Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

niên luận lãi suất huy động vốn tổ chức tín dụng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.86 KB, 15 trang )

MỤC LỤC Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Nội dung nghiên cứu

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. QUY ĐỊNH CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT HUY
ĐỘNG VỐN CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
I. Tổng quan về huy động vốn và lãi suất huy động vốn
1. Khái niệm, đặc điểm huy động vốn-nhận tiền gửi
2. Lãi suất nhận tiền gửi
II. Tổng quan về pháp luật lãi suất huy động vốn-nhận tiền gửi
1 .Khái niệm lãi suất huy động vốn
2 .Thẩm quyền quy định lãi suất huy động
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ……
I.Thực trạng pháp luật về lãi suất huy động vốn của NHTM VN……………….
1. Khái quát nội dung quy định pháp luật về huy động vốn của NHTM VN
2. Đánh giá pháp luật về về lãi suất huy động vốn của NHTM VN
II. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về lãi suất huy động vốn của các ngân
hàng thương mại Việt Nam
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh. Trong hoạt động kinh
doanh cần phải dự liệu được sự biến đổi của các yếu tố kinh tế, ảnh hưởng tới sự
hoạt động cũng như sự phát triển của Ngân hàng. Từ đó đưa ra được chiến lược
đúng đắn, hiệu quả trong kinh doanh. Lãi suất là một trong những yếu tố có tầm
quan trọng và ảnh hưởng đến sự sống còn của Ngân hàng. Ngân hàng nhà nước sử


dụng lãi suất như một công cụ hữu hiệu trong thực hiện chính sách tiền tệ, với
những quy định cụ thể về lãi suất cơ bản, trần lãi suất… buộc các Ngân hàng phải
tuân theo, nhằm điều hành chính sách tiền tệ, bình ổn thị trường.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, trong lĩnh vực ngân hàng có nhiều biến
động. Theo đó là những quyền lợi, lợi ích của nhóm kinh tế và của người dân nói
riêng, sự phát triển của nền kinh tế nói chung, sẽ phải giải quyết như thế nào để các
Ngân hàng có thể thu hút được lượng tiền nhàn rỗi của các khách hàng, bù đắp chi
phí, lại vừa đảm bảo trần lãi suất được áp dụng hiệu quả như mục tiêu của chính
sách. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra quy định áp dụng mức trần lãi suất,
nhưng rất nhiều Ngân hàng vẫn thi nhau vượt trần quá mức cho phép. Việc áp trần
lãi suất huy động có thể làm giảm lãi suất cho vay để chống cho vay nặng lãi hay
không? Việc áp trần lãi suất cho vay liệu có giảm lãi suất thị trường để cứu Doanh
Nghiệp? Hay lại hạn chế nguồn cung vốn cho thị trường, hạn chế cơ hội tiếp cận
vốn của Doanh Nghiệp, hạn chế ngân hàng huy động động vốn dẫn đến thiếu hụt
nguồn cung lúc đó lãi suất cho vay không thể giảm mà còn tăng cao hơn so với
trước.
Những câu hỏi đó chính là động lực để em thực hiện đề tài “ Pháp luật về lãi
suất huy động vốn của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam-thực tiễn và một số biện
pháp hoàn thiện” để làm rõ hơn về vấn đề lãi suất huy động vốn, ý nghĩa, vai trò
thực hiện công cụ lãi suất của ngân hàng nhà nước trong thực hiện chính sách tiền
tệ. Tìm ra giải pháp để xây dựng một chính sách lãi suất đúng đắn ở nước ta có một
ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Điều này không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với
quá trình xây dựng và điều hành một chính sách lãi suất phù hợp với cơ chế quản
lý kinh tế hiện nay, mà còn rất quan trọng đối với quá trình hình thành và hoạt
động một cách có hiệu quả của hệ thống thị trường tài chính ở Việt Nam, góp phần
giải quyết những khó khăn về vốn, đảm bảo sự thắng lợi cho công cuộc công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
2. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
2.1. Phạm vi nghiên cứu
2

Phạm vi nghiên cứu xoay quanh vấn đề huy động vốn, lãi suất huy động vốn, ý
nghĩa, vai trò thực hiện công cụ lãi suất của ngân hàng nhà nước trong thực hiện
chính sách tiền tệ. Cụ thể theo quy định của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất huy
động và các văn bản hướng dẫn thi hành lãi suất huy động.
2.2. Mục đích nghiên cứu đề tài
- Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của những quy định về huy động
vốn, Lãi suất huy động vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam .
- Tìm hiểu quy định của Ngân hàng Nhà nước và các văn bản pháp luật liên quan
về lãi suất huy động vốn của các tổ chức tín dụng, qua đó đối chiếu so sánh giữa
quy định của pháp luật đối với thực tiễn. Từ đó, đưa ra các kiến nghị, đề xuất nhằm
hoàn thiện các quy định của pháp luật với thực tiễn về lãi suất huy động vốn của
các tổ chức tín dụng, góp phần bảo đảm việc nhận thức và áp dụng quy định của
pháp luật được thống nhất trong thực tiễn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn để tìm ra mối liên hệ giữa các hiện tượng
để đánh giá các vấn đề nghiên cứu một cách khoa học. Sử dụng các phương pháp
phân tích, so sánh, diễn giải, tổng hợp, chứng minh … cũng được sử dụng trong
quá trình thực hiện đề tài.
4. Nội dung đề tài gồm hai chương
Chương 1: Quy định cơ bản của pháp luật về lãi suất huy động vốn của tổ chức
tín dụng
Chương 2: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về lãi suất huy động
vốn của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam.
CHƯƠNG 1: QUY ĐỊNH CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ LÃI SUẤT
HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. T ổng quan về huy động vốn và lãi suất huy động vốn
1.Khái niệm, đặc điểm huy động vốn- nhận tiền gửi
3
Hoạt động “huy động vốn” xuất hiện khá lâu đời và không ngừng phát triển,
thay đổi cùng với sự phát triển của các ngân hàng thương mại, tuy nhiên không tìm

được một định nghĩa hoàn thiện về hoạt động này cũng như không có được sự
thống nhất hoàn toàn giữa các quan điểm dưới các góc nhìn khác nhau. Dưới khía
cạnh pháp lí trong các văn bản luật hiện nay, cũng như các công trình nghiên cứu
khoa học pháp lý…vẫn chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về vấn đề này. Nhưng
thông qua các quy định của pháp luật cũng cho ta phần nào hình dung một cách
chính xác nhất nội hàm của khái niệm này. Cụ thể, tại Chương 4 Mục 1 Luật Các
tổ chức tín dụng 2010 quy định bốn hình thức của hoạt động huy động vốn: Nhận
tiền gửi; Phát hành giấy tờ có giá; Vay vốn giữa các tổ chức tín dụng; Vay vốn của
Ngân hàng nhà nước.
Như vậy : huy động vốn là hoạt động của các ngân hàng thương mại mà trong đó
các ngân hàng này tìm kiếm nguồn vốn khả dụng từ các chủ thể khác nhằm mục
đích kinh doanh và đảm bảo sự vận hành bình thường, hiệu quả của bản thân nó
theo đúng các quy định pháp luật.
Trong các hình thức huy động vốn của tổ chức tín dụng, huy động vốn bằng
nhận tiền gửi là phương thức huy động vốn được sử dụng xưa nhất và cho đến hiện
nay nó vẫn là hình thức huy động vốn quan trọng nhất về mặt kinh tế, và chiếm tỉ
lệ lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động ở mỗi tổ chức tín dụng. Việc huy động
vốn bằng nhận tiền gửi là một hình thức huy động vốn đặc trưng riêng có của các
tổ chức tín dụng và của các tổ chức khác được nhà nước cho phép hoạt động ngân
hàng. Tuy nhiên, tùy thuộc vào các loại hình hoạt động mà các tổ chức này được
phép thực hiện các loại hình huy động vốn bằng tiền gửi khác nhau. Khoản 13
Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định “Nhận tiền gửi là hoạt động
nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ
hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các
hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho
người gửi tiền theo thỏa thuận”
Như vậy, trên phương diện pháp lý thì “quan hệ tiền gửi” là quan hệ kinh tế phát sinh
giữa một bên là tổ chức, cá nhân gửi tiền với bên kia là tổ chức được phép nhận tiền
gửi. Và có những đặc điểm riêng giúp ta phân biệt với các quan hệ vay nợ thông thường
khác.

Thứ nhất, về chủ thể: Quan hệ gửi tiền bao gồm hai loại chủ thể là người gửi
tiền và tổ chức tín dụng. Người gửi tiền là tổ chức, cá nhân trong xã hội có nhu cầu
gửi tiền và có tiền để gửi. Họ đóng vai trò là người cho vay trong quan hệ này. Tổ
chức nhận tiền gửi là các Tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân
hàng, được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi của
công chúng (sự cho phép của Ngân hàng Nhà nước được thể hiện bằng việc ghi
4
nhận nghiệp vụ này trong giấy phép hoạt động). Trong quan hệ gửi tiền, tổ chức
nhận tiền gửi đóng vai trò là bên đi vay.
Thứ hai, về hình thức của quan hệ: Hình thức của quan hệ gửi tiền được xác
lập theo một cách thức riêng (giấy đề nghị gửi tiền) mang tính nghiệp vụ chuyên
biệt, được lập theo mẫu in có sẵn của TCTD nhận tiền gửi nhằm bảo đảm tính tiện
lợi, nhanh chóng, đơn giản mà vẫn chứa đựng đầy đủ những nội dung cần thiết của
một hợp đồng vay nợ.
Thứ ba, về mục đích: Trong quan hệ gửi tiền mỗi bên đều hướng tới những
mục đích riêng, thậm chí trong mỗi loại tiền gửi khác nhau người gửi tiền lại
hướng đến các mục đích khác nhau.
- Đối với tổ chức nhận tiền gửi: Mục đích của việc nhận tiền gửi là nhằm
huy động vốn để sử dụng cho hoạt động kinh doanh của mình thông qua việc cấp
tín dụng hoặc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng cho khách hàng. Chính từ hoạt
động này các tổ chức nhận tiền gửi được gọi là các “trung gian tài chính”, đóng vai
trò là cầu nối giữa cung - cầu vốn, hoạt động kinh doanh theo phương thức “đi vay
để cho vay”.
- Đối với người gửi tiền: Việc tham gia quan hệ gửi tiền nhằm mục đích vừa
để đảm bảo an toàn cho tiền vốn (tiền gửi vào sẽ được tổ chức nhận tiền gửi trông
giữ, bảo quản hộ) vừa để đồng vốn sinh lời khi chưa có nhu cầu sử dụng hoặc để
hưởng những tiện ích do tổ chức nhận tiền gửi cung ứng như dịch vụ thanh toán,
chuyển tiền Người gửi tiền có thể hướng tới một, hai hoặc cả ba mục đích trên.
Tuy nhiên, mục đích của họ được thể hiện rõ nhất thông qua hình thức gửi tiền hay
loại tiền gửi mà họ lựa chọn. Ví dụ: Một người gửi tiền không kỳ hạn tại ngân

hàng dưới hình thức thẻ tín dụng thì mục đích mà họ hướng tới là sử dụng dịch vụ
thanh toán qua ngân hàng; nếu họ gửi dưới hình thức tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
thì mục đích của họ là hưởng lãi suất
2. Lãi suất nhận tiền gửi
Huy động vốn là hoạt động chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng,bởi vì
để có tiền cho vay và kinh doanh các lĩnh vực khác,ngân hàng không chỉ dựa vào
nguồn vốn điều lệ của mình(vốn chủ sở hữu) mà còn phỉa huy động vốn trên thị
trường. Hiện nay các ngân hàng có những phương thức huy động chủ yếu bao
gồm những loại lãi suất tiền gửi sau:
+ Lãi suất nhận tiền gửi thanh toán.
Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân
hàng giữ và thanh toán hộ.
5
Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá
nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và
cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Mục đích của
khách hàng khi gửi tiền thanh toán là để an toàn tiện lợi trong thanh toán không
dùng tiền mặt và hưởng các dịch vụ khác do ngân hàng cung cấp. Nhìn chung , lãi
suất khoản tiền này rất thấp. Có hai loại lãi suất tiền gửi thanh toán.
-Tài khoản tiền gửi thanh toán dùng cho các doanh nghiệp: không
được hưởng lãi trực tiếp, mà người gửi chỉ hưởng lãi gián tiếp thông qua các dịch
vụ thanh toán miễn phí của ngân hàng.
-Tài khoản tiền gửi thanh toán dùng cho cá nhân: được ngân hàng trả
lãi, nhưng lãi suất áp dụng cho loại tiền gửi này thường thấp hơn lãi suất tiền gửi
định kỳ.
+Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm.
Khác với tiền gửi thanh toán, tiền gửi định kỳ là tiền tạm thời chưa sử dụng
hoặc là tiền để dành của cá nhân, vì vậy mục đích gửi tiền vào ngân hàng là nhằm
tìm kiếm tiền lãi. loại tiền này là loại tiền gửi có định hướng tiết kiệm, gửi tiền dự
phòng có hưởng lãi, không thể dùng thường xuyên vào mục đích thanh toán. Trong

loại tiền gửi này được chia thành hai loại: Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp,các
tổ chức xã hội và tiền gửi tiết kiệm dân cư.

II. Tổng quan về pháp luật lãi suất huy động vốn- nhận tiền gửi
1. Khái niệm lãi suất huy động-nhận tiền gửi
Lãi suất được hiểu theo nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng( bằng tỷ
số giữa tổng số lợi tức và tổng số tiền vay). Vì nó là giá của quyền được sử dụng
vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định, mà người sử dụng phải trả cho
người cho vay, là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một
khoảng thời gian nhất định. Như vậy lãi suất huy động được hiểu là giá cả của
quyền được sử dụng vốn trong một thời gian nhất định mà người đi vay phải trả
cho người cho vay, là tỉ lệ phần trăm lãi suất trên số tiền khách hàng gửi vào ngân
hàng hay là các tổ chức tín dụng. Hay nói cách khác Lãi suất huy động là lãi suất
do các ngân hàng đưa ra để huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, trong đó
lãi suất tiền gửi có vị trí quan trọng nhất. Hiện nay hầu hết các ngân hàng đang
phải đối mặt với sự cạnh tranh thu hút khách hàng về mình trong việc định giá các
dịch vụ liên quan đến tiền gửi, một loại tiền vốn của ngân hàng. Một mặt ngân
hàng phải trả một khoản lãi suất đủ lớn để có thể thu hút khách hàng một mặt phải
đảm bảo duy trì sự ổn định trong lượng tiền.
Theo điều 98 luật Các tổ chức tín dụng 2010 của nước ta thì NHTM được
huy động vốn dưới các hình thức sau:
6
- Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các
loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy
động vốn của cá nhân trong nước và nước ngoài.
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoặc vay vốn ngắn hạn của
NHNN theo quy định của NHNN Việt Nam.
2 .Thẩm quyền quy định lãi suất huy động vốn
Với vai trò là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng,

NHNN hoàn toàn có quyền ban hành mới, điều chỉnh chính sách lãi suất phù hợp
với diễn biến của nền kinh tế nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi của các chủ thể trên thị
trường. Như vậy lãi suất sẽ là công cụ để điều hành chính sách tiền tệ của NHNN
Việt Nam. Điều 12 Luật NHNN Việt Nam năm 2010 quy định “NHNN công bố
lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính
sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn
biến bất thường, NHNN quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ
giữa các TCTD với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác”.
Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng 2010 quy định “Tổ chức tín dụng được
quyền ấn định và phải niêm yết công khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí
cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng. Tổ chức tín
dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt
động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật. Trong trường
hợp hoạt động ngân hàng có diễn biến bất thường, để bảo đảm an toàn của hệ
thống tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước có quyền quy định cơ chế xác định
phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng”.
***
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM.
I Thực trạng pháp luật huy động vốn của các NHTM ở Việt Nam
1. Khái quát nội dung quy định pháp luật về lãi suất huy động vốn của các
NHTM ở Việt Nam
Đầu năm 2008, trong một loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát, NHNN
đã đưa ra Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN ngày 16 /01/2008, về việc tăng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các loại tiền gửi sẽ tăng lên
1 đơn vị % so với quy định hiện hành, nhằm rút bớt tiền trong lưu thông, mở rộng
7
dần các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc; tiếp theo Sử dụng biện pháp phát hành
tín phiếu NHNN bắt buộc để hút tiền về từ lưu thông bằng Quyết định số 346/QĐ-
NHNN ngày 13/2/2008 theo đó phát hành tín phiếu NHNN bằng tiền đồng dưới

hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Các NHTM đối mặt với khó khăn
thiếu nguồn cung tiền đồng dẫn đến lãi suất huy động vốn tăng cao.
- Trước tình hình đó, NHNN đã ra công văn số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008
quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm nhằm hạn chế tình trạng này.
- Ngày 16/05/2010 Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi
suất cơ bản bằng đồng Việt Nam được ban hành, theo đó các TCTD ấn định lãi
suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không
vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố áp dụng trong từng thời
kỳ.Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 về việc thực hiện cơ chế
lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của TCTD đối
với khách hàng hết hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các TCTD
phù hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy
động 12%/năm theo công văn số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 hết hiệu lực.
Trong năm 2008 đã có 8 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp
vốn, lãi suât tái chiết khấu; 5 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc và lãi suất tiền gửi dự
trữ bắt buộc.
8
Nguồn : Ngân hàng Nhà nước
Năm 2009, Chính phủ điều hành linh hoạt hơn năm 2008. Vào tháng 4/2009,
NHNN đã có quyết định điều chỉnh một số mức lãi suất quan trọng trên thị trường
tiền tệ bao gồm: lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua
đêm trong thanh toán liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh
toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng đều đươc giảm với mức phổ biến
1%.
25/11/2009 Thống đốc NHNN đã ban hành các quyết định số 2664,
2665/QĐ-NHNN, theo đó lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay
qua đêm và lãi suất cơ bản đều được điều chỉnh tăng thêm 1%/năm.
Cũng trong ngày 25/11/2009 căn cứ ý kiến chỉ đạo của thống đốc NHNN tại
thông báo số 552/TB-NHNN mức lãi suất huy động vốn VND cao nhất kể từ ngày
01/12/2009 là: 10.49%/năm.

Năm 2010, một năm đầy biến động của thị trường tiền tệ trong nước cũng
như trên thế giới, một năm mà nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong
giai đoạn ph$ục hồi sau những ảnh hưởng từ biến động kinh tế thế giới 2008 –
2009. NHNN từng bước bỏ các quy định rằng buộc về các loại lãi suất của các
TCTD. Cụ thể là trong năm, NHNN đã ban hành.
- Thông tư số 03/2010/TT-NHNN Quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng
đô la Mỹ của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng. Theo đó thông tư quy định mức
lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng tối đa là
1%/năm cho tất cả các kỳ hạn.
- Ngày 26/02/2010 Thống đốc NHNN Việt Nam ban hành thông tư
07/2010/TT-NHNN Quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam, theo đó lãi suất
thỏa thuận của tổ chức tín dụng đối với khách hàng; nhằm đáp ứng nhu cầu vốn
của dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống
có hiệu quả. Trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín
nhiệm của khách hàng vay, tiết kiệm chi phí hoạt động, tạo điều kiện cho khách
hàng tiếp cận vốn vay để phát triển sản xuất - kinh doanh
- Ngày 14/04/2010 NHNN ban hành Thông tư 12/2010/TT-NHNN cho phép
TCTD được thực hiện cho vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thỏa thuận
- Ngày 15/04/2010 Hiệp hội Ngân hàng có công văn số 46/HHNH kêu gọi các
tổ chức hội viên đưa ra mức lãi suất cho vay giảm dần phù hợp với thị trường và
được xã hội chấp nhận. Công khai minh bạc hóa lãi suất huy động, không thực
hiện các chính sách khuyến mãi, tặng thưởng nhằm đưa mức lãi suất huy động vốn
về cao nhất khoảng 11.5%/năm.
9
- Ngày 29/09/2010 HHNH tiếp tục có công văn số 163/HHNN kêu gọi việc
giảm dần lãi suất huy động và cho vay.
- Những biến động nửa đầu năm đẩy lãi suất huy động VND dao động
11%/năm. Đồng thuận lãi suất là yêu cầu quen thuộc đặt ra giữa các ngân hàng
trong năm này.Trước xu hướng biến động mạnh vào cuối năm, dựa trên quyết định
số 2619/QĐ-NHNN Hiệp hội và Ngân hàng Nhà nước đã họp với các thành viên,

đồng thuận không quá 12%/năm được đưa ra vào ngày 5/11. Tuy nhiên, sau đó
nhiều ngân hàng vẫn vi phạm lãi suất lần lượt tăng lên 13%, 14%, 15%/năm.
- Nhằm ổn định lãi suất huy động trên thị trường tiền tệ ngày 14/12/2010
NHNN đã có công văn số 9779/NHNN-CSTT theo đó ấn định lãi suất huy động
vốn bằng VND của các tổi chức và cá nhân, bao gồm cả khoản chi khuyến mãi
dưới mọi hình thức không vượt quá 14%.

2. Đánh giá pháp luật về huy động vốn của các NHTM ở Việt Nam
Có thể thấy pháp luật về huy động vốn của các NHTM ở Việt Nam mang lại các
mặt tích cực như:
- Ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán
của các NHTM trong những tháng đầu năm 2008, nhất là đối với NHTM cổ phần
quy mô nhỏ chuyển đổi mô hình từ nông thôn lên, an toàn hệ thống ngân hàng
được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối
với hệ thống ngân hàng. Các biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu
quả đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và lãi suất thị trường.
- Thể hiện được vai trò và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với
việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô. Công cụ lãi suất cơ bản của
NHNN đã phát huy hiệu quả trong năm 2008 và 6 tháng đầu năm 2009 ở bối cảnh
kinh tế vĩ mô có nhiều biến động, góp phần kiềm chế lạm phát chống suy giảm
kinh tế.
Tuy nhiên cũng có mặt hạn chế như:
- Tính ổn định: Qua việc phân tích ở trên ta nhận thấy rằng riêng chỉ trong năm
2008 đã có 8 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suât tái chiết
khấu, 5 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc. Như vậy
việc điều chỉnh lãi suất ngay lập tức tác động trực tiếp đến dân chúng và doanh
nghiệp bởi nó tác động trực tiếp đến lãi suất cho vay chứ không tác động gián tiếp
như cách điều hành lãi suất của một số nước phát triển. Các nhà đầu tư nắm bắt
thông tin không đầy đủ kịp thời dẫn đến phản ứng “bầy đàn”, gây ra những cú sốc
10

thị trường. Do vậy rất dễ gây ra mất tính ổn định trong nền kinh tế và khó có thể
đảm bảo các mục tiêu chính sách tiền tệ
- Tính thống nhất. Tại Khoản 1, điều 476 Bộ Luật dân sự quy định: “Lãi suất vay
do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do
Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”. Quy định này thể
hiện sự áp đặt bất hợp lý và đang tạo ra những rủi ro pháp lý cho các hoạt động cho
vay nói chung và hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nói riêng. Theo quy
định của Luật Ngân hàng nhà nước thì: “Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái
cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ,
chống cho vay nặng lãi”. Việc Bộ Luật dân sự quy định mức trần lãi suất không
vượt quá 150% cũng với mục đích chống cho vay nặng lãi. Tuy nhiên, việc đặt ra
tỷ lệ 150% là không phù hợp vì lãi suất cơ bản thường được quan niệm là lãi suất
định hướng và ở mức rất thấp so với lãi suất thị trường, do vậy mức 150% không
đủ để đảm bảo mức lãi suất hợp lý thông thường trên thực tế mà tổ chức, cá nhân
tham gia quan hệ cho vay cần áp dụng. Trên thực tế, phần lớn các tổ chức, cá nhân
cho vay đều phải áp dụng mức lãi suất vượt quá mức lãi suất tối đa đựơc quy định
tại Bộ Luật dân sự và do vậy, rủi ro pháp lý cho tổ chức tín dụng là rất lớn. Mặt
khác ngày 14/4/2010, NHNN ban hành Thông tư 13 hướng dẫn tổ chức tín dụng
cho vay bằng VNĐ đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận. Nội dung thông tư,
các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay bằng VNĐ phải niêm yết công khai lãi suất
cho vay ở mức hợp lý, trên cơ sở cung – cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và
mức độ tín nhiệm của khách hàng vay, tiết kiệm chi phí hoạt động, tạo điều kiện
cho khách hàng tiếp cận vốn vay để phát triển sản xuất – kinh doanh, nhất là khu
vực nông nghiệp và nông thôn, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Như vậy việc vừa áp trần lãi suất huy động vừa thực hiện cơ chế lãi suất cho vay
thỏa thuận làm xuất hiện những vấn đề phát sinh: Lãi suất “đầu ra” không có trần
(cả ngoại tệ và VNĐ), nhưng “đầu vào” lại có trần (đối với VNĐ), thì lợi ích sẽ
nghiêng về các NHTM, chứ không nghiêng về người gửi tiền và cũng không
nghiêng về người đi vay. Điều này tạo ra sự không thống nhất trong pháp luật lãi
suất.

- Tính phù hợp (cung cầu trên thị trường): Lãi suất cơ bản do NHNN công bố
chưa thật sự phù hợp với diễn biến thị trường. quy định trần lãi suất như nhau cho
mọi loại hình kinh tế là điều chưa hợp lý. Nếu áp dụng cùng một mức lãi suất thì
khả năng tiếp cận vốn của vay tiêu dùng bị xếp sau thứ tự ưu tiên, làm ảnh hưởng
tiêu cực và là nguyên nhân đẩy khách hàng cá nhân ra khỏi hệ thống ngân hàng, họ
phải tìm tới thị trường không chính thức với lãi suất cao, nạn cho vay nặng lãi xuất
hiện. Mặt khác do áp trần lãi suất cơ bản, quan hệ cung cầu vốn và lãi suất đã bị
biến dạng nghiêm trọng. Về nguyên tắc kinh doanh, khi cho vay, ngân hàng không
thể cho vay với mức lãi suất thấp hơn chi phí và người gửi tiền sẽ không gửi vào
ngân hàng nếu các cơ hội đầu tư tương tự có mức sinh lời tốt hơn. Do vậy, khi phải
11
chịu khống chề bởi trần lãi suất các ngân hàng đã có những phản ứng tiêu cực để
có một mức lãi suất huy động cũng như cho vay sao cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng có được mức sinh lợi cao nhất, chẳng hạn như việc lách lãi suất trần
bằng việc thu phí dịch vụ khác từ các doanh nghiệp đi vay để đảm bảo khả năng
sinh lời. Những khoản phí này khiến cho lãi suất cho vay thực vượt xa 150% lãi
suất cơ bản, cộng lại có lúc một số nơi lên đến 18 – 20%, trong khi trần lãi suất là
12%. Thanh khoản ngân hàng thường xuyên bị căng thẳng, lãi suất huy động bị
bóp méo và đẩy lên rất cao so với mức khống chế 10,5%/năm bởi nhiều chiêu
khuyến mãi phá rào
3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về lãi suất huy động vốn của NHTM
Việt Nam
- Bảo đảm tính ổn định chính sách lãi suất. Chính sách lãi suất là một công
cụ của chính sách tiền tệ. Vì vậy, mục tiêu theo đuổi của chính sách lãi suất phải
nằm trong mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó có nghĩa, sự thay đổi cơ
chế điều hành lãi suất không được gây ra những cú sốc thị trường, đảm bảo tính ổn
định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Đây là
nguyên tắc cơ bản trong hoạch định chính sách lãi suất từng thời kỳ.
- Quyền thỏa thuận lãi suất của Ngân hàng Thương mại và khách hàng. Theo

ông Đặng Đình Thích- Giám đốc VPBank khẳng định: “Ngân hàng cũng là một
doanh nghiệp nên trong hoạt động kinh doanh cũng phải bù đắp được chi phí và
phải có lợi nhuận. Thực hiện cho vay thỏa thuận lãi suất, Ngân hàng Thương mại
có thể chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh theo cơ chế thị trường”. Như vậy
sẽ hình thành mặt bằng lãi suất cho vay minh bạch, rõ ràng và phản ánh đúng nhu
cầu của thị trường, chấm dứt tình trạng phí “ngầm” mà Ngân hàng Nhà nước cũng
khó kiểm soát. Tạo điều kiện cho các Ngân hàng Thương mại chủ động xác định
mức lãi suất cho vay dựa trên các yếu tố như chi phí vốn đầu vào của ngân hàng,
mức độ rủi ro của từng khách hàng, lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của họ và
một số yếu tố liên quan khác. Tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng
mạng lưới để huy độngvốn với mức lãi suất phù hợp, đáp ứng đầy đủ và kịp thời
nhu cầu vốn của nền kinh tế. Khi các ngân hàng chủ động hơn trong xác định lãi
suất và quy mô huy động với thời hạn hợp lý, rủi ro thanh khoản sẽ giảm.
- Bỏ trần lãi suất huy động. Việc bỏ trần lãi suất huy động thì Ngân hàng
Thương mại sẽ căn cứ khả năng trên thị trường để quy định lãi suất huy động,
doanh nghiệp căn cứ vào giá (lãi suất cho vay) để tính toán việc vay vốn đầu tư.
Điều này sẽ có tác động tích cực đến nền kinh tế. Mặt khác nhà nước không phải
điều hành bằng mệnh lệnh hành chính, không đẩy các Ngân hàng Thương mại vào
12
tình thế vi phạm luật vì cho vay nặng lãi dẫn đến hiện tượng “luật cứ ban hành
nhưng không thực hiện”.
- Tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động huy động vốn của các Ngân hàng
Thương mại. Việc kiểm tra giám sát là một trong những khâu quan trọng để đảm
bảo cho các Ngân hàng Thương mại hoạt động đúng kỷ cương pháp luật của Nhà
nước, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Phát hiện kịp thời
và ngăn ngừa việc vi phạm pháp luật huy động vốn của các ngân hàng thương mại.
- Hiệu quả xử phạt vi phạm lãi suất huy động vốn. Thực tế cho thấy mặc dù
đã có những quy định xử phạt vi phạm lãi suất huy động vốn nhưng không đủ răn
đe các ngân hàng thương mại. Tại điều 12 nghị định 202/2004/NĐ-CP quy định
Phạt tiền tối đa là 70 triệu đồng đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng không thực

hiện đúng quy định về huy động vốn theo quy định của pháp luật, ngoài ra chỉ bị
phạt bổ sung đình chỉ hoạt động phát hành giấy tờ có giá trong thời hạn từ 3 tháng
đến 6 tháng. Và hiện nay đang có dự thảo nghị định thay thế nghị định 202 tăng
mức phạt 1 tỷ đến 2 tỷ. Tuy nhiên như vậy là chưa thích đáng ngoài việc tăng mức
xử phạt còn phải đưa ra các quyết định mạnh tay, như cách chức người đứng đầu,
đồng thời, Ngân hàng Thương mại cần thực hiện quyết liệt, triệt để.
***
KẾT LUẬN
Lãi suất là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế, vì nó tác động
đến chi phí đầu tư, do đó nó là yếu tố quan trọng quyết định tổng mức đầu tư và
tổng mức cầu về tiền tệ(GNP). Vì lãi suất là một bộ phận cấu thành của chính sách
tiền tệ quốc gia, là mục tiêu chính sách tiền tệ của quốc gia, ổn định tiền tệ, đảm
bảo mức lạm phát hợp lý kích thích tăng trưởng kinh tế, đảm bảo có sự chênh lệch
lãi suất kinh doanh, sử dụng vốn hiệu quả, tăng sản phẩm xã hội. Cơ quan quản lý
nhà nước thông qua Ngân hàng Thương mại Việt Nam trong những năm đổi mới
những chính sách lãi suất, đã có tác động mạnh mẽ tới việc huy động vốn và hoạt
động sản xuất kinh doanh của các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp Việt
Nam. Theo nhà kinh tế học nổi tiếng J.M Keynes: “lãi suất là một công cụ tích cực
trong phát triển kinh tế và đồng thời lại là một công cụ kiềm hãm của chính sự phát
triển ấy, tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại trong việc sử dụng chúng”. Vì
vậy để tăng hiệu quả hoạt động thu hút và sử dụng ngồn vốn nhàn rỗi trong dân cư,
của hệ thống ngân hàng thương mại và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế đòi hỏi Ngân hàng nhà nước phải tiếp tục đổi mới hơn nữa cơ chế
điều hành lãi suất phù hợp với quy luật kinh tế thị trường vừa đảm bảo ổn định xã
hội.
13


Danh mục từ viết tắt
NHTW: Ngân hàng Trung ương

NHNH: Ngân hàng Nhà nước
NHTM: Ngân hàng Thương mại
NHTM VN: Ngân hàng Thương mại Việt Nam
TCTD: Tổ chức tín dụng
Tài liệu tham khảo
1. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2010). Luật các
tổ chức tín dụng, Nxb chính trị quốc gia.
2. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2010). Luật
Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Nxb chính trị quốc gia.
3. Khoa Luật, Đại học Huế, Tài liệu học tập Luật Ngân hàng .Nxb Đại
học Huế 2013
4. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam. Nxb
Công an Nhân dân. Hà Nội. 2011
14
15

×