết quả là đến những năm 80 có nhiều trung tâm nghiên cứu
đào tạo do người nước ngoài giúp đỡ xây dựng ở nước này như : Học viện
Nhật- Singapore, Học viện Pháp- Singapore, Học viện Đức – Singapore…
(Trần Khánh : “ Phát triển và thích nghi nguồn nhân lực với coongn ghiệp hóa
– kinh nghiệm của Singapore” )Điều này cho thấy chính phủ Singapore đã rất
nhạy bén trong việc giáo dục, huy động nguồn vốn đầu tư cho giáo dục từ

nguồn vốn sẵn có trong nước và nước ngồi, việc làm này một mặt phát huy
nội lực bên trong đất nước làm cho người dân có ý thức trong việc xây dựng
giáo dục quốc dân, mặt khác thu hút sự quan tâm của nước ngồi nhằm tạo
tính cạnh tranh, tăng cường phát triển hơn nữa giáo dục, tạo dựng mối quan
hệ với bạn bè quốc tế và tiếp thu công nghệ từ khắp nơi trên thế giới
2.2. Chính sách song ngữ
Lý do Singapore chọn chính sách song ngữ
Năm 1959, Thủ tướng Lí Quang Diệu và cộng sự quyết định dùng tiếng
Malay làm quốc ngữ song sau đó các nhà lãnh đạo đã nhận ra rằng tiếng Anh
phải là ngôn ngữ nơi làm việc và là ngôn ngữ chung. Bên cạnh đó tỏng dư
luận xã hội có nhiều luồng phản ứng khi đề nghị chính phủ đảm bảo vị thế
của người Hoa như một ngơn ngữ chung vì người Hoa chiếm một số lượng
đông đảo dân số của Singapore . Từ những vấn đề đó chính phủ Singapore đã
đưa ra phương án song ngữ nhằm mục đích để tiếng Anh trở thành ngôn ngữ
chung ở Singapore làm cầu nối cho mọi cơng dân có nguồn gốc chủng tộc
khác nhau. Do vậy chính phủ áp dụng xây dựng Giáo trình song ngữ hay
chính sách tiếng mẹ đẻ và chính sách này đã trở thành một nền tảng của hệ
thống giáo dục Singapore. Anh ngữ là ngôn ngữ duy nhất và là phương tiện
giao tiếp trong giáo dục ở nhà trường. Phần lớn học sinh sinh viên được yêu
cầu học một năm tiếng mẹ đẻ. Ở đây 3 ngơn ngữ chính là Hoa, Tamil,


7

Malay .Môn tiếng mẹ đẻ là một môn bắt buộc ở kì thi cuối cấp 1 và kì thi
GCE( Advanced level )của các trường Singapore kết hợp cùng trường
Cambridge trong chương trình dự bị đại học . Sinh viên được yêu cầu đạt
được một chuẩn mực thông thạo tiếng mẹ đẻ của họ như là một yếu tố tiên
quyết được nhận vào các đại học địa phương.
- Chính sách song ngữ nhằm duy trì hịa bình sắc tộc

Chính sách song ngữ chính thức được cơng nhận vào năm 1966 nhằm
đảm bảo sự đa dạng văn hóa, thực hiện nguyên tắc song ngữ và bình đẳng của
4 luồng giáo dục Melayu, Trung Quốc, Anh và. Tamil. Theo đề nghị này các
trường đều phải giảng dạy bằng 4 thứ tiếngvà học sinh tiểu học nhất thiết phải
học song ngữ đó là tiếng Anh và tiếng mẹ đẻ.Việc xác định chính sách song
ngữ trong giáo dục Singapore là một quyết sách hoàn toàn đúng đắn vì
Singapore là một cộng đồng đa dân tộc, mỗi một tộc người có một bản sắc
văn hóa ,ngơn ngữ riêng và dân tộc nào cũng muốn duy trì bản sắc dân tộc đó
Singapore khơng có tơn giáo nào là quốc giáo. Theo số liệu điều tra dân số
tháng 7/ 2003 dân số Singapore là 4.608.595 người trong đó người Hoa chiếm
76,4%, Ấn Độ chiếm 6,4%, người Singapore 14,9%, các dân tộc khác 2,3%
(Phạm Mộng Hoa : “ Địa lí kinh tế xã hội các nước ASEAN ” tập 1 ). Như
vậy Singapore vẫn là một quốc gia đa dân tộc cho đến ngày nay. Chính sách
song ngữ là chính sách nhằm mục đích tạo nên sự hịa bình giữa các sắc tộc.
Mỗi một thời kì ở Singapore lại có một chính sách ngơn ngữ riêng phù hợp
với thời kì đó. Dưới thời thuộc địa Singapore đã có một cộng đồng nói nhiều
thứ tiếng. Người Anh để mặc dân chúng quyết định cách giáo dục con cái.
Chính phủ xây dựng một số lượng giới hạn trường tiếng Anh nhằm đào tạo
thư kí, thủ kho, … cũng như những trường dạy tiếng Malay cho người Malay.
Người Ấn điều hành các trường tiểu học hoặc các lớp dạy học bằng tiếng Ấn,
Tamil. Người Hoa xây dựng trường học nhờ vào tài chính của những người


8

thành đạt trong cộng đồng để dạy tiếng Hoa. Do các sắc tộc khác nhau được
dạy dỗ bằng ngôn ngữ của chính họ cho nên họ có sự gắn bó về mặt tình cảm
với tiếng mẹ đẻ rất sâu sắc. Họ khơng dễ dàng gì từ bỏ ngơn ngữ của mình để
nói một ngơn ngữ hồn tồn khác. Họ cũng giống như 5 triệu người sống ở
Quebec kiên trì giữ gìn tiếng Pháp trong một đại lục có đến 300 triệu người

nói tiếng Anh . Hơn nữa một vấn đề cấp thiết cần được giải quyết ngay đó là
phải có một ngôn ngữ chung trong lực lượng vũ trang Singapore vì sẽ rất khó
khăn để chỉ huy một tập thể mà nói nhiều thổ ngữ khác nhau cũng như phải
đương đầu với một viễn cảnh bước vào trận chiến mà khơng hiểu nhau dù có
sử dụng bất kì ngơn ngữ nào trong 4 ngơn ngữ chính thức đi chăng nữa. Do
đó chính sách song ngữ đã giữ ngun tiếng mẹ đẻ trong giáo dục sẽ không
làm mất đi truyền thống của họ làm họ cảm thấy giá trị văn hóa dân tộc mình
được lưu giữ giữa một quốc gia đa văn hóa đa dân tộc.
-. Tiếng Anh –ngơn ngữ quốc tế
Trong xu hướng tồn cầu hóa như hiện nay, Tiếng Anh là ngôn ngữ
quốc tế, ngôn ngữ nơi làm việc và đặc biệt rất phù hợp với một cộng đồng
giao thương như Singapore. Tiếng Anh sẽ phá vỡ những rào cản ngơn ngữ và
văn hóa trong giao tiếp lớp trẻ đồng thời xóa bỏ đi những bất cơng trong cơ
hội tìm kiếm việc làm giữa các thí sinh tốt nghiệp trường tiếng Anh và các
trường tốt nghiệp thứ tiếng khác. Thông thạo tiếng Anh là một công cụ cho họ
tiếp cận được những tri thức tiên tiến nhất trên thế giới hiện nay, phục vụ đắc
lực cho sự nghiệp công nghiêp hóa hiện đại hóa, mang đến cho người
Singapore sự tự tin và khẳng định mình trong thế giới châu Á mà từ xa xưa
con người không biết đến cái tơi của mình và tạo điều kiện cho sự tiếp xúc
với văn hóa phương Tây lấy cá nhân làm trung tâm cũng thâm nhập ngày
càng mạnh ở nước này. Năm 1971, tiếng Anh trở thành ngôn ngữ quốc gia,
ngôn ngữ hành chính thống nhất của Singapore. . Vì thế chính sách song ngữ


9

được đưa ra là để nguyên giá trị vốn có của nó với 4 ngơn ngữ chính thức là
tiếng Malay, tiếng Hoa (phổ thông) tiếng Tamil và tiếng Anh. Do đó chính
phủ đề ra việc học 3 thứ tiếng Quan Thọai , Malay, Tamil ở các trường tiếng
Anh và giới thiệu việc học tiếng Anh trong các trường dạy bằng tiếng Hoa,

tiếng Hoa tiếng Malay và Tamil. Thực tế đã chứng minh việc sử dụng đồng
thời cả tiếng Anh là một nhân tố quan trọng. Năm 1966 Đại học
Nanyang( Natah) là đại học dạy bằng tiếng Hoa sau này phải đối đầu với
những khó khăn. Cơ hội kiếm việc làm cho những người tốt nghiệp ở trường
này rất ít. Số lượng sinh viên đến học ở Đại học Singapore ngày càng tăng vì
Đaih học Singapore lúc đó sử dụng giảng dạy cả tiếng Anh trong trường đại
học là một điều kiên jthuaanj lợi để sinh viên sau khi tốt nghiệp có cơ hội tìm
liếm việc làm cao. Những sinh viên giỏi hơn ở các trường tiếng Hoa thi lấy
chứng chỉ Anh ngữ của trường Cambridge với tư cách là thí sinh tự do để có
thể vào học ở Đại học Singapore. Đại học Nanyang phải hạ điểm chuẩn đầu
vào cũng như tiêu chuẩn tốt nghiệp nhưng việc làm này đồng nghĩa với việc
là giảm đi uy tín của trường và giá trị của những người tốt nghiệp (Lí Quang
Diệu : “Bí quyết hóa rồng ”). Do vậy càng thấy được vai trò của việc học
tiếng Anh trong một cộng đồng đa sắc tộc ở Singapore là rất cần thiết .
- Sự phản đối của người Hoa
Khi chính sách này của chính phủ được đưa ra họ cũng phải đối mặt
với một làn sóng phản đối mạnh mẽ của những người gốc Hoa. Khi đề ra
chính sách song ngữ thì hiệp hội nhà giáo người Hoa, các ủy ban quản lí
trường tiếng Hoa, chủ bút, chủ báo và phóng viên báo tiếng Hoa đã phản đối.
Cuối năm 1970 tờ báo tiếng Hoa lớn nhất là Nanyang SiangPang viết nhiều
bài báo buộc tội chính quyền đàn áp ngơn ngữ, nền giáo dục văn hóa của
người Hoa. Họ vẽ chân dung của Thủ tướng Lí Quang Diệu như một kẻ đàn


10

áp trong một chính phủ “tồn những kẻ ngoại lai qn tổ tơng” ( Lí Quang
Diệu : “ Bí quyết hóa rồng ”)
2.3. Kết hợp mơ hình giáo dục theo kiểu phương Đông và phương
Tây

Singapore là một đất nước của những người nhập cư từ rất nhiều quốc
gia đặc biệt là ở khu vực châu Á. Chính vì thế ở Singapore nét văn hóa
phương Đơng được giữ gìn và phát huy một cách mạnh mẽ trong đó người
Hoa chiếm phần lớn dân số ở đảo quốc này và văn hóa của họ cũng chiếm ư
thế hơn so với các quốc gia khác. . Thực tế trong thời đại hội nhập và phát
triển như hiện nay việc kết hợp những giá trị truyền thống phương Đông và
giá trị hiện đại của phương Tây cũng là một việc làm hết sức cần thiết. Về
mặt giáo dục và đào tạo chính phủ Singapore đã nhận thấy điểm mạnh của hệ
thống giáo dục phương Đông là định hướng thi cử và trọng nhân tài. Điểm
mạnh của hệ thống giáo dục phương Tây chú trọng phát triển cá tính và phát
triển tồn diện . Do đó việc kết hợp cùng lúc hai mơ hình giáo dục này sẽ đào
tạo ra những con người Singapore mới tồn diện, có nhân cách, biết giữ gìn
các giá trị đạo đức chân chính, sống khoan dung và có lịng tự hào về bản thân
mình và đất nước mình. Ở Singapore các nền văn hóa, tơn giáo tín ngưỡng
đều được trân trọng. Tuy nhiên với một số dân là người Hoa chiếm ưu thế thì
Nho giáo vẫn chiếm vị trí chủ đạo.Thủ tướng Lí Quang Diệu cho rằng Khổng
học giáo dục nhân cách tốt hơn, và muốn duy trì một xã hội tốt đẹp thì khơng
thể khơng giữ gìn các giá trị truyền thống, xây dựng một người Singapore
mang đậm màu sắc Trung Hoa truyền thống : tôn trọng kỉ cương, cần cù lao
động, tự lực, tôn trọng thành quả chung, củng cố gia đình,ý thức về bổn phận
và nghĩa vụ, ham học. Chính phủ rất chú trọng việc giáo dục Nho học trong
thế hệ thanh thiếu niên, chính vì thế từ năm 1984 Bộ giáo dục Singapore đã
chính thức đưa mơn học Khổng giáo thành mơn lí luận cho tất cả các trường


11

phổ thơng. Song song với đó, nhà trường cịn tổ chức cho học sinh tham gia
các họat động ngoại khóa, giải trí, thể thao, nghệ thuật biểu diễn ….là những
hoạt động bên lề của giáo dục. Những chính sách trên cho thấy, Singapore là

một đất nước hiện đại, tuy nhiên những giá trị văn hóa truyền thống mà tiêu
biểu ở đây là Singapore kết hợp được giá trị của Nho giáo và phát huy song
song với sự giáo dục theo kiểu phương tây. Sự kết hợp ấy đã mang lại cho
Singapore một ưu thế đóng góp khơng nhỏ cho sự phát triển giáo dục mà còn
cả trong các lĩnh vực kinh tế ( tơn trọng chữ tín, cạnh tranh lành mạnh) chính
trị ( chống tham ơ,tham nhũng, gây dựng được lòng tin tuyệt đối ở nhân dân)
2.4. Phương pháp dạy ít hơn, học nhiều hơn
2.4.1. Lý do đưa ra chính sách này
Trước năm 1997 giáo dục Singapore vẫn còn mang nặng những đặc
điểm của nền giáo dục theo kiểu truyền thống Á Đơng. Phương pháp giảng
dạy đó cịn máy móc, chỉ giúp cho sinh viên ghi nhớ kiến thức và để vượt
qua các kì thi, khơng giúp phát huy tính sáng tạo trong học sinh sinh viên.
Năm 2005 Bộ giáo dục Singapore đưa ra khẩu hiệu dạy ít Hơn, học nhiều hơn
( Teach less, learn more), nhằm tăng cường khả năng tư duy, dộc lập trong
suy nghĩ, tìm tịi, sáng tạo trong học sinh, sinh viên. Học các kĩ năng sống,
hòa nhập với cộng đồng, hòa nhập với thế giới, kĩ năng lãnh đạo. kĩ năng xử
kí tình huống. Đây là những kĩ năng cần thiết cho con người trong thời đại
ngày nay khi mà thế giới đang ngày càng tiến tới sự hội nhập, hợp tác.
2.4.2. Chính sách được thực hiện như thế nào?
Mơ hình “Dạy ít, học nhiều” được thực hiện từng bước một chứ không
phải là một bước chuyển đột ngột. Một ví dụ về việc thực hiện mơ hình này là
sự ra đời của chương trình “Project Work” vào năm 2000, cho phép sinh viên
học cách làm việc nhóm và áp dụng kiến thức vào thực tế[7].


12

Theo Bộ giáo dục Singapore, Project Work là một phương pháp đào
tạo, theo đó các mơn học sẽ được tích hợp, kết nối với nhau giúp sinh viên
khám phá sự gắn kết và thống nhất giữa chúng. Project Work sẽ giúp sinh

viên phát triển kỹ năng trong 4 lĩnh vực sau:


Áp dụng kiến thức: Sinh viên được học các kỹ năng nghiên cứu cơ

bản, áp dụng và lưu chuyển kiến thức giữa các môn học khác nhau và tạo mối
liên hệ giữa chúng.


Truyền thông: Sinh viên học cách truyền đạt ý tưởng một cách rõ

ràng và hiệu quả.


Hợp tác: Sinh viên phát triển các kỹ năng xã hội thông qua các bài

tập làm việc nhóm nhằm đạt mục tiêu chung.


Học tập độc lập: Sinh viên phải chịu trách nhiệm và tự quản lý sự

học của mình, phát triển thái độ học tập và nghiên cứu tích cực.
Project Work được chú trọng hơn ở trường Trung học cơ sở, Trung học
phổ thông. Đối với trường tiểu học, Bộ giáo dục đưa ra chính sách “Giáo dục
tích cực” (Strategies for Effective Engagement and Development – SEED),
kêu gọi giáo viên xây dựng các chiến lược hiệu quả để kích thích tinh thần
học tập của học sinh ngay từ khi các em mới bước chân vào trường học.[15]
Theo chính sách này, các trường tiểu học sẽ phải cải thiện cả chương trình
giảng dạy và phương pháp đánh giá chất lượng giáo dục. Ví dụ, Trường tiểu
học Rulang đã tổ chức lại chương trình học để học sinh hào hứng và tham gia

tích cực hơn vào bài giảng. Các em được học các kiến thức và kỹ năng thông
qua những hoạt động vui tươi, hấp dẫn và phù hợp. Để hỗ trợ việc đổi mới
giáo dục, Bộ giáo dục Singapore cam kết thực hiện những thay đổi về cấu trúc
chương trình học và cung cấp những nguồn lực cần thiết. Bộ sẽ tăng cường
tính linh hoạt, chủ động của các trường bằng cách rút gọn chương trình giảng
dạy tới 10-20% để tạo “thời gian trống”. Giáo viên được tự do giành thời gian


13

trống thực hiện các bài giảng do họ tự thiết kế, áp dụng nhiều phương pháp
giảng dạy, đánh giá đa dạng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của từng học sinh. Bộ
giáo dục giảm 2 giờ làm mỗi tuần cho mỗi giáo viên để họ có thêm thời gian
lên kế hoạch giảng dạy và trao đổi kinh nghiệm chuyên mơn.
Theo chiến lược “Dạy ít, học nhiều”, Giáo dục Singapore tập trung
nâng cao chất lượng học tập của sinh viên bằng cách tạo thêm nhiều “khoảng
trống” trong chương trình học để giáo viên có thể thực hiện những kế hoạch
giảng dạy riêng, cùng sinh viên định hình một mơi trường giáo dục riêng và
bồi dưỡng nghiệp vụ. Với mơ hình “Dạy ít, học nhiều”, kiểu học vẹt, học vì
thành tích sẽ bị loại bỏ. Thay vào đó, sinh viên sẽ chủ động hơn trong học tập,
khám phá tri thức thông qua các thí nghiệm, trải nghiệm thực tế, học các kỹ
năng sống và xây dựng nhân cách nhờ chiến lược đào tạo hiệu quả và sáng
tạo. Ngoài ra, sinh viên cũng có thêm nhiều cơ hội học tập và rèn luyện toàn
diện để phát triển tư duy, nhân cách và những tố chất để thành cơng trong
tương lai.
Mơ hình “Dạy ít, học nhiều” đã được áp dụng ở nhiều trường học
Singapore, đơn cử như Trường trung học Bedok South, học sinh được học
làm phim và thiết kế poster cho Quỹ Trái tim Singapore, thiết kế bộ sạc điện
thoại nhờ phần mềm máy tính…Khơng chỉ thế, trường học cịn tạo điều kiện
để các em biến thiết kế của mình thành sản phẩm thực sự. Với những hoạt

động như vậy, học sinh đã đồng thời được học nhiều môn học khác nhau: Âm
nhạc, nghệ thuật, thiết kế, cơng nghệ.
. Về tài chính, Bộ giáo dục dành khoảng 40 triệu đô la Singapore để
xây dựng cơ sở vật chất cho trường học nhằm đảm bảo tính chủ động của giáo
viên và học sinh. Các trường có thể được trang bị các lớp học đặc biệt phù
hợp với cả hoạt động tập thể, hoạt động nhóm, “phố sinh thái” để học về khoa
học tự nhiên, hoặc một nhà hát để học nghệ thuật biểu diễn.[7]


14

2.4.3. Thách thức đối với mơ hình giáo dục này
Nhiều người cho rằng hệ thống giáo dục cũ có thể tiếp tục vận hành
theo mơ hình hiện tại mà vẫn đem lại kết quả tốt. Đó chính là một thách thức
lớn đối với chiến lược “Dạy ít, học nhiều” bởi những cách tân theo kế hoạch
của chính phủ sẽ là đem lại những bất lợi do tồn tại từ lâu một hệ thống giáo
dục theo kiểu truyền thống. Để thực hiện thành cơng mơ hình “Dạy ít, học
nhiều”, giáo viên và những người quản lý giáo dục phải hiểu rằng học tập tích
cực. Một người học tích cực là người dành tồn tâm tồn ý cho việc học tập,
càng tích cực bao nhiêu thì chất lượng học tập càng tăng bấy nhiêu.
Theo kiểu giáo dục truyền thống, giáo viên cung cấp thông tin và kiến
thức để học sinh học thuộc và “nhai đi nhai lại”. Theo mơ hình mới này,
người học phải là người chủ động trong quá trình học; giáo viên chỉ đóng vai
trị hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ.
2.5. Đầu tư giảng dạy mơn tốn và khoa học trong các trường học
Chính phủ Singapore xác định cần chú trọng giáo dục các mơn khoa
học tự nhiên, tốn học trong trường học. Hiện nay, Singapore là quốc gia
được xếp hàng đầu trong cả hai lĩnh vực toán và khoa học tại một cuộc nghiên
cứu tập trung ở lứa tuổi học sinh lớp 4 ( tiểu học) và lớp 8 ( trung học ) được
tiến hành tại 49 quốc gia vào năm 2002-2003 đã xác nhận chất lượng cao của

các chương trình đào tạo tốn và khoa học tại các trường công lập của
Singapore[10]. Bộ giáo dục Singapore thu hút rất nhiều nhà khoa học hàng
đầu về các lĩnh vực khoa học và kĩ thuật làm giảng sư tại các trường đại học
và trả cho họ mức lương cực kì hấp dẫn cùng điều kiện làm việc tốt. Ngày
14/01/2009 Bộ giáo dục Singapore đa trao cho mười nhà khoa học xuất sắc
trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, khoa học nano, năng lượng mặt trời, y
khoa,…đến từ các quốc gia như Mĩ, Nhật , Trung Quốc…đã nhận được học


15

bổng hỗ trợ nghiên cứu hàng năm trị giá 15 triệu $ do Quỹ nghiên cứu quốc
gia Singapore (NRF) trao tặng .[2]
Các nhà khoa học trên được tuyển chọn từ 186 ứng cử viên trên toàn
thế giới. Mỗi người nhận được học bổng trị giá 1,5 triệu USD, số tiền này
phục vụ cho chu kỳ nghiên cứu cơng trình khoa học của họ trong vịng ba
năm ở Singapore. Ngồi học bổng, các nhà khoa học này còn được trả lương
tương ứng khi làm việc trong các viện nghiên cứu trong thời gian ở đảo quốc
này. Đây là lần thứ hai NRF trao học bổng hỗ trợ nghiên cứu cho các nhà
khoa học trên khắp thế giới nhằm thu hút các nhân tài trẻ đến Singapore làm
việc. Báo Straits Times dẫn lời tiến sĩ Francis Yeih, giám đốc quỹ NRF cho
biết tổ chức này đang nhắm đến mục đích thu hút khoảng 50-100 nhà khoa
học trẻ trên thế giới đến Singapore bằng học bổng NRF, nhằm xây dựng lực
lượng khoa học hùng mạnh đến Singapore nghiên cứu và làm việc trong mọi
lĩnh vực khoa học. Mười nhà khoa học này là nhóm thứ hai nhận học bổng
của NRF kể từ năm 2007.[2]
3. Ưu điểm và hạn chế trong chính sách giáo dục của .
3.1. Ưu điểm
Từ những chính sách giáo dục đó Singapore đã đạt được rất nhiềut
hành tựu xuất sắc như sau :

Theo thống kê năm 1996 tỉ lệ người biết chữ trong độ tuổi 15 trở lên là
92,2 % trong đó nam giới là 96,4 % , nữ giới là 87,8%.[3,24]
Học sinh của Singapore được giáo dục bằng tiếng Anh ngay từ những
năm đầu bước vào tiểu học, học song song cùng chính sách song ngữ. Lợi thế
về tiếng Anh đó là điều kiện thuận lợi để họ tiếp cận những nền tri thức tiên
tiến nhất trên thế giới.Khả năng giao tiếp tiếng Anh tốt cùng với những yếu tố
chủ quan và khách quan khác đã giúp Singapore trở thành trung tâm tài chính,
tiền tệ lớn và khối lượng giao dịch tiền tệ cao ( năm 1975 có 70 ngân hàng


16

nước ngồi và 36 đại diện của nhiều cơng ty tài chính quốc tế, đến năm 1985
Singapore có 192 ngân hàng thương mại và 34 cơng ty hành chính, 84 công ty
bảo hiểm) Trong 100 ngân hàng lớn trên thế giới thì có đến 70 ngân hàng đặt
chi nhánh họat động tại Singapore (Phạm Thị Ngọc Thu : “ Bí quyết hóa rồng
của Singapore ”). Tính đến năm 2006 Singapore có đến 6000 cơng ty đa quốc
gia họat động thuận lợi. Bên cạnh đó, Singapore cịn là một điểm du lịch hấp
dẫn ở khu vực và trên thế giới là do có tiềm năng về lĩnh vực này như : một
quốc gia đa dân tộc, nhiều bản sắc văn hóa, cơ sở hạ tầng khang trang và hiện
đại và lợi thế về khả năng nói tiếng Anh là một yếu tố không thể thiếu được.
Do được học tiếng Anh và tiếp xúc với văn minh phương tây khá sớm nên
người Singapore được tiếp cận với những nền văn hóa phương Tây và do đó
việc hịa nhập trong một xã hội, một nền kinh tế hiện đại là điều đơn giản.
Singapore là quốc gia sử dung dịch vụ viên thông lớn nhất ở châu Á với tỉ lệ
sử dụng dịch vụ Internet là 41% [3]
- Trường Đại học Quốc gia Singapore (NUS) được xếp hạng 18 trong
chương trình khảo sát 200 trường đại học tốt nhất trên thế giới năm 2004 của
Thời báo Ln Đơn. NUS cịn xuất hiện trên hàng top trong số các trường
bách khoa và IT, đứng thứ 9 trong bảng xếp hạng các ngành học, vượt xa

nhiều trường đại học danh tiếng khác[3] Trong bảng xếp hạng Những trường
Đại học tốt nhất châu Á năm 2000 của tạp chí Asiaweek, Trường Đại học
Quốc gia Singapore (NUS) được xếp ở vị trí thứ 5 trong tổng số 77 trường
Đại học trong bảng xếp hạng toàn diện các trường học có nhiều ngành học đa
dạng ở châu Á. Trường Đại học Kỹ thuật Nanyang (NTU) đứng thứ 9 trong
tổng số 39 trường Đại học trong bảng xếp hạng toàn diện các trường Đại học
khoa học và kỹ thuật. Và trong bảng xếp hạng các trường Đại học Quản trị
hàng đầu châu Á năm 2000, Trường Thương mại NUS được đánh giá là một
trong những “Trường đào tạo Thạc sĩ Quản trị bán thời gian tốt nhất” và nhận


17

được danh hiệu “Trường học danh tiếng nhất”. Những trường đại học này rõ
rang flà đã đào tạo ra một nguồn nhân lực chất lượng cao, năng động, có kiến
thức phục vụ trong rất nhiều ngành nghề. Đây là một yếu tố quan trọng góp
phần đưa Singapore phát triển.
- Trường Đại học Kỹ thuật Nanyang (NTU), những sinh viên học
ngành Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh của trường cũng được bình chọn trong số
“những sinh viên xuất sắc nhất thế giới” trong một cuộc điều tra nghiên cứu
xếp hạng do Economist Intelligence Unit, một thành viên của Tập đoàn Kinh
tế tiến hành khảo sát vào năm 2004[3]
NTU nằm trong số 100 trường đào tạo Thạc sĩ Quản trị hàng đấu trên
thế giới.
- Sau Nhật Bản, giáo dục Singapore đang dần khẳng định thương hiệu
của mình trong khu vực. 70000 sinh viên quốc tế ( trong đó có 4000 sinh viên
Việt Nam ) chọn đây là địa điểm du học lí tưởng.[3]
3.2. Hạn chế
Tuy chính giáo dục của Singrapore có những đóng góp đáng kể trong
sự phát triển giáo dục, kinh tế, xã hội, con người ở Singapore nhưng chúng ta

cũng khơng thể phủ nhận những mặt hạn chế của chính sách này như :
- Chính sách song ngữ bằng tiếng Anh và tiếng Malay, tiếng Hoa hay
tiếng Tamil đều là gánh nặng lên vai học sinh vì 3 ngơn ngữ mẹ đẻ này hồn
tồn khơng can hệ gì đến tiếng Anh. Tiếng Quan Thoại ( tiếng Hoa phổ
thông ) thuộc ngữ hệ Hán Tạng, tiếng Malay thuộc ngữ hệ Nam Đảo, tiếng
Tamil thuộc ngữ hệ Nam Á.Bản thân 3 thứ tiếng này cùng nằm trong một
châu lục nhưng cũng không có mối liên quan gì tới nhau, chứ chưa xét đến
mối liên hệ với một ngôn ngữ phương Tây là tiếng Anh.
- Khi dùng tiếng Anh làm ngôn ngữ giảng dạy những giá trị Nho giáo
truyền thống không thể được củng cố trong tồn trường học bởi vì cả giáo


18

viên lẫn học sinh đều là những người thuộc nhiều chủng tộc và sách giáo khoa
không được viết bằng tiếng Hoa. Chính sách “nhiều tiếng nói một ngơn ngữ”
cũng là một nguy cơ làm giảm đi giá trị truyền thống đạo đức trong sinh viên
qua việc tăng tiếp xúc với văn hóa phương tây.
-Họ được giáo dục bằng tiếng Anh từ nhỏ nên rất thuần thục tiếng Anh.
Những người có bằng cấp ở Singapore muốn du học và làm việc tại những
môi trường tốt hơn như Anh, Úc là điều rất dễ dàng vì họ có trong tay chìa
khóa tiếng Anh vì thế đây cũng là mơt hạn chế do nó thúc đẩy tình trạng chảy
máu chất xám ở Singapore.
4. Bài học kinh nghiệm cho giáo dục Việt Nam
Singapore và Việt Nam cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á do đó
cũng có đơi nét tương đồng về văn hóa, hồn cảnh lịch sử. Tuy nhiên mỗi
nước lại có những chính sách khác nhau trong bước đi của mình. Ngày nay
Singapore đã trở thành một trung tâm giáo dục hàng đầu ở khu vực Đông
Nam Á và khu vực cũng như tầm ảnh hưởng trên thế giới. Sức hút từ giáo dục
Singapore ngày càng lớn không chỉ đối với Việt Nam mà còn với các nước

khác. Từ những bài học đem lại thành công cho giáo dục Singapore em nhận
thấy có rât nhiều bài học Việt Nam có thể tiếp thu được và xây dựng trong
tương lai không xa.
4.1.Tăng cường việc dạy và học tiếng Anh
Bộ giáo dục Việt Nam cần có những chính sách hợp lí hơn nưa để đưa
môn tiếng Anh vào trường học một cách sâu rộng hơn nữa, làm cho tiếng Anh
không chỉ là một môn học mà còn là một ngoại ngữ quan trọng cho học sinh.
Nguyên Thủ tướng Lí Quang Diệu đã gợi ý Đại học Việt Nam nên có sách
giáo khoa tiếng Anh ở các ngành kĩ thuật, công nghệ, bởi nếu chỉ dùng sách
Việt Nam thì chắc chắn sẽ tụt hậu. Trên thực tế hiện nay tất cả các kĩ sư làm
việc quốc tế đều có khả năng nói tiếng Anh rất tốt. Ông cảnh báo rằng nếu tất



×