Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Bài tập học kỳ dân sự người không được quyền hưởng di sản lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.05 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGÂN HÀNG QUỐC TẾ


BÀI TIỂU LUẬN

LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:

CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỚI WTO:
LĨNH VỰC
DỊCH
KHOÁN
Báo cáo
thựcVỤ
tậpCHỨNG
tốt nghiệp

GVHD : Phạm Đức Huy
Lớp
: ĐH24NH_T03
Nhóm 17:
1. Trần Thị Kim Liền
2. Nguyễn Hữu Tiến
3. Võ Ngọc Khánh Vân
4. Hứa Hoàng Vũ
5. Huỳnh Thị Phi Yến

TP.HCM – 2011



MỤC LỤC

1.

Sự cấp thiết gia nhập WTO của thị trường chứng khoán Việt Nam
4
1.1. Thực trạng TTCK VN trước khi gia nhập WTO
4
1.2. Vai trị của thị trường chứng khốn Việt Nam đối với quá trình phát triển
kinh tế xã hội đất nước
5
2. Những cam kết trong lĩnh vực dịch vụ chứng khoán
6
2.1 Các cam kết với WTO về lĩnh vực chứng khốn
6
2.2 Lộ trình thực hiện cam kết
10
3. Tác động của những cam kết với WTO đến TTCK VN
13
4. Giải pháp nâng cao hoạt động dịch vụ chứng khoán của VN
32
TÀI LIỆU THAM KHẢO
36

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

2


BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC

Họ tên

MSSV

Trần Thị Kim Liền

030124080443

Nguyễn Hữu Tiến

030124080946

Võ Ngọc Khánh Vân

030124081103

Hứa Hồng Vũ

030124081131

Huỳnh Thị Phi Yến
(nhóm trưởng)

030124081151

Cơng việc
Phần 4: Giải pháp
Phần 3: Tác động
Phần 1: Sự cấp thiết gia
nhập WTO của TTCK

VN
Phần 2.1: Cam kết
Phần 2.2: Lộ trình
Kịch bản Gameshow
Powerpoint
Phần 3: Tác động
Tổng hợp bài
Trình bày Word

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
TTCK
CTCK
TTGDCK
SGDCK
NĐT

Thị trường chứng khốn
Cơng ty chứng khốn
Trung tâm giao dịch chứng khốn
Sở giao dịch chứng khoán
Nhà đầu tư

3


1. Sự cấp thiết gia nhập WTO của thị trường chứng khoán Việt Nam
1.1.


Thực trạng TTCK VN trước khi gia nhập WTO

Sau nhiều năm chuẩn bị, ngày 11/07/1998 Chính phủ đã ký Nghị định số
48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK, chính thức khai sinh TTCK Việt Nam.
Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập TTGDCK đặt tại TP. Hồ Chí
Minh và Hà Nội. TTGDCK TP.HCM được thành lập theo Quyết định số
127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998 và chính thức đi vào hoạt động, thực hiện
phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. TTGDCK Hà Nội đã chính thức
chào đời vào ngày 08/03/2005. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết
và giao dịch chứng khốn của các cơng ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi”
cho các DN vừa và nhỏ (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng).
Giai đoạn từ năm 2000 cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái “gà
gật”, ngoại trừ cơn sốt vào năm 2001, chỉ số VN-index cao nhất đạt 571.04 điểm
sau 6 tháng đầu năm nhưng chỉ chưa đầy 4 tháng sau, từ tháng 6 đến tháng 10, các
cổ phiếu niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số VN-Index sụt từ 571.04 điểm
vào ngày 25/04/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào tháng 10/2001. Trong 4
tháng “hoảng loạn” này, trong khi nhiều nhà đầu tư tháo chạy khỏi thị trường thì
Báo
thực
tập
tốtthầm
nghiệp
một số nhà đầu tư
khác cáo
vẫn bình
tĩnh bám
trụ, âm
mua bán và tiếp tục kiếm
được lợi nhuận. Dường như thị trường trong giai đoạn này không thực sự thu hút
được sự quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị

trường chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành
của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của mỗi người dân. Ta có thể nhận định rõ
được điều này thơng qua bảng số liệu sau:
Năm
Số công ty niêm yết
Mức vốn hóa thị trường
(%GDP)
Số lượng cơng ty chứng khốn
Số tài khoản khách hàng

2000

2001

2002

2003

2004

2005

5

5

20

22


26

41

0.28

0.34

0.48

0.39

0.64

1.21

3

8

9

11

13

14

2908


8774

13520

15735

21616

31316

(Nguồn: Ủy ban chứng khoán Nhà nước)
Năm 2006 đánh dấu mốc phát triển “đột phá”, tạo cho thị trường chứng
khốn Việt Nam một diện mạo hồn tồn mới với hoạt động giao dịch sôi động tại
4


cả 3 “sàn”: Sở giao dịch Tp. Hồ Chí Minh, TTGDCK Hà Nội và thị trường OTC.
Mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 giúp thị trường chứng
khốn Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới, chỉ
sau Zimbabwe. Chỉ số VN-Index cuối năm tăng 2.5 lần so với đầu năm. Tổng giá
trị vốn hóa thị trường đạt 13.8 tỉ USD cuối năm 2006 (chiếm 22.7% GDP), với giá
trị cổ phiếu do các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD,
chiếm 16.4% mức vốn hóa của tồn thị trường. Số cơng ty niêm yết tăng gần 5 lần,
từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193 công ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn 10
vạn, gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6 năm trước. Yếu tố quan trọng góp phần
vào sự tăng trưởng “nóng” trong giai đoạn này phải kể đến sức cầu trên thị trường
tăng một cách đột biến khiến giá trị giao dịch trung bình mỗi phiên giao dịch lên
tới hàng ngàn tỷ đồng. Tuy nhiên, tình trạng đầu tư mang tâm lý “đám đông” của
cả người có kiến thức, hiểu biết và những người mua - bán theo phong trào, qua đó
đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện tượng “bong bóng” là có thật.

Tiếp tục đà tăng trưởng đó sang đầu năm 2007 cùng với việc Việt Nam gia
nhập WTO, TTCK Việt Nam bước sang giai đoạn phát triển “bùng nổ”. Luật
Chứng khốn có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã góp phần thúc đẩy thị trường phát
triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế, tính cơng
khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường.
1.2. VaiBáo
trò củacáo
TTCKthực
Việt Nam
đối với
quá
trình phát triển kinh tế xã
tập
tốt
nghiệp
hội đất nước
Xây dựng và phát triển TTCK là một xu thế tất yếu của tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế, Việt Nam cũng khơng thể tách rời xu thế đó. TTCK hình thành và
phát triển sẽ cùng với thị trường tiền tệ tạo ra một thị trường tài chính vận hành có
hiệu quả hơn, góp phần đắc lực cho sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Năm 2006 và quý I/2007, TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, giúp
thu hút một nguồn vốn lớn cho nền kinh tế (mức vốn hóa của thị trường đến cuối
tháng 4/2007 đạt 24.4 tỷ USD, chiếm 39.8% GDP). Vốn đầu tư nước ngoài thơng
qua kênh chứng khốn cũng tăng đáng kể. Số lượng hàng hóa trên thị trường
khơng ngừng tăng lên với 193 loại cổ phiếu được giao dịch trên cả 2 “sàn” tính
đến năm 2007. TTCK khơng chỉ là cơng cụ khuyến khích tiết kiệm mà cịn tạo
thói quen đầu tư mới cho công chúng. Hệ thống các tổ chức trung gian trên TTCK
đã hình thành và phát triển nhanh chóng với 55 CTCK, 18 công ty quản lý quỹ, 35
quỹ đầu tư (23 quỹ đầu tư nước ngoài và 12 quỹ đầu tư trong nước), gần 50 tổ

chức đầu tư theo hình thức ủy thác qua các CTCK, 41 tổ chức tham gia hoạt động
lưu ký chứng khoán, 6 ngân hàng lưu ký, 8 cơng ty kiểm tốn độc lập góp phần tạo
sự hiệu quả cho thị trường, đánh giá được hoạt động của các doanh nghiệp.

5


Khung pháp lý cho hoạt động và phát triển TTCK bao gồm Luật Chứng
khoán, những vấn đề liên quan đến TTCK, trong đó những quy định về đăng ký,
lưu ký, công khai và minh bạch, giám sát và kiểm tra của các cơ quan chức năng
quản lý hoạt động của TTCK từng bước được hoàn thiện, bảo vệ NĐT từ đó
khuyến khích các NĐT mạnh dạn tham gia thị trường và giúp Chính phủ thực hiện
chính sách kinh tế vĩ mô thông qua TTCK.
 Hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu đạt được, thì TTCK Việt Nam chỉ mới phát triển
và không thể tránh khỏi những hạn chế, chủ yếu bao gồm:
– Mức vốn hóa trên thị trường tăng nhanh, nhưng lượng vốn hóa đạt
thấp, quy mơ TTCK cịn nhỏ. TTCK Việt Nam phát triển chưa ổn định, chưa
phải là kênh huy động quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam, biến động
trên TTCK chưa phản ánh đúng trạng thái của nền kinh tế.
– Lượng hàng hóa trên TTCK cịn ít, dẫn đến mất cân đối cung cầu và
những biến động bất lợi cho thị trường. Hậu quả là chỉ số P/E (giá trên thu
nhập) quá cao với mức tăng bình quân 21 lần và khoảng 1/4 công ty đạt 30-70
lần. Chính vì vậy, khi thị trường sụt giảm thì giá cổ phiếu đồng loạt giảm
mạnh, kể cả những cổ phiếu được coi là có chất lượng.
– Cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin và nguồn nhân lực của các
TTGDCK và của các CTCK không theo kịp được sự phát triển quá nhanh của
thị trường, nhiều
quá tải, tập
hệ thống

luật về chứng khốn và
BáoCTCK
cáobịthực
tốtpháp
nghiệp
TTCK chưa đầy đủ.
– Tính dễ bị tổn thương của TTCK Việt Nam là khá cao do phụ thuộc
nặng nề vào các NĐT nước ngoài, trong khi các cơng cụ quản lý và giám sát
TTCK cịn hạn chế.
– Diễn biến thất thường của TTCK Việt Nam thời gian qua là do nhiều
nguyên nhân, bao gồm: sự thiếu hoàn chỉnh của hành lang pháp lý, sự mất cân
đối cung cầu chứng khốn, tình trạng đầu cơ và đầu tư theo “bầy đàn”, tính
cơng khai minh bạch của thị trường còn hạn chế, v.v…
2. Những cam kết trong lĩnh vực dịch vụ chứng khoán
2.1 Các cam kết với WTO về lĩnh vực dịch vụ chứng khoán
Cùng với việc mở cửa thị trường hàng hoá, khi đàm phán gia nhập WTO và
tham gia các thỏa thuận Khu vực mậu dịch tự do (FTA), Việt Nam phải tiến hành
mở cửa các thị trường dịch vụ cho các đối tác nước ngoài. Theo đó, thực hiện lộ
trình mở cửa thị trường dịch vụ với sự tham gia của các đối tác nước ngoài bao
gồm các hình thức như sau: cho phép nhà cung cấp dịch vụ ở nước ngoài cung cấp
dịch vụ cho các tổ chức, cá nhân ở Việt Nam (loại hình 1); cho phép các tổ chức,
cá nhân ở Việt Nam sử dụng các dịch vụ ở nước ngồi (loại hình 2); cho phép bên
nước ngoài thành lập đại diện thương mại ở Việt Nam (văn phòng đại diện, chi
nhánh, liên doanh, cơng ty 100% vốn nước ngồi) để cung cấp dịch vụ (loại hình
6


3); cho phép cá nhân nước ngoài vào Việt Nam, độc lập cung cấp dịch vụ tại thị
trường trong nước (loại hình 4).


 Liên quan đến các dịch vụ chứng khoán
Việt Nam cam kết cho phép nhà đầu tư nước ngồi tham gia cung cấp các
dịch vụ chứng khốn sau tại Việt Nam:
(a) Giao dịch cho tài khoản của mình hoặc tài khoản của khách hàng tại
SGDCK, thị trường giao dịch trực tiếp (OTC) hay các thị trường
khác những sản phẩm sau:
- Các công cụ phái sinh, bao gồm cả hợp đồng tương lai và hợp
đồng quyền lựa chọn.
- Các chứng khốn có thể chuyển nhượng.
- Các cơng cụ có thể chuyển nhượng khác và các tài sản tài
chính, trừ vàng khối.
(Các dịch vụ này bao gồm cả nghiệp vụ môi giới).
(b) Tham gia vào các đợt phát hành mọi loại chứng khoán, bao gồm bảo
lãnh phát hành, và làm đại lý bán (chào bán ra công chúng hoặc chào
bán riêng), cung cấp các dịch vụ liên quan đến các đợt phát hành đó.
(c) Quản lý tài sản như quản lý danh mục đầu tư, mọi hình thức quản lý
đầu tư tập thể, quản lý quỹ hưu trí, các dịch vụ lưu ký và tín thác.
(d) Các dịch vụ thanh tốn và thanh tốn bù trừ chứng khốn, các cơng
cụ Báo
phái sinh
và cácthực
sản phẩm
liên tốt
quan đến
chứng khoán khác.
cáo
tập
nghiệp
(e) Cung cấp và chuyển thơng tin tài chính, các phần mềm liên quan của
các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán.

(f) Tư vấn, trung gian và các dịch vụ phụ trợ liên quan đến chứng
khoán, ngoại trừ các hoạt động tại tiểu mục (a), bao gồm tư vấn và
nghiên cứu đầu tư, danh mục đầu tư, tư vấn về mua lại công ty, lập
chiến lược và cơ cấu lại công ty.


Liên quan đến phương thức cung cấp các dịch vụ
tài chính qua biên giới
Việt Nam chưa cam kết các nghĩa vụ liên quan đến tiếp cận thị trường và
đãi ngộ quốc gia đối với phương thức cung cấp qua biên giới trong dịch vụ tài
chính, ngoại trừ:
- Cung cấp và chuyển thơng tin tài chính, các phần mềm liên quan của các
nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán;
- Tư vấn, trung gian và các dịch vụ phụ trợ liên quan đến chứng khoán.
 Liên quan đến hiện diện thương mại
Việt Nam cam kết cho phép các cơng ty chứng khốn nước ngồi, các nhà
đầu tư nước ngồi hoạt động chứng khốn ở Việt Nam dưới các hình thức và điều
kiện sau đây:

7


(a) Văn phòng đại diện, với điều kiện các văn phịng đại diện khơng
được thực hiện các hoạt động kinh doanh sinh lời trực tiếp (ngay khi
gia nhập).
(b) Liên doanh với đối tác Việt Nam, với điều kiện tỷ lệ vốn góp của
phía nước ngồi khơng vượt q 49% (ngay khi gia nhập) (quy định
tại khoản 1 Điều 3 Quyết định 55/2009/QĐ-TTg).
(c) Doanh nghiệp chứng khốn 100% vốn nước ngồi (kể từ
11/01/2012, 5 năm kể từ ngày gia nhập ).

(d) Chi nhánh của cơng ty chứng khốn nước ngồi (11/01/2012, 5 năm
kể từ ngày gia nhập và kèm theo các điều kiện là hoạt động của chi
nhánh chỉ giới hạn ở cung cấp các dịch vụ quản lý tài sản, ngân quỹ
đầu tư, ký gửi, thanh toán và thanh toán bù trừ chứng khốn, cung
cấp và chuyển giao thơng tin tài chính, tư vấn cũng như mơi giới và
các hoạt động phụ trợ khác liên quan đến chứng khoán, các phần
mềm liên quan). Tuy nhiên, các chi nhánh không được phép tiếp cận
thị trường giao dịch và phát hành chứng khốn.
Như vậy, Việt Nam khơng mở cửa cho chi nhánh của cơng ty chứng
khốn nước ngồi đối với các loại hình dịch vụ kinh doanh chứng khốn và
tham gia phát hành, cũng như không cam kết mở cửa đối với loại hình cung
cấp dịch vụ thứ 1 ( trừ các dịch vụ trong tiểu mục (e), (f)) và 4 nêu trên.
Quyết định
số cáo
55/2009/QĐ-TTg
ngàytốt
15/04/2009
hiệu lực từ ngày
Báo
thực
tập
nghiệp
01/06/2009 thay thế cho quyết định số 238/2005/QĐ-TTg ngày 29/09/2005 của
Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường
chứng khốn Việt Nam có quy định ở Điều 2: NĐT nước ngồi mua, bán chứng
khốn trên thị trường chứng khoán Việt Nam được nắm giữ:
1. Đối với cổ phiếu: tối đa 49% tổng số cổ phiếu của công ty cổ phần đại
chúng. Trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác thì áp dụng theo quy
định của pháp luật chuyên ngành. Trường hợp tỷ lệ sở hữu bên nước ngoài được
phân loại theo danh mục các ngành nghề cụ thể thì áp dụng theo danh mục phân

loại.
2. Đối với chứng chỉ quỹ đầu tư đại chúng: tối đa 49% tổng số chứng chỉ
quỹ đầu tư của một quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng.
3. Đối với cơng ty đầu tư chứng khốn đại chúng: tối đa 49% vốn điều lệ
của một công ty đầu tư chứng khoán đại chúng.
4. Đối với trái phiếu: tổ chức phát hành có thể quy định giới hạn tỷ lệ nắm
giữ đối với trái phiếu lưu hành của tổ chức phát hành.
Như vậy ở quyết định này có thêm quy định đối với cơng ty đầu tư chứng khốn
đại chúng cho phù hợp với Luật Chứng khoán 2006 và cam kết gia nhập WTO của
Việt Nam.

8


Theo Điều 3 Quyết định 55/2009/QĐ-TTg, tổ chức kinh doanh chứng
khốn nước ngồi được tham gia thành lập CTCK, cơng ty quản lý quỹ tại Việt
Nam như sau:
1. Chỉ có tổ chức kinh doanh chứng khốn nước ngồi được góp vốn mua
cổ phần thành lập CTCK. Tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngồi tối đa là
49% vốn điều lệ của CTCK.
2. Chỉ có tổ chức kinh doanh chứng khốn nước ngồi có nghiệp vụ quản lý
quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức kinh doanh bảo hiểm nước ngồi được góp vốn,
mua cổ phần thành lập cơng ty quản lý quỹ. Tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước
ngoài tối đa là 49% vốn điều lệ của công ty quản lý quỹ.
Quyết định 121/2008/QĐ-BTC ngày 24/12/2008 ban hành Quy chế hướng
dẫn hoạt động đầu tư của các tổ chức, cá nhân nước ngoài trên TTCK Việt Nam
hiệu lực từ ngày 17/3/2009. Theo quy định tại Điều 3 thì Nhà đầu tư nước ngồi
thực hiện đầu tư trên thị trường chứng khốn Việt Nam dưới các hình thức sau:
a) Trực tiếp thực hiện đầu tư thông qua việc:
(i) Mua, bán cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán niêm yết

khác trên Sở Giao dịch Chứng khoán, TTGDCK hoặc đăng ký giao dịch tại
các CTCK;
(ii) Mua, bán cổ phần và các loại chứng khoán chưa niêm yết trên Sở
Giao dịch Chứng khoán, TTGDCK hoặc chưa đăng ký giao dịch tại các
CTCK; Báo cáo thực tập tốt nghiệp
(iii) Tham gia đấu giá mua chứng khoán, đấu giá mua cổ phần tại
các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa;
(iv) Tham gia góp vốn thành lập quỹ đầu tư chứng khốn với tỷ lệ
góp vốn của bên nước ngồi theo quy định của Thủ tướng Chính phủ;
(v) Tham gia góp vốn tại các doanh nghiệp Việt Nam với tỷ lệ góp
vốn của bên nước ngoài theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
b) Thực hiện đầu tư thơng qua việc uỷ thác quản lý vốn đầu tư cho công ty
quản lý quỹ trên cơ sở Hợp đồng quản lý đầu tư ký với công ty quản lý quỹ.
Quyết định 124/2008/QĐ-BTC ngày 26/12/2008 ban hành Quy chế thành
lập và hoạt động văn phòng đại diện tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài
tại Việt Nam hiệu lực từ ngày 19/3/2009. Theo quy định tại Điều 10 thì phạm vi
hoạt động của văn phịng đại diện gồm một, một số hoặc tồn bộ các nội dung sau
đây:
+ Thực hiện chức năng văn phòng liên lạc và nghiên cứu TTCK;
+ Xúc tiến xây dựng các dự án hợp tác trên lĩnh vực chứng khoán và TTCK
tại Việt Nam;
+ Thúc đẩy, giám sát thực hiện các hợp đồng thoả thuận đã ký kết giữa Tổ
chức kinh doanh chứng khóan nước ngồi với các tổ chức kinh tế của Việt Nam
trong lĩnh vực chứng khoán;
9


+ Thúc đẩy, giám sát thực hiện các dự án do Tổ chức kinh doanh chứng
khóan nước ngồi tài trợ tại Việt Nam trong lĩnh vực chứng khốn.
2.2 Lộ trình thực hiện cam kết

Năm 2006, TTCK VN được đánh giá là đang ở giai đoạn đầu của sự phát
triển. Đây cũng là thời điểm nở rộ các CTCK thành lập mới trong nước. Nhiều
CTCK nước ngoài cũng đã bắt đầu đến Việt Nam bằng việc thành lập các văn
phòng đại diện, xây dựng vốn kinh nghiệm và nắm bắt thị trường để sẵn sàng nhập
cuộc ngay một khi rào cản được xóa bỏ. Theo số liệu nghiên cứu của Tập đoàn
HSBC Holdings Plc, tại Việt Nam, tổng giá trị thị trường của công ty niêm yết trên
sàn mới chỉ đạt chừng 3,2 tỷ USD, tổng giá trị các công ty giao dịch trên thị
trường OTC cũng không vượt quá 6 tỷ USD. Trong khi đó, giá trị các cơng ty
niêm yết của nước láng giềng Thái Lan lên tới 138 tỷ USD.
Năm 2006 thực sự là một năm “bản lề” đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Riêng trong năm này, tỷ lệ sở hữu của các NĐT nước ngoài tại TTCK Việt Nam
đã tăng vọt gấp gần ba lần, từ 6% lên 17%. Đến đầu tháng 3/2007, tỷ lệ này lên
đến 19% và cho đến tháng 5/2007, có tính tốn cho biết tỷ lệ này đã lên đến 2025%. Như vậy, so sánh hai mốc thời điểm đầu năm 2006 với những tháng đầu năm
2007, tỷ lệ sở hữu giá trị cổ phiếu của NĐT nước ngoài đã tăng gấp gần 4 lần.
Tình hình đó cũng có tính tương ứng với thơng tin của Ngân hàng thế giới ước
tính các NĐT nước ngoài đã đầu tư khoảng 4 tỷ USD vào TTCK Việt Nam.

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

Gía trị đầu tư nước ngồi tính đến tháng 4/2007

Cổ phiếu niêm yết
Trái phiếu niêm yết
Trái phiếu không niêm yết
Cổ phiếu không niêm yết

Tại thị trường niêm yết, NĐT nước ngoài đã nhanh chóng sở hữu đến 49%
hoặc đang có xu hướng đạt đến 49% (tỷ lệ cao nhất cho phép đối với NĐT nước
ngoài) đối với một số mã cổ phiếu như AGF, CII, BT6, GIL, GMD, IFS, SAM,
TDH, TMS, TYA, VNM, chứng chỉ quỹ VFMVF1.

Lúc này, có những quỹ đầu tư nước ngồi được đánh giá là hoạt động thành
cơng trên thị trường Việt Nam là Vina Capital, Indochina Capital, Dragon Capital,
IDG Vietnam, PXP Vietnam, City Group, HSBC, JP Morgan, Deutsch AG…
Trong số các NĐT nước ngoài, các quỹ đầu tư có người quản lý quỹ tại Việt Nam
10


chiếm tỷ trọng 70% trên tổng quy mô vốn đầu tư của các NĐT nước ngoài. Tuy
nhiên, trong số các quỹ đầu tư nước ngồi chưa có mặt các quỹ Mutual Fund và
Pension Fund – là các quỹ có mục tiêu đầu tư rất dài hạn. Đến cuối năm 2007, tại
Việt Nam, NĐT nước ngồi mới chỉ có 8.140 tài khoản cá nhân và 477 tài khoản
tổ chức, giao dịch của khối này chiếm khoảng 25% tổng giá trị vốn hóa trên sàn
TP.HCM (khoảng 5,3 tỷ USD). Bên cạnh đó là khoảng 44 quỹ đầu tư cả trong và
ngoài nước, hơn 70 quỹ nước ngoài khác được kỳ vọng sẽ vào Việt Nam trong
tương lai gần, mang theo số vốn khoảng 4-5 tỷ USD.
Trong tháng 1/2008, đã có 35 tổ chức và 399 cá nhân nước ngoài được cấp
mã giao dịch tại TTCK Việt Nam. Tính đến ngày 3/3/2008, đã có 600 tổ chức và
9.220 cá nhân là NĐT nước ngoài được cấp mã giao dịch, tăng thêm 30 tổ chức và
223 cá nhân nước ngoài so với thời điểm tháng 2/2008. Trong quý 2/2008, theo số
liệu công bố mới nhất từ Trung tâm Lưu ký Chứng khốn, đã có thêm 1.239 NĐT
nước ngoài được cấp mã số giao dịch, trong đó bao gồm: 112 tổ chức và 1127 cá
nân người nước ngồi. Cụ thể, tính đến ngày 2/6/2008 đã có 712 tổ chức và 10.347
cá nhân người nước ngồi được cấp mã số giao dịch tại TTCK Việt Nam. Trong
đó, riêng tháng 6/2008 có thêm 28 tổ chức và 383 cá nhân nước ngồi, tháng
5/2008 có thêm 38 tổ chức và 358 cá nhân nước ngồi, tháng 4/2008 có 46 tổ chức
và 386 cá nhân nước ngồi. Tính đến 31/12/2008 đã có 12.720 tài khoản giao dịch
thuộc khối đầu tư nước ngồi, trong đó 887 tài khoản là của tổ chức cịn lại là của
NĐT cá nhân nước ngồi. Tại thời điểm này, khối đầu tư nước ngoài đã giao dịch
Báokhoán
cáovớithực

tốt nghiệp
2.263.341.354 chứng
giá trị tập
202.534,873
tỷ đồng tại sàn Hà Nội và
tương ứng là 1.119.037.618 chứng khoán với giá trị 68.974,151 tỷ đồng tại Sở GD
TP.HCM. Như vậy, khối NĐT nước ngồi tính đến hiện tại có giao dịch chiếm
khoảng 68,07% doanh số giao dịch toàn thị trường và khoảng 48,82% khối lượng
giao dịch toàn thị trường.
Theo khoản 3 Điều 2 Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg, các NĐT nước
ngoài được sở hữu tối đa 49% vốn điều lệ của một công ty đầu tư chứng khốn đại
chúng, có hiệu lực từ ngày 1/6/2009. Chính vì vậy, việc các CTCK bán cổ phần
cho các đối tác chiến lược nước ngoài ngày càng trở nên phổ biến. Những thương
vụ này đã bắt đầu từ 2007, nhưng diễn ra mạnh trong nửa đầu năm 2008 với các
thương vụ như: Cơng ty Cổ phần Chứng khốn Âu Lạc bán 4,9 triệu cổ phần,
tương đương 49% vốn điều lệ, trong đợt phát hành tăng vốn từ 50 tỷ đồng lên 100
tỷ đồng cho đối tác nước ngoài là Công ty Technology CX (Cayman); Công ty Cổ
phần Chứng khốn Hướng Việt chuyển nhượng 14,5 triệu cổ phần, có giá trị 145
tỷ đồng theo mệnh giá, tương đương 48,33% vốn điều lệ cho Morgan Stanley
(Singapore) Holdings Pte. Ltd; Công ty Cổ phần Nhấp và Gọi bán 49% vốn điều lệ
cho nhà đầu tư Hàn Quốc là Công ty TNHH Chứng khoán và Đầu tư Golden
Bridge với 6,615 triệu cổ phần, có giá trị theo mệnh giá là 66,15 tỷ đồng, tương
đương 49% vốn điều lệ trong đợt tăng vốn điều lệ từ 30 tỷ đồng lên 135 tỷ đồng.
Hay Cơng ty Chứng khốn Tân Việt bán hơn 3,8 triệu cổ phần, tương đương 30%
vốn điều lệ trong đợt phát hành tăng vốn điều lệ lên 128 tỷ đồng cho Công ty
11


VietBridge (British Virgin Island); Tập đoàn Daiwa Securities Group - DSGI
(Nhật Bản) và ANZ trở thành cổ đông chiến lược lớn của cơng ty chứng khốn

SSI; Cơng ty Cổ phần Chứng khoán Việt Nam chuyển nhượng 49% cho ngân hàng
RHB (Malaysia)…
Trong năm 2009, UBCKNN đã tổ chức triển khai thực hiện Quy chế thành
lập và hoạt động của văn phòng đại diện tổ chức kinh doanh chứng khốn nước
ngồi tại Việt Nam và Quy chế hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK
Việt Nam. UBCKNN thường xuyên tham gia ý kiến với Bộ Tài chính, Bộ Cơng
Thương, Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế để xây dựng các chính sách
liên quan tới việc thực hiện các cam kết WTO liên quan tới ngành dịch vụ tài
chính, trong đó có việc tham gia xây dựng và triển khai Chương trình hành động
của Bộ Tài chính bao gồm Kế hoạch triển khai thực hiện các cam kết WTO thuộc
lĩnh vực tài chính và Kế hoạch triển khai các hoạt động để thực hiện có hiệu quả
các cam kết WTO. Năm 2009 cũng là năm gia tăng về số lượng các đoàn khách
quốc tế tới thăm và làm việc với UBCKNN. Thông qua những hoạt động này, các
cơ quan quản lý TTCK các nước, các tổ chức tài chính quốc tế, các NĐT nước
ngồi có tổ chức và cá nhân đã được cung cấp đầy đủ những thông tin về thị
trường và môi trường đầu tư của Việt Nam, về những cơ hội đầu tư trên TTCK
Việt Nam, về những nỗ lực của UBCKNN để thúc đẩy TTCK Việt Nam phát triển
một cách an toàn và bền vững trong quá trình hội nhập với các thị trường khu vực
và thế giới. Các Báo
hoạt động
nàythực
cũng đã tập
góp phần
thắt
chặt hơn nữa mối quan hệ
cáo
tốt
nghiệp
quốc tế giữa UBCKNN với các cơ quan quản lý chứng khốn nước ngồi trong
việc nâng cao sự hiểu biết và hỗ trợ lẫn nhau trong công tác quản lý thị trường,

đồng thời thu hút các dòng vốn đầu tư gián tiếp của các NĐT đến từ các quốc gia
trên thế giới.
Tính đến ngày 1/10/2010, các NĐT nước ngoài đã được phép sở hữu 49%
vốn điều lệ cơng ty đại chúng nhưng chỉ mới có 4/598 cổ phiếu niêm yết có tỷ lệ
sở hữu của NĐT nước ngoài đạt 49% (tất cả niêm yết tại SGDCK TPHCM). Chỉ
71/598 cổ phiếu niêm yết có tỷ lệ sở hữu của NĐT nước ngoài trên 20% (62 niêm
yết tại SGDCK TPHCM, 9 niêm yết tại SGDCK Hà Nội). Sở hữu của nhà đầu tư
nước ngoài đạt 19.25% giá trị vốn hóa của tồn thị trường (127.587 tỷ VND hoặc
6,73 tỷ USD tính theo giá thị trường, tỷ lệ này trên SGDCK TPHCM là 21.69%,
SGDCK Hà Nội là 9.53%). Giao dịch chứng khốn của NĐT nước ngồi trong 12
tháng gần nhất chiếm 5,88% giá trị mua và 4,19% giá trị bán, cho thấy xu thế
NĐT nước ngoài nắm giữ cổ phiếu lâu hơn NĐT trong nước. Như vậy dư mua của
NĐT nước ngoài là 11.835 tỷ VND hoặc 657,50 triệu USD, khoảng 90% giao dịch
được thực hiện trên sàn giao dịch của SGDCK TPHCM. Cụ thể:
- Vốn đầu tư nước ngồi tại CTCK:
+ 17 CTCK có vốn đầu tư nước ngoài trên 10%.
+ Phần lớn các NĐT nước ngoài đến từ châu Á: Hàn Quốc, Nhật Bản,
Đài Loan, Singapore và Thái Lan.
12


-

+ CTCK có vốn đầu tư nước ngồi hiện chiếm 17,58% thị phần mơi
giới.
Văn phịng đại diện CTCK nước ngồi:
+ 14 văn phịng đại diện CTCK nước ngồi tính đến 01/10/2010.
+ 5 CTCK nước ngồi đồng thời có văn phịng đại diện và cổ phần tại
CTCK VN.


Bắt đầu 2011, trào lưu “săn mua” CTCK VN của NĐT nước ngoài diễn ra
khá “nóng” do TTCK khơng sơi động, khiến giá mua các CTCK rất hời, cùng với
việc từ đầu năm 2012, NĐT ngoại được phép thành lập CTCK 100% vốn nước
ngoài tại VN (theo Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg). Ngày 24/02/2011, CTCK
Nikko Cordial (Nhật Bản) trở thành cổ đông chiến lược của CTCK Dầu khí PSI
với việc CTCK Nikko Cordial mua 14,9% cổ phần của PSI. Trước đó, Cơng ty
chứng khốn và đầu tư Hàn Quốc đã mua gần 49% cổ phần của CTCK Gia Quyền
(EPS); CTCK Hướng Việt chuyển nhượng 48,33% cổ phần cho Morgan Stanley
(Singapore), CTCK Nhấp&Gọi bán 49% cổ phần cho Công ty TNHH CK&Đầu tư
Golden Bridge (Hàn Quốc); CTCK Sài Gòn bán cổ phần cho Tập đoàn Daiwa
Securities (Nhật Bản) và Ngân hàng ANZ; CTCK Việt Nam bán 49% cho Ngân
hàng RHB (Malaysia)… Một số thương vụ khác cũng đang được xúc tiến, điển
hình là SBI Securities (Nhật Bản) đang thương thảo mua 20% cổ phần của CTCK
FPT. Vì thời điểm NĐT nước ngồi được phép thành lập CTCK 100% vốn nước
ngồi tại VN đang
cận kề.
Bên thực
cạnh đó, tập
nhiều CTCK
thua lỗ trong năm 2010 tiếp
Báo
cáo
tốt
nghiệp
tục đối mặt với khó khăn do TTCK đang liên tục giảm điểm. Điều này mở ra cơ
hội cho NĐT ngoại dễ dàng đàm phán và đi đến quyết định mua CTCK VN với
giá khá hời.
3. Tác động của những cam kết với WTO đến TTCK VN
 Một số đặc điểm đáng chú ý của TTCK VN:
Thuận lợi của việc gia nhập WTO đối với TTCK VN là làm tăng trưởng

chu chuyển vốn, trong đó đầu tư nước ngồi tăng đáng kể. Cùng với sự phát triển
của các NĐT là doanh nghiệp (bảo đảm về năng lực tài chính, có tính chun
nghiệp trong hoạt động đầu tư chứng khốn...) thì sự phát triển của các NĐT cá
nhân rất đông (chiếm hơn 60% số nhà đầu tư) và NĐT nước ngoài cũng quan tâm
đầu tư vào TTCK nước ta ngày càng nhiều (bao gồm cả những NĐT có tổ chức và
NĐT cá nhân). Theo tính tốn của một số chun gia kinh tế thì ước tính vốn đầu
tư gián tiếp của các NĐT nước ngồi tại Việt Nam hiện đã lên đến 4 tỉ USD và
còn tiếp tục tăng thêm trong thời gian tới.
TTCK phát triển, nhất là thị trường sơ cấp IPO (nơi cổ phiếu của doanh
nghiệp đã cổ phần hóa được đưa lên sàn. IPO: Initial Public Offering – giá chào
bán khởi đầu của một loại cổ phiếu trên sàn), trong đó có việc cổ phần hóa các
cơng ty có yếu tố vốn nước ngồi sẽ có điều kiện tăng huy động nguồn vốn dài hạn
13


để đầu tư vào phát triển sản xuất kinh doanh trong nước, và đương nhiên tác động
tích cực trở lại cho sự phát triển của TTCK.
Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở
nước ta mang tâm lý “đám đơng”, cũng qua đó nhiều người được hưởng từ “một
vốn, bốn lời” thậm chí tới 10 hoặc hơn 10 lời. Tình hình sơi động của TTCK thời
gian qua phản ánh hiện tượng kinh tế tốt lành là: (1) nền kinh tế Việt Nam đã và
đang tăng trưởng và có xu hướng tiếp tục tăng trưởng; (2) vốn cho đầu tư phát
triển được huy động qua kênh TTCK và vẫn còn điều kiện phát triển qua kênh này
trong thời gian tới, do nhiều doanh nghiệp lớn (trong đó có các ngân hàng thương
mại nhà nước) tiến hành cổ phần hoá, phát hành trái phiếu, thực hiện niêm yết tại
các CTCK. Tuy nhiên, việc phát triển “nóng” của TTCK cũng sẽ phát sinh 2 vấn
đề cần phải quan tâm: (1) việc các NĐT nước ngồi có điều kiện thao túng, dễ gây
rủi ro cho TTCK trong nước; (2) cũng đã tác động khá mạnh đến thị trường bất
động sản, đẩy giá nhà, đất lên cao. Bên cạnh đó, hiện tượng “bong bóng” sẽ làm
ảnh hưởng đến yếu tố an toàn cho những NĐT, nhất là các NĐT cá nhân và cả sự

an toàn của TTCK bị ảnh hưởng. Khi TTCK sụp đổ sẽ phải mất nhiều năm mới có
thể hồi phục, kéo theo nhiều khó khăn khơng chỉ cho hệ thống tài chính, ngân
hàng mà cả đối với nền kinh tế.
Các ngân hàng thương mại cổ phần sau quá trình tái cơ cấu đã làm ăn tốt,
đang ổn định vàBáo
phát triển,
tiếpthực
tục tái cơ
cấu để
tăngnghiệp
cường năng lực cạnh tranh
cáo
tập
tốt
và hội nhập theo các cam kết của WTO, trong đó có việc phát hành thêm cổ phiếu
để tăng vốn. Theo quy định tại Nghị định số 141 ngày 22/11/2006 của Chính phủ
“Về ban hành danh mục vốn pháp định của tổ chức tín dụng” thì đến hết năm 2007
vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại nước ta phải đạt 1000 tỉ đồng và đến
năm 2010 phải đạt 3000 tỉ đồng. Để thực hiện được việc này, các ngân hàng
thương mại phải tìm mọi cách để tăng vốn, trong đó bao gồm cả việc phát hành
thêm cổ phiếu ra công chúng (phát hành mới, phát hành thêm, thưởng cuối năm
bằng cổ phiếu) và đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho cổ phiếu
ngân hàng luôn “nóng”.
Có sự chuyển dịch đáng kể vốn từ ngân hàng thương mại sang đầu tư
chứng khoán theo 2 hướng: (1) các NĐT cá nhân rút tiền gửi tiết kiệm để đầu tư
chứng khoán (2) những người khác (bao gồm cả CTCK của ngân hàng lại vay tiền
của ngân hàng thương mại để kinh doanh chứng khoán. Theo báo cáo của Ngân
hàng Nhà nước, tỷ lệ các ngân hàng thương mại cho các CTCK ngân hàng vay để
kinh doanh chứng khoán tại thời điểm cuối năm 2006 là 2,6%). Qua đây cũng
phần nào tác động đến hoạt động của ngân hàng thương mại và cả Ngân hàng Nhà

nước với vai trò quản lý và điều hành chính sách tiền tệ. Nếu khơng có sự kiểm
sốt kịp thời và hiệu quả thì sẽ dẫn đến rủi ro và nếu rủi ro lớn sẽ ảnh hưởng sự an
toàn của hệ thống ngân hàng.

14


 TTCK VN năm 2006
Năm 2006 là năm TTCK VN được đánh giá là thời kỳ “bùng nổ” kể từ
ngày khai trương thị trường năm 2000. Cụ thể là các kỷ lục về chỉ số chứng khoán
cũng như giá trị giao dịch đã liên tục được phá vỡ trong các kỳ giao dịch của năm.
Chỉ số giá chứng khoán VN-Index của phiên giao dịch cuối cùng của năm (29/12)
tại TTGDCK TPHCM ở mức 751,77 điểm, tăng mạnh so với mức 307,5 điểm của
phiên giao dịch cuối cùng năm 2005.
Trước những diễn biến của chỉ số VN-Index, số lượng công ty niêm yết
cũng tăng mạnh, đến 31/12/2006, đã có 106 cơng ty niêm yết và 2 chứng chỉ quỹ
tại TTGDCK TPHCM, tăng 74 công ty và 1 chứng chỉ quỹ so với năm 2005. Tại
TTGDCK Hà Nội, số lượng công ty cổ phần đăng ký giao dịch cũng tăng nhanh.
Tổng giá trị cổ phiếu niêm yết tính theo giá thị trường đạt 221.156 tỷ đồng,
chiếm 22,7% GDP của năm 2006, tăng 20 lần so với cuối năm 2005. Ngoài ra,
việc niêm yết trái phiếu cũng tăng đáng kể, đến 31/12/2006 có gần 400 loại trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu đơ thị và trái phiếu ngân hàng niêm yết với tổng giá trị
trên 70.000 tỷ đồng, bằng 7,7% GDP của năm 2006.
Sự tăng trưởng của TTCK còn phải kể đến các NĐT. Sự tham gia tích cực,
lành mạnh có tính chun nghiệp của các NĐT đã tạo nên hình ảnh đẹp cho
TTCK. Tuy nhiên, đối với một TTCK còn non trẻ như VN, tính chuyên nghiệp của
thị trường chưa cao do NĐT cá nhân tham gia thị trường chiếm đa số (khoảng
99%), thơng thường đối tượng này trình độ hiểu biết về chứng khốn cịn hạn chế.

Báo cáo thực tập tốt nghiệp


Nguồn: FPTS
Nếu tháng 5/2006, khi chỉ số VN-Index giảm xuống mức thấp kỷ lục, dưới
300 điểm, thì cơn sốt chứng khốn đã lên đến cực điểm vào trung tuần tháng
12/2006 đã kéo chỉ số VN-Index lên mức kỷ lục, vượt ngưỡng 800 điểm. Khó có
thể lý giải ngay lập tức sự lên xuống của chứng khoán, bởi đây là vấn đề nhạy cảm
và phức tạp. Song có thể dễ dàng nhận thấy, TTCK đã có sự tham gia tích cực của

15


các NĐT tư nhân. Năm 2006, số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường tăng hơn 3
lần so với cuối năm 2005, đến hết năm 2006 có khoảng 100.000 tài khoản giao
dịch tại các CTCK, tăng mạnh so với 31.300 tài khoản của năm 2005. Trong đó là
1.700 tài khoản (chiếm 1,7%) của NĐT nước ngoài, bao gồm một số NĐT quốc tế
như JP Morgan, MerrII Lynch, Citigroup… Tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu niêm yết của
NĐT nước ngoài khoảng 25-30%. Giá trị giao dịch chứng khoán (bao gồm cả trái
phiếu) của NĐT nước ngoài năm 2006 cũng tăng cao so với năm 2005. Cụ thể là
giá trị giao dịch mua năm 2006 khoảng 17.000 tỷ đồng (năm 2005 khoảng 3.000
tỷ đồng), giá trị giao dịch bán năm 2006 khoảng 9.500 tỷ đồng (năm 2005 khoảng
2.900 tỷ đồng).
NĐT nước ngồi vào Việt Nam thơng qua các Quỹ đầu tư chứng khốn
ngày càng phổ biến. Đến cuối năm 2006, có 23 Quỹ với quy mô vốn đầu tư ước
đạt 2,3 tỷ USD và gần 50 tổ chức đầu tư nước ngoài mở tài khoản hoặc ủy thác
đầu tư trên TTCK. Theo đánh giá của các chuyên gia thị trường, ở một chừng mực
nào đó, sự thiếu chuyên nghiệp của các NĐT này đã làm cho TTCK đôi khi lên
“cơn sốt nóng - lạnh” thất thường. Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý và được coi là
thành công của TTCK Việt Nam trong năm 2006 là đã và đang thu hút được nhiều
NĐT chun nghiệp nước ngồi. Theo ước tính, các tổ chức, NĐT nước ngoài đã
đầu tư vào thị trường hàng trăm  triệu USD - mức vốn mà theo nhiều NĐT có thể

có những tác động rất mạnh đến các giao dịch trên thị trường.
Tác động Báo
của WTO
đến TTCK
Việttập
Nam tốt nghiệp
cáo
thực
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự bùng nổ của TTCK Việt Nam năm 2006
xuất phát từ các sự kiện kinh tế chính trị quan trọng. Trong đó ngun nhân có tác
động sâu sắc và lâu dài là sự kiện Việt Nam chính thức được gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) cũng như sự kiện tổ chức thành công Hội nghị cấp
cao APEC. Cả hai sự kiện này đã tạo được ấn tượng tốt đối với các NĐT nước
ngoài và đó là tín hiệu cho những làn sóng đầu tư trực tiếp và cả gián tiếp hứa hẹn
sẽ đổ vào Việt Nam. Việc Việt Nam vừa được xếp trong Top những nước có mơi
trường đầu tư tốt nhất năm 2006 đã tạo cơ sở ban đầu thuận lợi, củng cố niềm tin
cho các đối tác nước ngoài đã, đang và sẽ chuẩn bị đầu tư vào Việt Nam. Ngồi ra,
cịn một số nguyên nhân cơ bản như sau:
Thứ nhất, số lượng các công ty niêm yết tăng mạnh trong năm 2006, đặc
biệt là vào thời điểm cuối năm. Chỉ riêng tháng 12, số lượng công ty niêm yết tại
TTGDCK TP HCM đã lên tới 50 công ty. Nguyên nhân của tình hình này do thực
hiện việc cắt giảm ưu đãi thuế thu nhập cho doanh nghiệp niêm yết kể từ ngày
1/1/2007 đã tạo ra một làn sóng lên sàn ồ ạt của các công ty cổ phần.
Thứ hai, cùng với sự bùng nổ về số lượng cổ phiếu niêm yết, số lượng các
CTCK và công ty quản lý quỹ mới thành lập. Hai định chế tài chính này đã gấp rút
nộp hồ sơ xin cấp phép trước thời hạn Luật Chứng khốn có hiệu lực (1/1/2007)
để tranh thủ áp dụng các điều kiện quy định về vốn đối với CTCK và công ty quản
lý quỹ.

16



Những sự kiện nổi bật của TTCK VN năm 2006
1. Luật Chứng khốn chính thức được thơng qua
Ngày 23/6/2006, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XI, Luật Chứng khốn
chính thức được thơng qua với 85,6% số phiếu bàn tán thành. Điều quan trọng
nhất trong luật chứng khoán là đã xây dựng một thị trường làm định hướng cho sự
phát triển của các thành phần tham gia trong vòng ít nhất 4 năm nữa.
2. Luật Đầu tư có hiệu lực từ 1/7/2006
Một trong những tiến bộ vượt bậc của Luật Đầu tư là đã thay đổi một cách
căn bản về quan điểm hạn chế đầu tư vào doanh nghiệp Việt Nam của đối tượng
NĐT nước ngoài. Tinh thần của Luật đầu tư chia các lĩnh vực trong nền kinh tế
thành 3 loại: lĩnh vực cấm đầu tư; lĩnh vực hạn chế đầu tư và lĩnh vực đầu tư
không hạn chế.
3. Cắt giảm ưu đãi thuế cho Doanh nghiệp niêm yết từ ngày 1/1/2007
Chính sách này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình lên sàn của nhiều
doanh nghiệp. Từ đây, làn sóng lên sàn của doanh nghiệp ngay trong năm 2006
diễn ra hết sức mạnh mẽ. TTCK đã được nhìn nhận như một cơ hội tốt dành cho
các doanh nghiệp muốn hoạt động minh bạch và hiệu quả.
4. Bùng nổ CTCK và công ty quản lý quỹ
Sau khi dự
thảo Nghị
định
hướng tập
dẫn Luật
Chứng
khốn được cơng bố vào
Báo
cáo
thực

tốt
nghiệp
tháng 8/2006 với dự kiến nâng mức vốn điều lệ của một CTCK lên tối thiểu 170 tỷ
đồng và của một công ty quản lý quỹ lên tối thiểu 25 tỷ đồng, hàng loạt cá nhân và
tổ chức đã gấp rút nộp hồ sơ xin thành lập 2 loại công ty này để được áp dụng tiêu
chí vốn ở mức thấp hơn theo Nghị định 144/2003/NĐ-CP.
5. Việt Nam trở thành thành viên của WTO
Ngày 7/11/2006 là ngày Việt Nam được chính thức cơng nhận là thành viên
thứ 150 của WTO. Liên quan đến TTCK, các cam kết tại WTO của Việt Nam là
cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được thành lập CTCK 100% vốn nước
ngoài sau 5 năm kể từ ngày gia nhập WTO. Hiện nay, tỷ lệ giới hạn đầu tư của nhà
ĐTNN vào cơng ty chứng khốn là 49%.
Đối với các tổ chức nước ngồi nói chung, việc Việt Nam gia nhập WTO là
một thông điệp cho thấy, Việt Nam thực sự mở cửa nền kinh tế và chấp nhận theo
cuộc chơi toàn cầu. Đây là điều kiện tiên quyết để họ đến với Việt Nam.
6. Tổng thống Mỹ George W. Bush thăm TTGDCK TP. Hồ Chí Minh
Cùng với việc tham dự Hội nghị APEC lần thứ 14 và thăm chính thức Việt
Nam, ngày 20/11/2006, Tổng thống Mỹ George W. Bush đã đến thăm TTGDCK
TP. HCM và gặp gỡ với lãnh đạo nhiều Doanh nghiệp lớn của Việt Nam. Việc
thăm sàn chứng khoán Việt Nam của Tổng thống Bush đã làm dấy lên sự hưng

17


phấn của giới đầu tư trong và ngoài nước với kỳ vọng dịng vốn đầu tư nước ngồi
sẽ chảy mạnh vào Việt Nam.
7. Doanh nghiệp Việt Nam đầu tiên đưa cổ phiếu lên giao dịch tại Mỹ
Công ty cổ phần Cavico Việt Nam đã áp dụng hình thức “sáp nhập nghịch”
để yết giá cổ phiếu của Công ty trên thị trường Pink Sheets của Mỹ. Mặc dù Pink
Sheets chỉ là dịch vụ báo giá điện tử, nhưng việc Cavico Việt Nam tham gia thị

trường này cũng dấy lên làn sóng “tò mò” của dư luận. Một cách bài bản hơn,
nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam như Kinh Đô, Gemadept, Vinamilk sau một
thời gian phát triển, hiện có quy mơ ngang tầm với các doanh nghiệp trong khu
vực, đã lên kế hoạch đưa cổ phiếu sang niêm yết tại TTCK nước ngoài. Hiện nay,
quan điểm của UBCK Việt Nam là không hạn chế.
 TTCK VN năm 2007
Diễn biến của thị trường trong năm 2007 khiến các NĐT cảm thấy bất ngờ
và trở nên bị động trong nhiều tình huống. Đầu năm, thị trường tăng trưởng mạnh
mẽ nhưng sau đó đã đảo chiều và đi xuống nhanh chóng. Ngay cả khi các doanh
nghiệp niêm yết làm ăn tốt, các chỉ tiêu tài chính đều đạt được vượt kế hoạch
nhưng giá cổ phiếu vẫn giảm. Sự phát triển của TTCK tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Sự
thiếu ổn định của thị trường là vấn đề đáng được quan tâm. Cụ thể, sau một thời
gian lên tới “đỉnh”,
thị trường

dấu hiệu
suy giảm.
Đỉnh
điểm, ngày 30.7, giá trị
Báo
cáo
thực
tập
tốt
nghiệp
giao dịch cả phiên trên sàn TP Hồ Chí Minh sụt giảm xuống mức thấp kỷ lục trong
vòng nửa năm qua với hơn 200 tỷ đồng được giao dịch. Trên thị trường OTC, sau
một thời gian tăng trưởng chóng mặt, nhiều cổ phiếu đã mất giá từ 40-50%. Thậm
chí, cổ phiếu trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, dầu khí cũng chịu chung số
phận. Nguyên nhân là do thị trường có sự điều chỉnh sâu, nguồn cung từ các đợt

đấu giá IPO là khá lớn. Trong hoàn cảnh như vậy, nhiều NĐT hy vọng trong năm
2008, thị trường OTC sẽ khởi sắc hơn khi chính thức được quản lý theo phương
thức mới tại TTGDCK Hà Nội. Tuy nhiên, chính sự trồi sụt thất thường của thị
trường đã làm cho NĐT trưởng thành hơn, góp phần sàng lọc NĐT. Nhận thức của
nhiều NĐT đã thay đổi, từ chỗ đầu cơ lướt sóng sang đầu tư dài hạn.

18


Nguồn: FPTS
Xu hướng xã hội hố cổ đơng đang diễn ra ngày một mạnh mẽ, nhiều doanh
nghiệp trước đây chỉ có sự góp vốn trong phạm vi gia đình thì nay đã trở thành
doanh nghiệp đại chúng với hàng vạn cổ đông như: SSI, Sacombank… Những
doanh nghiệp lớn khác như Đạm Phú Mỹ, Bảo Việt, PVI, FPT… cách đây một vài
năm vẫn là những doanh nghiệp 1 chủ (Nhà nước) thì nay đã là doanh nghiệp cổ
phần với hàng nghìn cổ đơng. Ngồi ra, đã có một loạt doanh nghiệp cổ phần đầu
tiên có giá trị thị trường trên 1 tỉ USD như: ACB, Sacombank, FPT, Nhiệt điện
Phả Lại, Vinamilk... Chính xu hướng này đang góp phần quan trọng chuyển dần
sang nền kinh tế cổ phiếu và người dân – Nhà đầu tư (NĐT) được trở thành những
người chủ thực sự. Bên cạnh đó, TTCK khơng chỉ hiện diện tại Hà Nội và TP Hồ
Chí Minh mà đã trải dài đi khắp các địa phương trên cả nước thông qua hàng loạt
chi nhánh, đại lý nhận lệnh của các CTCK. Đáng mừng hơn cả là hầu hết trong số
hơn 200 DN niêm yết tính đến thời điểm này đều hoạt động kinh doanh có hiệu
quả thơng qua TTCK. 
Năm 2007 cũng là năm chứng kiến nhiều vi phạm trên TTCK. Về phía
NĐT, những lỗi phổ biến như cổ đơng VIP giao dịch không công bố thông tin,
nhập lệnh sai của CTCK… Về phía các cơng ty nước ngồi, cơng ty Indochina
Capital Corporation (ICC) bị phạt 10 triệu đồng vì vi phạm quy định về giao dịch
nội bộ do đã giao
dịch cổ

phiếuthực
VNM trên
sàntốt
TP.HCM
mà không báo cáo theo
Báo
cáo
tập
nghiệp
quy định; Citigroup Global Ltd bị cảnh cáo về việc giao dịch cổ phiếu NKD đạt tỷ
lệ sở hữu 5,48% mà không công bố thông tin. Ngồi ra, việc có q nhiều các
CTCK hoạt động tại một thị trường khá mới mẻ như VN đã gây lo ngại cho các
nhà quản lý. Có nhiều cơng ty đã bị xử phạt bởi lỗi vi phạm nhập lệnh.       
Những sự kiện nổi bật của TTCK năm 2007
1. Quy mô thị trường tăng mạnh. Nếu như năm 2006, vốn hóa của thị
trường chứng khốn chỉ chiếm khoảng 22% GDP thì tính đến hết năm 2007 đã đạt
gần 500.000 tỷ đồng, bằng khoảng 43,7% GDP của năm 2007. Dựa trên những kết
quả mà TTCK đạt được trong năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định 128/2007/QĐ-TTg điều chỉnh kế hoạch định lượng về phát triển TTCK đến
năm 2010, hướng đến năm 2020, trong đó đề ra mục tiêu đến năm 2020, tổng giá
trị vốn hóa thị trường đạt 50% GDP, năm 2020 con số này đạt 70% GDP. Sự tăng
trưởng vượt bậc của thị trường còn thể hiện ở con số hơn 330.000 tài khoản so với
con số chỉ hơn 100.000 tài khoản năm ngoái. Cuối năm 2006, chỉ có khoảng 1.000
tài khoản của NĐT nước ngồi thì cả năm nay con số đã lên tới 7.000. Tổng số
tiền mà khối ngoại đầu tư vào thị trường là 3 tỷ USD.
2. VN-Index lập kỷ lục lần đầu tiên trong lịch sử 7 năm hình thành thị
trường chứng khốn, vào ngày 12/03/2007 VN-Index đạt mốc 1170,67 điểm.
19



3. Chỉ thị 03/2008/CT-NHNN về khống chế luồng vốn tín dụng từ kênh dẫn
vốn ngân hàng sang TTCK ở mức 3%. Hạn mức này đã buộc các ngân hàng phải
dừng hoạt động cho vay và thực hiện thu hồi nợ khiến nhiều NĐT thiếu vốn.
4. Bùng nổ các đợt IPO lớn. Năm 2007 đánh dấu tiến trình cổ phần hóa
chuyển biến về chất với việc cổ phần hóa nhiều tập đồn, tổng cơng ty và doanh
nghiệp thuộc các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Điển hình là IPO của Bảo
Việt, PVFC, Đạm Phú Mỹ, Vietcombank… trong đó, IPO của Vietcombank có
ảnh hưởng lớn nhất và được giới đầu tư cả trong và ngoài nước quan tâm nhất.
5. Trung tâm GDCK TPHCM chính thức thành Sở GDCK TPHCM. Cùng
với việc chuyển thành Sở GDCK, cơ quan này chính thức áp dụng khớp lệnh liên
tục tại HOSE từ ngày 30/07/2007. Đây là bước đột phá của thị trường tập trung.
Trước kia HOSE chỉ có 2 đợt khớp lệnh định kỳ và hạn chế của phương thức khớp
lệnh định kỳ là bảng điện tử không hiển thị hết cung cầu cổ phiếu, dễ bị làm giá.
Với việc khớp lệnh liên tục, cung cầu sẽ thật hơn và biên độ dao động giá cũng
mạnh hơn, tạo tính thanh khoản cho thị trường.
6. Luật Chứng khốn có hiệu lực từ ngày 1/1/2007. Luật ra đời đã tạo hành
lang pháp lý quan trọng cho TTCK VN phát triển với nhiều thành viên như:
CTCK, công ty niêm
yết,cáo
cơng ty
quản lýtập
quỹ đãtốt
đượcnghiệp
nâng cấp. Bên cạnh đó, một
Báo
thực
điểm có tầm ảnh hưởng rộng lớn đến văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp
VN là quy định về nghĩa vụ công bố thông tin đối với công ty đại chúng.

 TTCK VN năm 2008

Nếu như năm 2006-2007, TTCK VN phát triển bong bóng với tốc độ nhất
nhì thế giới thì sang năm 2008, thị trường cũng đứng đầu về tốc độ suy giảm. VNIndex mở đầu phiên giao dịch năm 2008 đạt 921,07 điểm, tính đến ngày
29/12/2008, VN-Index đang ở mức 308 điểm, bằng 1/3 so với đầu năm. VN-Index
đã có lúc rơi xuống 286,87 điểm vào ngày 10/12. Trong khi đó, mức thấp nhất của
HASTC-Index là 97,61 điểm vào ngày 27/11/2008. Gía trị vốn hóa thị trường tính
đến hết năm 2008 chỉ còn 13 tỷ USD, tương đương 17% GDP. VN-Index mất gần
70% giá trị.

20


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Nguồn: FPTS
UBBCK NN đã có tổng cộng 4 lần điều chỉnh biên độ chứng khoán.
Lần 1 (27/03/2008): Giảm biên độ dao động trên hai sàn từ 5%
xuống 1% đối với HOSE và 10% xuống 2% đối với HASTC.
Lần 2 (07/04/2008): Nới biên độ mỗi sàn thêm 1%: HOSE 2% và
HASTC 3%.
Lần 3 (19/06/2008): Tiếp tục nới biên độ HOSE lên 3%, HASTC lên
4%.
Lần 4 (18/08/2008): Trả lại biên độ cũ cho HOSE 5%, nới biên độ
HASTC lên 7%.
Trong 3 tháng, khối NĐT nước ngoài liên tục bán ròng cổ phiếu và trái
phiếu trên cả hai sàn Hà Nội và TP.HCM. Nếu trước đây, việc khối ngoại luôn đi
ngược thị trường (mua vào khi thị trường giảm và bán ra khi thị trường tăng) sẽ
góp phần cân bằng lại thị trường thì nay, khối ngoại liên tục bán ra bất kể thị
trường tăng hay giảm. Trước tình hình thế giới lâm vào khủng hoảng chung, giá

21



các cổ phiếu tại chính quốc trở nên rẻ hơn so với thị trường Việt Nam, các tổ chức
nước ngoài có xu hướng bảo tồn vốn và rút về nước. Tính riêng 3 tháng cuối
năm, khối ngoại bán rịng hơn 1730 tỷ đồng cổ phiếu và hơn 27000 tỷ đồng trái
phiếu. Trước hành động bán ròng của khối ngoại, giới đầu tư trong nước cũng liên
tục bán ra cổ phiếu khiến VN-Index xuống 286,87 điểm ngày 10/12/2008.
Một sự kiện thú vị được phát hiện trong cơn khủng hoảng tài chính tồn cầu
là lần đầu tiên TTCK VN có diễn biến cùng chiều với TTCK Mỹ trong một thời
gian khá dài kể từ ngày 15/09/2008. NĐT VN thay vì nhìn vào báo cáo tài chính,
chỉ số VN-Index đã chuyển sang quan tâm đặc biệt đến diễn biến lên xuống của
chỉ số chứng khốn Mỹ và chỉ số chứng khốn tồn cầu. Hiện tượng “Mỹ hóa”
TTCK này được giải thích là cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ có ảnh hưởng lớn
đến các TTCK tồn cầu, trong đó có VN, nhất là trong bối cảnh VN đã gia nhập
WTO.
Thị trường trái phiếu chuyên biệt chính thức đi vào hoạt động ngày
02/06/2008 đã thể hiện rõ tầm quan trọng của mình với khối lượng và giá trị giao
dịch luôn chiếm từ 50% tổng giao dịch của HASTC trở lên. Trái phiếu chính phủ
là một trong những kênh huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. Trong 3 năm
qua, tỷ lệ lãi trái phiếu chính phủ VN ln cao hơn mặt bằng quốc tế. Do vậy trái
phiếu Chính phủ VN đã thu hút được sự quan tâm của nhiều NĐT nước ngoài, đặc
biệt là các quỹ đầu tư trái phiếu quốc tế.

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

Bên cạnh đó, thị trường UPCOM đã có khung pháp lý. Ngày 20/11/2008,
Bộ Tài chính đã ban hành Quy chế Tổ chức và quản lý giao dịch chứng khốn của
cơng ty đại chúng chưa niêm yết (gọi tắt là thị trường UPCOM) của TTGDCK Hà
Nội HaSTC. Việc khởi động thị trường UPCOM được kỳ vọng sẽ từng bước thu
hẹp thị trường tự do, nâng cao tính minh bạch, cơng khai và an tồn trong các giao
dịch chứng khoán. Tuy nhiên, việc vận hành thị trường đăng ký giao dịch vẫn gặp

trở ngại lớn trong việc xác định tỷ lệ sở hữu của NĐT nước ngoài.
 TTCK VN năm 2009
Nếu như năm 2008 được coi là một năm rất đáng quên khi các chỉ số liên
tục sụt giảm thì bước sang năm 2009, TTCK VN đã có sự phục hồi tương đối ấn
tượng, để lại những dấu ấn quan trọng trong lịch sử 9 năm phát triển của TTCK.
Những kỷ lục mới, cột mốc quan trọng đã lần lượt được thiết lập: phiên giao dịch
ngày 24/02/2009, VN-Index đã rơi xuống mức đáy 235,5 điểm, HNX-Index lùi về
dưới mốc 100 điểm khi xuống mức thấp nhất trong lịch sử là 78,06 điểm. Tuy
nhiên, bước sang tháng 03/2009, các NĐT đã lấy lại được niềm tin khi TTCK có
một tháng tăng điểm ấn tượng nhất kể từ tháng 11/2008: VN-Index không chỉ khởi
sắc về điểm số mà khối lượng giao dịch cũng tăng mạnh. Tính đến hết ngày
30/06/2009, VN-Index đã tăng 132,67 điểm (42,03%), HNX-Index tăng 44,57
22


điểm (42,66%) so với thời điểm kết thúc năm 2008. Đây là một bước tiến dài của
TTCK trong nước khi VN-Index đã đạt tốc độ tăng lớn thứ 8 trong tổng số 89 chỉ
số chứng khoán quan trọng trên thế giới khi tăng được 46% so với thời điểm đầu
năm 2009. Kỷ lục về khối lượng giao dịch tại sàn HOSE được thiết lập vào ngày
10/06 với 101.774.520 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được chuyển nhượng, con số
tương tự tại HNX là 56.522.170 cổ phiếu. Từ tháng 8 đến tháng 10, TTCK lại tiếp
tục đợt tăng giá thứ hai đầy mạnh mẽ với nhiều kỷ lục về giá trị và khối lượng
giao dịch kỷ lục được xác lập. Ngày 22/10, TTCK vươn tới đỉnh điểm của đợt
sóng thứ 2 là mức 624,10 điểm. Đây cũng là mức cao nhất của thị trường sau 394
phiên giao dịch kể từ ngày 14/03/2008. Trong khoảng thời gian này, thanh khoản
liên tục đạt kỷ lục trên cả hai sàn. Đối với sàn HOSE, phiên giao dịch ngày 23/10
được coi là "siêu thanh khoản" khi lập kỷ lục cao nhất từ trước đến nay cả về khối
lượng và giá trị giao dịch với hơn 136 triệu đơn vị được chuyển nhượng, tương
ứng giá trị giao dịch lên đến 6,414 nghìn tỷ đồng; sàn HNX đạt kỷ lục với hơn
67,23 triệu cổ phiếu được chuyển nhượng cùng 3,04 nghìn tỷ đồng được giải ngân.

TTCK tăng trưởng mạnh mẽ, nằm ngồi dự đốn của giới chun gia và trở thành
điểm sáng ấn tượng khi có tốc độ phục hồi nhanh nhất châu Á.
Diễn biến của VN-Index trong năm 2009

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

N

23


Nguồn: FPTS
Năm 2009 cũng để lại những ấn tượng mạnh mẽ về các dòng vốn vào - ra
thị trường. Các chuyên gia đều lên tiếng khẳng định: một trong những nguyên
nhân khiến thị trường "nóng" là do khối các CTCK "tung" các địn bẩy tài chính
hỗ trợ NĐT. Khảo sát tại các CTCK mới hay, kể từ khi chứng khoán hồi phục,
nhằm gia tăng lợi nhuận, hầu hết CTCK đều phối hợp với một hay một vài đối tác
tài chính để hỗ trợ vốn cho các NĐT. Tại một số CTCK, tỷ lệ sử dụng địn bẩy có
thể đạt 100-200%. Hình thức hỗ trợ rất đa dạng và thơng thống, NĐT vốn ít thì
được cầm cố từ 40-70% giá trị tiền hay cổ phiếu trong tài khoản để mua tiếp cổ
phiếu. Hàng nghìn NĐT đã liên tiếp quay vịng đồng tiền bằng vay mượn nhằm
gia tăng lợi nhuận khiến sức cầu được khuếch đại lớn gấp nhiều lần thực lực.
Nguồn lực từ các địn bẩy tài chính đã khiến thị trường liên tiếp thiết lập các kỷ
lục về thanh khoản nhưng kèm theo đó là những nỗi lo ngày càng lớn dần. Cuối
tháng 06/2009, UBCKNN đã phải lên tiếng yêu cầu các CTCK thực hiện nghiêm
túc các quy định, đồng thời ngừng ký các hợp đồng repo mới. Tác động từ văn bản
Báo
cáorủithực
tập nhờ
tốthạnnghiệp

của UBCKNN đã
giúp giảm
ro trên TTCK
chế được những dịng tiền
ngắn hạn theo kiểu T +, từ đó NĐT bớt lo lắng với các dòng tiền nợ, làm cho tính
ổn định của thị trường tăng lên.
Chính sách tài khóa, tiền tệ nới lỏng và gói kích thích kinh tế năm 2009 của
Chính phủ là động lực chính để TTCK phục hồi. Tuy nhiên, do những căng thẳng
trên thị trường ngoại hối, nguy cơ lạm phát và nợ Chính phủ gia tăng nên trong hai
tháng cuối năm 2009, chính sách tiền tệ bắt đầu có dấu hiệu thắt chặt. Hơn nữa, từ
nửa cuối tháng 10/2009, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các ngân hàng phải
chấm dứt cho vay chứng khốn. Theo ước tính của các chun gia, có tới 20-50%
dịng tiền trên TTCK đến từ nguồn vốn kích thích kinh tế (địn bẩy tài chính). Cầu
trên TTCK đã chịu tác động mạnh từ những điều chỉnh trên và dẫn tới tính thanh
khoản của thị trường giảm sút. Thực tế cho thấy, những tác động thực đến luồng
tiền vào TTCK cũng như những tác động tâm lý thái quá đã khiến các chỉ số
chứng khoán rơi vào chu kỳ giảm điểm từ tháng 11 cho đến cuối năm. Tính từ
đỉnh cao xác lập trong năm thì VN-Index đã mất khoảng 30% về điểm số. Trong
báo cáo Vietnam Monitor mới ra về tình hình kinh tế và thị trường tài chính chứng khốn của Việt Nam, Ngân hàng HSBC cũng cho rằng TTCK Việt Nam
gần đây đã "hụt hơi" so với các thị trường ở châu Á (hoạt động kém thứ hai trong
quý IV ở khu vực châu Á).

24


Những sự kiện nổi bật TTCK 2009:
1. Cuối tháng 10/2009, giá trị vốn hóa TTCK Việt Nam bằng 55% GDP, là
mức cao nhất trong năm 2009 và cao gấp gần 3 lần so với mức vốn hóa TTCK vào
cuối năm 2008. Nguyên nhân là do có nhiều DN lớn lên sàn, giá cổ phiếu tăng
mạnh và vốn hóa thị trường năm 2009 được tính thêm cả quy mơ thị trường

UPCOM. Tính riêng 5 "đại gia" tham gia TTCK năm 2009 là Tập đoàn Bảo Việt,
Vietcombank, Eximbank, Vietinbank và Masan đã đóng góp trên 150.000 tỷ đồng
giá trị vốn hóa cho tồn TTCK, bằng khoảng 1/3 quy mơ thị trường. Tính đến hết
năm 2009, tổng giá trị vốn hóa thị trường giảm nhẹ, bằng khoảng 48% GDP (năm
2008), do tác động của việc giá cổ phiếu trên cả 3 sàn (HOSE, HNX, UPCOM)
giảm so với đỉnh của năm hồi tháng 10. Dù vậy, quy mơ vốn hóa TTCK hiện nay
vẫn vượt xa con số kế hoạch phát triển TTCK đến năm 2010 do Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt, khi mức vốn hóa yêu cầu đạt được đến năm 2010 là 10% GDP.
2. Lần đầu tiên trong lịch sử 9 năm hoạt động của TTCK Việt Nam xuất
hiện hiện tượng CTCK cho NĐT bán chứng khoán trước khi về tài khoản. Hiện
tượng này lúc đầu xuất hiện tại một số ít CTCK, sau đó đã diễn ra tràn lan, gây
nên sự cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Qua các đợt kiểm tra định kỳ,
UBCKNN đã phát hiện nhiều CTCK cho khách hàng bán chứng khốn ngày T+2,
T+3, cá biệt có công ty cho bán ngày T+1. Để lập lại trật tự thị trường, ngày 24/11,
UBCKNN đã ra công văn yêu cầu các CTCK kể từ ngày 1/12/2009 phải chấm dứt
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
việc cho phép khách hàng bán chứng khoán trước ngày T+4 hoặc cho khách hàng
vay chứng khoán để bán. Cùng với việc siết lại kỷ cương thị trường, UBCKNN
cũng đã xây dựng dự thảo thông tư hướng dẫn giao dịch trên TTCK với quy định
mới, cho phép NĐT được bán chứng khốn ngày T+2, thay vì phải chờ đến T+4
như hiện nay. Dự thảo này đang được Bộ Tài chính xem xét, dự kiến sẽ được ban
hành vào đầu năm 2010.
3. Ngày 12/01/2009, HOSE chính thức triển khai giao dịch trực tuyến. Theo
đó, lệnh giao dịch của NĐT được CTCK truyền thẳng vào hệ thống của Sở mà
không cần qua đại diện sàn. Sự nâng cấp giao dịch này được ví như từ "đi xe đạp"
chuyển sang "dùng xe hơi" khi tốc độ truyền lệnh từ CTCK vào Sở đạt 220
lệnh/giây so với 8 - 10 giây/lệnh trước đó và khơng q 1 giây để NĐT biết được
lệnh đã khớp. Chuyển sang giao dịch trực tuyến là sự chuyển biến căn bản về chất
lượng giao dịch trên HOSE, là yếu tố quyết định đến việc nâng cao tính thanh
khoản trên thị trường.

4. Nhiều DN được giảm, giãn thuế và hỗ trợ lãi suất 4%/năm. Trong bối
cảnh nền kinh tế bị tác động từ khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế thế giới,
ngày 23/1, Thủ tướng Chính phủ quyết định hỗ trợ lãi suất 4%/năm trong thời hạn
8 tháng cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất - kinh doanh.
Trước đó, ngày 13/1, Bộ Tài chính cùng lúc ban hành 3 thông tư hướng dẫn việc
25


×