Tiểu luận Triết Học Triết Học Heghen- đỉnh cao của triết học Đức
MỤC LỤC
HVTH: Trần Thị Anh Thi, Lớp Triết KHTN - tháng 10 Giảng viên: GS.TS Vũ Tình
Trang 1
Tiểu luận Triết Học Triết Học Heghen- đỉnh cao của triết học Đức
LỜI MỞ ĐẦU
(Georg Wilhelm Friedrich Hegel; 1770 - 1831), nhà triết học duy tâm
khách quan, đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức, người xây dựng nên
phép biện chứng duy tâm. Triết học của Hêghen là đỉnh cao của chủ nghĩa duy
tâm Đức cuối thế kỉ 18 - đầu thế kỉ 19
Hêgen đã để lại cho nhân loại một di sản triết học khổng lồ với những tư
tưởng cực kỳ phong phú và sâu sắc. Ông từng nói:"Cái triết học mới nhất của
một thời đại là kết quả của hết thẩy các triết học đã có từ trước và phải bao gồm
những nguyên lý của tất cả những triết học đó". Chính ông đã thực hiện xuất sắc
yêu cầu đó với việc phân tích, phê phán các trào lưu triết học, các triết gia trước
ông và cùng thời với ông. Hệ thống triết học của Hêgen đã bao quát nhiều lĩnh
vực và phát triển nhiều tư tưởng phong phú và đặc sắc, có ý nghĩa vạch thời đại.
Vì vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định:"Nếu không có triết học Đức mở đường, đặc
biệt là nếu không có triết học Hêgen, thì chủ nghĩa xã hội khoa học Đức - chủ
nghĩa xã hội khoa học duy nhất chưa hề có từ trước đến nay, sẽ không bao giờ
được xây dựng nên".
HVTH: Trần Thị Anh Thi, Lớp Triết KHTN - tháng 10 Giảng viên: GS.TS Vũ Tình
Trang 2
Tiểu luận Triết Học Triết Học Heghen- đỉnh cao của triết học Đức
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Lúc còn là sinh viên, Marx đã xem hệ thống triết học Hegel như “biển cả mênh
mông” trong đó chứa nhiều hạt châu quý giá. Khoảng một thập kỷ sau, tuy nhận
thấy sự đối lập về chất giữa phương pháp biện chứng duy tâm của Hegel và
phương pháp biện chứng duy vật, Marx vẫn đánh giá Hegel như người có công
đẩy nền triết học Đức lên sự phát triển mới.
Xác định vị trí lịch sử của triết học Hegel, F.Engels viết: “ Nền triết học hiện đại
Đức đã hoàn thành trong hệ thống Hegel, công lao vĩ đại của ông thể hiện ở
chỗ, ông lần đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần trong
dạng quá trình, nghĩa là trong sự vận động biến đổi, cải tạo và phát triển không
ngừng, và cố khám phá mối liên hệ bên trong của sự vận động và phát triển
đó…Hegel chưa giải quyết được nhiệm vụ này, công lao lịch sử của ông là ở chỗ
ông đã đặt nó ra…”
Tìm hiểu về triết học duy tâm Đức, em muốn nghiên cứu triết Học Heghen, ý
nghĩa của phép biện chứng Heghen. Và cũng muốn tìm hiểu sâu sắc hơn câu nói
của F.Engels “ Nền triết học hiện đại Đức đã hoàn thành trong hệ thống Hegel”
Em xin cảm ơn những kiến thức quý báo của Thầy GS.TS Vũ Tình đã truyền
đạt cho em, để em có cơ sở nghiên cứu và tìm hiểu nhiều hơn, sâu hơn.
Do quá trình nghiên cứu cũng như kiến thức và tài liệu còn nhiều hạn chế nên
bài viết còn nhiều thiếu sót, chưa được đầy đủ. Em mong nhận được sự góp ý
của Thầy để bài viết được thực sự hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn Thầy
HVTH: Trần Thị Anh Thi, Lớp Triết KHTN - tháng 10 Giảng viên: GS.TS Vũ Tình
Trang 3
Tiểu luận Triết Học Triết Học Heghen- đỉnh cao của triết học Đức
NỘI DUNG
Chương 1: TỔNG QUAN TRIẾT HỌC ĐỨC
Triết học cổ điển Đức ra đời và phát triển trong những điều kiện của chế
độ chuyên chế Nhà nước Phổ. Song, thời kỳ cuối thế kỷ XVIII cuộc Cách mạng
tư sản Pháp (1789) ảnh hưởng mạnh đến nước Phổ, và Hêghen là một người tán
dương cuộc cách mạng đó. Đồng thời xã hội Phổ lúc này với những điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt đã làm nảy sinh hệ tư tưởng có tính chất tiểu tư sản,
thoả hiệp. Tất cả cái đó tạo nên nét riêng của triết học cổ điển Đức.
Đặc trưng những học thuyết duy tâm của triết học cổ điển Đức là: khôi
phục lại truyền thống phép biện chứng; bước chuyển từ chủ nghĩa duy tâm chủ
quan, tiên nghiệm của Cantơ đến chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen;
phê phán phép siêu hình truyền thống "lý tính"; chú ý đến vấn đề triết học lịch
sử.
Cantơ, phichtơ, Sêlinh, Hêghe, phoiơbắc là những đại biểu lớn của triết
học cổ điển Đức đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển triết học vào cuối
thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX góp phần làm cho triết học cổ điển Đức trở
thành một tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Mác.
1. Cantơ
(Immanuel Kant, 1724-1804)
Nét nổi bật trong triết học của Cantơ là đã trình bày những quan niệm
biện chứng của mình về giới tự nhiên.
Triết học Cantơ là triết học nhị nguyên. Một mặt ông thừa nhận sự tồn tại
của thế giới các "vật tự nó" ở bên ngoài con người. Thế giới đó có thể tác động
tới các giác quan của chúng ta. ở điểm này, Cantơ là nhà duy vật. Nhưng mặt
khác thế giới các vật thể quanh ta mà ta thấy được lại không liên quan gì đến cái
gọi là "thế giới vật tự nó", chúng chỉ là "các hiện tượng phù hợp với cái cảm
giác và cái tri thức do lý tính của ta tạo ra.
HVTH: Trần Thị Anh Thi, Lớp Triết KHTN - tháng 10 Giảng viên: GS.TS Vũ Tình
Trang 4
Tiểu luận Triết Học Triết Học Heghen- đỉnh cao của triết học Đức
2.
Phíchtơ (Johann Gottlieb Fichte, 1762-1814)
Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở Đông Phổ. Sau khi tốt
nghiệp đại học, ông tìm đến koenisberg và chịu ảnh hưởng sau sắc bởi nhà triết
học của thành phố này – Căntơ.
Xuất phát từ triết học tiên nghiệm của Căntơ. Phíchtơ muốn xây dựng
Triết Học thành một
Khoa học luận
hay
khoa học về khoa học
để nó thức hiện sứ
mệnh vĩ đại là mang lại cho con người một cách nhìn mới và đúng đắn về chính
bản thân mình, làm cho con người sống với chính mình và cuối cùng trở thành
con người thật sự. Triết học của ông được chia ra thành triết học
lý luận và triết
học thức tiễn
.
Phíchtơ đã để lại cho nhâh loại nhiều tác phẩm khoa học và triết học có
giá trị như
“Các nguyên lý của lý luận chuung về khoa học”, “quan niệm về chiến
tranh chính nghĩa”.
3.
Sêlinh (Friedrich Wilhelm Joep Schelling, 1775-1854)
Schelling là một gương mặt sáng giá của triết học cổ điển Đức. Các học
thuyết triết học của hầu hết các nhà triết học cổ điển Đức sau Schelling , ít
nhiều, đều chịu ảnh hưởng của ông
Ở thế kỷ XX, những tư tưởng của Schelling đã được tiếp nhận và phát
triển trong triết học đời sống và triết học hiện sinh. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
đánh giá cao phép biện chứng trong triết học tự nhiên, cũng như học thuyết
phát triển của Schelling, coi đó là những nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn
đến sự hình thành triết học của Hêgen.
Sự phát triển tư tưởng triết học của Schelling là một quá trình lâu dài và
phức tạp. Trong quá trình suy ngẫm triết học của ông, chúng ta thấy nổi lên ba
khái niệm vô cùng quan trọng: tự nhiên, đồng nhất và mặc khải. Ba khái niệm cơ
bản ấy đã được cụ thể hóa trong các công trình cơ bản của ông như triết học tự
nhiên (từ giữa những năm 90 của thế kỷ XVIII), chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm
(1800 - 1801), triết học đồng nhất (trước 1840), triết học tự do (trước 1813) và
cuối đời là triết học mặc khải.
Thế nhưng, triết học của ông lại không có chỗ cho sự vận động và phát
triển, cũng không có cả thời gian. Và nơi dừng lại của Schelling lại là nơi bắt đầu
của Hêgen trong dòng chảy triết học cổ điển Đức
4.
Hêghen(Gioócgiơ Vinhem Phriđrích Hêghen, 1770 - 1831)
HVTH: Trần Thị Anh Thi, Lớp Triết KHTN - tháng 10 Giảng viên: GS.TS Vũ Tình
Trang 5
Tiểu luận Triết Học Triết Học Heghen- đỉnh cao của triết học Đức
Hêghen nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm khách quan.
Triết học của ông đầy mâu thuẫn. Nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt
nhân hợp lý, chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống triết học
duy tâm của ông phủ nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân bên
trong, vốn có của sự phát triển của tự nhiên và xã hội. Ông cho rằng khởi
nguyên của thế giới không phải là vật chất mà là "ý niệm tuyệt đối" hay "tinh
thần thế giới". Tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự
vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn. "ý
niệm tuyệt đối", theo nhận xét của Lênin, chỉ là một cách nói theo đường vòng,
một cách nói khác về Thượng đế mà thôi.
Hêghen đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và ông là người
đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá
trình, nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Đồng thời
trong khuôn khổ của hệ thống triết học duy tâm của mình. Hêghen không chỉ
trình bày các phạm trù như chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn mà còn nói đến
cả các quy luật như "lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại", "phủ định của
phủ định", và quy luật mâu thuẫn. Nhưng tất cả những cái đó chỉ là quy luật vận
động và phát triển của bản thân tư duy, của ý niệm tuyệt đối.
Trong các quan điểm xã hội, Hêghen đã đứng trên lập trường của chủ
nghĩa sôvanh, đề cao dân tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác, coi nước Đức là
"hiện thân của tinh thần vũ trụ mới". Chế độ Nhà nước Phổ đương thời được
Hêghen xem nó như đỉnh cao của sự phát triển nhà nước và pháp luật.
Tóm lại, hệ thống triết học của Hêghen (gồm ba bộ phận chính: lôgíc học,
triết học về tự nhiên, triết học về tinh thần) là một hệ thống duy tâm, mà thực
chất của nó "là ở chỗ lấy cái tâm lý làm điểm xuất phát, từ cái tâm lý suy ra giới
tự nhiên" (Lênin). Hệ thống triết học duy tâm đó cùng với các quan điểm chính
trị phản động của Hêghen đã được các nhà lý luận tư sản kế thừa và phát triển
dưới các hình thức khác nhau. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, chủ nghĩa
"Hêghen mới" đã trở thành xu thế điển hình của triết học tư sản và là một bộ
phận của hệ tư tưởng phátxít.
HVTH: Trần Thị Anh Thi, Lớp Triết KHTN - tháng 10 Giảng viên: GS.TS Vũ Tình
Trang 6
Tiểu luận Triết Học Triết Học Heghen- đỉnh cao của triết học Đức
Chương 2: Triết Học Heghen - đỉnh cao của Triết Học Đức
1. Hoàn thiện biện chứng duy tâm:
Từ nửa cuối thế kỷ XV, khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển mạnh, đi sâu
vào phân tích, nghiên cứu từng yếu tố riêng biệt của thế giới tự nhiên, dẫn tới sự
ra đời của phương pháp siêu hình. Đến thế kỷ XVIII, phương pháp siêu hình trở
thành phương pháp thống trị trong tư duy triết học và nghiên cứu khoa học. Tuy
nhiên, khi khoa học tự nhiên chuyển từ việc nghiên cứu đối tượng riêng biệt
sang nghiên cứu quá trình thống nhất của các đối tượng đó trong mối liên hệ thì
phương pháp tư duy siêu hình không còn phù hợp mà phải chuyển sang một
hình thức tư duy mới cao hơn là tư duy biện chứng.
Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Cantơ và hoàn
thiện ở Hêghen. Theo Ph.Ăng ghen: "Hình thức thứ hai của phép biện chứng,
hình thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết học cổ
điển Đức, từ Cantơ đến Hêghen."
Tính chất duy tâm trong triết học Hêghen biểu hiện ở chỗ ông coi biện
chứng là quá trình phát triển khởi đầu của "ý niệm tuyệt đối", coi biện chứng chủ
quan là cơ sở của biện chứng khách quan. Theo Hêghen, "ý niệm tuyệt đối" là
điểm khởi đầu của tồn tại tự "tha hóa" thành giới tự nhiên và trở về với bản thân
nó trong tồn tại tinh thần. "Tinh thần, tư tưởng, ý niệm là cái có trước, còn thế
giới hiện thực chỉ là một bản sao chép của ý niệm". Các nhà triết học duy tâm
Đức, mà đỉnh cao nhất là Hêghen, đã xây dựng phép biện chứng duy tâm với hệ
thống phạm trù, quy luật chung, có lôgíc chặt chẽ của ý thức, tinh thần.
V.I.Lênin cho rằng: "Hêghen đã đoán được một cách tài tình biện chứng của sự
vật (của những hiện tượng, của thế giới, của giới tự nhiên) trong biện chứng của
khái niệm".
PhĂngghen cùng nhấn mạnh tư tưởng của C.Mác "Tính chất thần bí mà
phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản
Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức
những hình thái vận động chung của phép biện chứng.
Ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó
lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của
nó" .
HVTH: Trần Thị Anh Thi, Lớp Triết KHTN - tháng 10 Giảng viên: GS.TS Vũ Tình
Trang 7
Tiểu luận Triết Học Triết Học Heghen- đỉnh cao của triết học Đức
2. Đẩy phép biện chứng lên đỉnh cao
Với Hegel, thế giới quan biện chứng, và cùng với nó, phương pháp biện
chứng đã được xác lập một cách có hệ thống. Phép biện chứng từ tự phát trở
thành tự giác, thành một khoa học. Trong triết học của mình, Hegel đã thể hiện
tính kế thừa và tính phủ định biện chứng của tư duy triết học.
Đối với Kant, ông có thái độ khá thẳng thắn với các dòng triết học tiền bối
và đương thời, Hegel thừa nhận giá trị của triết học Kant ở sự nhấn mạnh năng
lực tiên nghiệm của nhận thức, xem mâu thuẫn (nghịch lý) của quá trình tư duy
là tất yếu, ông cũng thấy rõ những hạn chế của triết học Kant như sau:
thứ
nhất,
hiểu không rõ ràng và không nhất quán khái niệm tính chủ quan và tính
khách quan
Đối với Schelling, Hegel xác định hai thời kỳ phát triển tư tưởng khác
nhau. Thời kỳ đầu, Schelling xây dựng triết học tự nhiên, nơi chứa đựng vài yếu
tố cách mạng và biện chứng. Thời kỳ thứ hai, Schelling trượt dài theo chủ nghĩa
thần bí, phi lý tính. “Triết học tự nhiên của Schelling- Hegel viết- là sự pha trộn
hỗn tạp giữa chủ nghĩa kinh nghiệm thô thiển và những hình thức phi lý của tư
duy, sự tuỳ tiện hoàn toàn của trí tưởng tượng và những cách lý giải hết sức tầm
thường. Hegel đồng ý với Schelling ở chỗ giác tính thấp hơn lý tính, nhưng ông
phản đối việc đưa khái niệm xuống vai trò là người thể hiện tư duy giác tính,
logic hình thức, đó là một sự hạ thấp bản thân tư duy lý tính. Hegel cho rằng
cách diễn giải của Schelling về trực giác đã biến quá trình nhận thức từ chỗ là sự
tìm tòi, khám phá chân lý đầy nan giải đến với sự tìm tòi chân lý một cách vô
vọng đối với chủ thể
Hegel là nhà duy tâm duy lý nên chủ nghĩa kinh nghiệm không làm ông
hài lòng, ông phủ nhận quan điểm của Locke, người cho rằng
cảm giác là cơ sở
thực tế của tinh thần, tư duy.
Công lao của Hegel là đưa phép biện chứng ra khỏi ý nghĩa thông thường,
biến nó từ một phương pháp đơn thuần thành khoa học về sự vận động và phát
triển phổ biến. “phép biện chứng- Hegel viết - là linh hồn vận động của mọi sự
triển khai tư tưởng một cách khoa học và là nguyên lý duy nhất đưa vào nội
dung của khoa học
mối liên hệ bên trong và tính tất yếu” .
Logic học như chúng
ta đã thấy, tạo nên phần quan trọng nhất của hệ thống triết học Hegel, bởi vì
theo ông sự đồng nhất tư duy và tồn tại có nghĩa là: các quy luật của tư duy do
logic học nghiên cứu cũng được xem như các quy luật của tồn tại, của tự nhiên,
lịch sử loài người và nhận thức.
Toàn bộ hệ thống triết học Hegel được trình bày dưới dạng tam đoạn thức
(chính đề – phản đề – hợp đề), với ba bộ phận cấu thành là
Logic học
(gồm học
thuyết về tồn tại, học thuyết về bản chất, học thuyết về khái niệm ),
Triết học tự
HVTH: Trần Thị Anh Thi, Lớp Triết KHTN - tháng 10 Giảng viên: GS.TS Vũ Tình
Trang 8
Tiểu luận Triết Học Triết Học Heghen- đỉnh cao của triết học Đức
nhiên
(cơ học, vật lý, vật lý hữu cơ ),
Triết học tinh thần
(tinh thần chủ quan,
tinh thần khách quan, tinh thần tuyệt đối ). Lôgíc học tìm hiểu vấn đề
tư duy,
triết học tự nhiên tập trung làm sáng tỏ các vấn đề của
tự nhiên,
còn triết học
tinh thần, với tính cách là sự thống nhất các mặt đối lập vừa nêu, tìm hiểu các
lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Đó cũng là trình tự nguyên thuỷ của hệ thống
Hegel, mặc dù có thể sắp xếp theo những cách khác, mà ở đó các yếu tố cấu
thành làm trung giới cho nhau, chẳng hạn tự nhiên – tinh thần – tư duy, hay tinh
thần – tự nhiên – tư duy.
Tiếp cận với triết học tinh thần là triết học pháp quyền, triết học lịch sử,
thẩm mỹ học, triết học tôn giáo và lịch sử triết học.
Là người sinh ra, lớn lên và hoạt động ở thời đại của những chuyển biến
lịch sử to lớn gắn liền với sự phát triển như vũ bão của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, Hegel biết lĩnh hội, khái quát, nâng lên thành lý luận những
thành tựu rực rỡ của các ngành khoa học, các lĩnh vực thực tiễn. Nhưng mặt
khác, ông là công dân của một xã hội trì trệ về kinh tế, bảo thủ về chính trị nên
không dễ bứt ra khỏi vòng cương tỏa của những quan niệm sai lầm, phi lịch sử.
Điều đó lý giải vì sao trong triết học Hegel hội đủ hai yếu tố: đỉnh cao của phép
biện chứng trước Marx và đồng thời là đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm cổ điển
Đức.
HVTH: Trần Thị Anh Thi, Lớp Triết KHTN - tháng 10 Giảng viên: GS.TS Vũ Tình
Trang 9
Tiểu luận Triết Học Triết Học Heghen- đỉnh cao của triết học Đức
KẾT LUẬN
Tuy có những hạn chế trong lĩnh vực chính trị - xã hội nhưng thành tựu
của triết học cổ điển Đức thật là vĩ đại.
Triết học cổ điển Đức mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến
trình lịch sử nhân loại, nó đề cao vai trò hoạt động tích cực của con người. Khắc
phục triết học truyền thống phương Tây. Nó coi con người là chủ thể hoạt động
như là vấn đề nền tảng, xuất phát điểm của một vấn đề triết học.
Kế tục tư tưởng triết học cổ đại (Xôcrat cho triết học là sự tự ý thức của
con người về chính bản thân mình) và phục hưng (coi con người là trung tâm).
Cantơ lần đầu tiên hiểu con người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình
hoạt động của mình, khẳng định hoạt động thực tiễn cao hơn lý luận. Hêghen
phát triển thêm tư tưởng này và coi bản thân lịch sử phươn thức tồn tại của con
người, mỗi cá nhân hoàn tòan làm chủ vận mệnh của mình. Ông khẳng định:
con người là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất là định vì vậy nó mang bản
chất xã hội.
Trước những thành tựu khổng lồ của kinh tế - xã hội, khoa học - văn hoá.
Các nhà triết học cổ điển Đức từ Cantơ đến Hêghen đều đề cao sức mạnh trí
tuệ và khả năng hoạt động của con người.
Tuy vậy phải thấy một trong những thành tựu to lớn của triết học cổ điển
Đức, mà đỉnh cao là triết học Heghen nó khẳng định rằng tư duy và ý thức chỉ
có thể phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới. Con
người là chủ thể, đồng thời là kết quả của toàn bộ nền văn minh do chính mình
tạo ra, nghiên cứu tiến trình lịch sử nhân loại cũng như toàn bộ mối quan hệ con
người - tự nhiên như một quá trình phát triển biện chứng.
Tuy từ lập trường duy tâm, các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên
các hệ thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, lôgic biện
chứng, học thuyết về các quá trình phát triển, mà tìm tòi lớn nhất trong tất cả cá
tìm tòi của họ đó là phép biện chứng.
Với cách nhìn tổng quát và phương pháp biện chứng, các nhà triết học cổ
điển Đức có ý đồ hệ thống hoá toàn bộ tri thức và thành tựu mà nhân loại đã
đạt được. Tiếp thu tinh hoa của siêu hình học thế kỷ XVIII trong việc phát triển
tư duy lý luận và hệ thống hoá toàn bộ tri thức loài người, Hêghen có ý đồ xây
dựng một hệ thống triết học vạn năng làm nền tảng cho thế giới quan của con
người, khôi phục lại các quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học.
Phải nói rằng: triết học cổ điển Đức, mà đỉnh cao là triết học Heghen
là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối
HVTH: Trần Thị Anh Thi, Lớp Triết KHTN - tháng 10 Giảng viên: GS.TS Vũ Tình
Trang 10
Tiểu luận Triết Học Triết Học Heghen- đỉnh cao của triết học Đức
thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển ở
phương Tây, đồng thời nó ảnh hưởng to lớn đến triết học hiện đại.
HVTH: Trần Thị Anh Thi, Lớp Triết KHTN - tháng 10 Giảng viên: GS.TS Vũ Tình
Trang 11
Tiểu luận Triết Học Triết Học Heghen- đỉnh cao của triết học Đức
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên CH & NCS không thuộc chuyên
ngành triết học) – chủ biên PGS, TS Đoàn Quang Thọ
[2] Bài Giảng Triết Học (Dùng cho học viên CH & NCS không thuộc chuyên
ngành triết học) – GS, TS. Vũ Tình.
[3] Triết học mác – lênin, đồng chủ biên GS TS Nguyễn Ngọc Long, GS TS
Nguyễn Hữu Vui.
[4] Triết học cổ điển Đức, NXB sự thật Hà Nội.
[5] Các trang web về Triết học.
HVTH: Trần Thị Anh Thi, Lớp Triết KHTN - tháng 10 Giảng viên: GS.TS Vũ Tình
Trang 12