BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
TRẦN THỊ HỒNG CẢO
QUẢN TRỊ CHI NHÁNH TẠI NGÂN HÀNG ĐA
QUỐC GIA – KINH NGHIỆM CỦA NGÂN HÀNG
MUZUHO CORPORATE, LTD VÀ BÀI HỌC CHO
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THANH MINH
Hà Nội, 2010
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 07 tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức gia nhập trở thành thành
viên của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới WTO. Sự kiện này là một mốc son lịch sử
đánh dấu quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, bên cạnh tính cạnh
tranh ngày càng khốc liệt, chúng ta tiếp nhận từ các tập đoàn kinh tế lớn trên thế
giới không chỉ ở nguồn vốn lớn, khoa học công nghệ, kỹ thuật hiện đại mà tiếp nhận
cả kinh nghiệm quản trị công ty của họ. Với sự phát triển và hội nhập nền kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam tất yếu sẽ hình thành các tập đoàn kinh tế
mang tầm cỡ quốc tế vƣơn chi nhánh hoạt động tới các nƣớc trong khu vực và thế
giới trở thành các công ty, tập đoàn đa quốc gia. Mặt khác, hiện nay Việt Nam đang
phải thực hiện lộ trình mở cửa đối với lĩnh vực ngân hàng. Đã có một số ngân hàng
100% vốn nƣớc ngoài đƣợc phép thành lập tại Việt Nam. Với sức hấp dẫn của thị
trƣờng Việt Nam, nhiều quỹ và công ty tài chính đang tích cực đầu tƣ vào Việt nam
nên sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng ngày càng mạnh mẽ. Trong
điều kiện nhƣ vậy, các Ngân hàng Thƣơng mại Việt Nam muốn tồn tại và hoạt động
vững mạnh trên thị trƣờng trong nƣớc cũng nhƣ trên trƣờng quốc tế trong tƣơng lai
đòi hỏi các ngân hàng không chỉ phải có nguồn vốn lớn, khoa học công nghệ kỹ
thuật hiện đại, đội ngũ nhân lực có trình độ cao mà còn là vấn đề hiệu quả quản trị
chi nhánh, hiệu quả quản trị toàn hệ thống ngân hàng. Với ý nghĩa và tính cấp thiết
về vấn đề quản trị chi nhánh của các ngân hàng, học viên xin đƣợc tìm hiểu và
nghiên cứu về đề tài: "Quản trị chi nhánh tại ngân hàng đa quốc gia: Kinh
nghiệm của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd và bài học cho các Ngân
hàng Thƣơng mại Việt Nam" với hy vọng góp một phần nhỏ bé vào công cuộc
nâng cao trình độ quản trị chi nhánh của hệ thống Ngân hàng Thƣơng mại Việt
Nam, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nƣớc. Đồng thời, học viên lựa
chọn đề tài này để làm luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Quản trị Kinh
doanh tại trƣờng Đại học Ngoại thƣơng Hà Nội.
2
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài về các tập đoàn hay công ty đa quốc gia, đã có một số
đề tài đề cập đến nhƣng chỉ tập trung vào các vấn đề chuyển giao công nghệ, vốn
giữa các chi nhánh của tập đoàn đa quốc gia. Hiện tại chƣa có đề tài nào nghiên cứu
về vấn đề tƣơng tự nhƣ đề tài luận văn tiến hành nghiên cứu ở trên. Trên cơ sở phân
tích và kế thừa các công trình nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc, học viên tiến
hành nghiên cứu một cách tổng thể về một số mô hình quản trị chi nhánh cơ bản của
ngân hàng đa quốc gia trong đó đi sâu nghiên cứu hoạt động quản trị chi nhánh của
Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd từ đó rút ra một số kinh nghiệm trong quản
trị chi nhánh có thể áp dụng trong quản trị chi nhánh của các Ngân hàng Thƣơng
mại Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đi sâu tìm hiểu hoạt động quản trị chi
nhánh của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd từ đó rút ra một số bài học giúp
nâng cao năng lực quản trị chi nhánh của các Ngân hàng Thƣơng mại Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu một số vấn đề cơ bản về quản trị chi nhánh của các ngân hàng đa
quốc gia.
- Tìm hiểu hoạt động quản trị chi nhánh của Ngân hàng đa quốc gia Mizuho
Corporate Bank, Ltd.
- Rút ra bài học kinh nghiệm giúp các Ngân hàng Thƣơng mại Việt Nam quản
trị chi nhánh một cách hiệu quả.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: nghiên cứu hoạt động quản trị chi nhánh của Ngân
hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd và các Ngân hàng Thƣơng mại Việt Nam.
3
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan
đến quản trị chi nhánh của Ngân hàng Mizuho Corporate Bank, Ltd và của
các Ngân hàng Thƣơng mại Việt nam.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học phổ biến, đặc biệt
là kết hợp phƣơng pháp định lƣợng và định tính trong nghiên cứu lý luận cũng nhƣ
trong đánh giá thực tiễn và đề xuất giải pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung chính của luận văn đƣợc chia thành ba phần tƣơng ứng với ba chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quản trị chi nhánh trong các ngân hàng đa
quốc gia.
Chương 2: Nghiên cứu hoạt động quản trị chi nhánh của Ngân hàng đa quốc gia
Mizuho Corporate Bank, Ltd
Chương 3: Một số đề xuất nhằm áp dụng bài học kinh nghiệm trong quản trị chi
nhánh của MHCB đối với các Ngân hàng Thương mại Việt Nam.
Trong luận văn còn có nhiều vấn đề chƣa đƣợc nghiên cứu và đƣa ra các biện
pháp ứng dụng hiệu quả vào Ngân hàng Thƣơng mại Việt nam nên đề tài còn cần
nhiều đóng góp ý kiến và thảo luận thêm. Học viên rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng
góp của Quý Thầy Cô và các bạn thông qua địa chỉ email:
hoặc số điện thoại: 0912 269 585.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 03 năm 2010.
4
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ CHI NHÁNH
TRONG CÁC NGÂN HÀNG ĐA QUỐC GIA
1.1. Một số vấn đề cơ bản về ngân hàng đa quốc gia
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm về công ty đa quốc gia: Ngân hàng đa quốc gia là một thực thể cụ
thể của công ty đa quốc gia nên trƣớc khi tìm hiểu khái niệm cơ bản về ngân hàng
đa quốc gia, chúng ta sẽ tìm hiểu thế nào là công ty đa quốc gia. Theo từ điển
Wipkipedia: "Công ty đa quốc gia, thƣờng viết tắt là MNC (Multinational
Corporation) hoặc MNE (Multinational Enterprises) là công ty sản xuất hoặc cung
cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia" [7, tr. 10]. Nhiều công ty đa quốc gia lớn có
ngân sách vƣợt cả ngân sách của nhiều quốc gia. Công ty đa quốc gia có thể có ảnh
hƣởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và nền kinh tế của các quốc gia. Chúng
đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hoá. Thông thƣờng các công ty
đa quốc gia thƣờng tạo ra các phiên bản nhỏ của chính nó ở mỗi công ty.
Định nghĩa khác về công ty đa quốc gia:
Công ty đa quốc gia là doanh nghiệp có hoạt động trên khắp thế giới với thị
trƣờng và hoạt động sản xuất ở nƣớc ngoài cộng với triết lý toàn cầu đƣợc hợp nhất
bao gồm cả các hoạt động ở trong nƣớc và ở nƣớc ngoài. Một công ty đa quốc gia
thƣờng sử dụng hầu hết các dạng hoạt động kinh doanh quốc tế nhƣ xuất khẩu, hoạt
động cấp phép kinh doanh (licence), đầu tƣ nƣớc ngoài gián tiếp và trực tiếp [4, tr.
15].
Định nghĩa công ty đa quốc gia của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD):
Một công ty đa quốc gia bao gồm nhiều công ty hay thực thể kinh tế. Những
thực thể này có thể thuộc quyền sở hữu cá nhân, thuộc quyền sở hữu nhà nƣớc hay
5
sở hữu hỗn hợp, đƣợc thành lập ở nhiều nƣớc khác nhau và có mối liên kết chặt chẽ.
Chúng ảnh hƣởng đến hoạt động của nhau và đặc biệt cùng có chung mục đích và
nguồn vốn kinh doanh. Trong một công ty đa quốc gia, mức độ tự chủ của các thực
thể rất khác nhau, tuỳ thuộc vào bản chất mối liên kết và lĩnh vực hoạt động giữa
chúng [11, tr. 8].
Định nghĩa công ty đa quốc gia của Liên Hiệp Quốc năm 1978: “Công ty đa
quốc gia là những công ty nắm quyền sở hữu hay kiểm soát hoạt động sản xuất và
hệ thống bán hàng tại nhiều nƣớc khác ngoài nƣớc của mình. Đây không chỉ là công
ty cổ phần, công ty tƣ nhân, mà chúng có thể là những công ty dƣới hình thức hợp
tác xã hay thực thể thuộc quyền sở hữu nhà nƣớc” [6, tr.8].
Qua một số định nghĩa về công ty đa quốc gia nêu trên chúng ta thấy về mặt
định lƣợng, công ty đa quốc gia có phạm vi hoạt động là từ hai nƣớc trở lên; tỷ lệ
lợi nhuận thu từ những hoạt động ở nƣớc ngoài thƣờng chiếm tỷ trọng lớn, từ 25% -
30% [7, tr.11]; mức độ thâm nhập thị trƣờng nƣớc ngoài khá vững chắc, đủ chắc
chắn để đƣa ra các quyết định kinh doanh. Về mặt định tính: công ty đa quốc gia có
sự quản lý và hoạt động kinh doanh mang tính quốc tế, triết lý quản trị công ty có
thể phân thành "dân tộc" (hƣớng nội), đa dạng (hƣớng theo thị trƣờng nƣớc ngoài),
khu vực hay vùng (hƣớng đến khu vực rộng lớn hơn, có thể là toàn cầu). Các công
ty đa quốc gia có thể xếp vào ba nhóm lớn theo cấu trúc các phƣơng tiện sản xuất: i)
Công ty quốc gia theo chiều ngang: sản xuất các sản phẩm cùng loại hoặc tƣơng tự
ở các quốc gia khác nhau; ii) Công ty đa quốc gia theo chiều dọc: có các cơ sở sản
xuất ở một số nƣớc nào đó, sản xuất ra sản phẩm là đầu vào cho sản xuất của nó ở
một số nƣớc khác; iii) Công ty đa quốc gia nhiều chiều: có các cơ sở sản xuất ở các
nƣớc khác nhau mà chúng hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc.
Khái niệm về ngân hàng đa quốc gia: Trong phần trên chúng ta đã có một số
khái niệm cơ bản về công ty đa quốc gia. Trƣớc khi tìm hiểu ngân hàng đa quốc gia,
chúng ta sẽ tìm hiểu về khái niệm ngân hàng. Nói chung, ngân hàng theo nghĩa
truyền thống là một định chế tài chính cung cấp hai loại dịch vụ chính cho công
6
chúng là nhận tiền gửi và cho vay trực tiếp đến các doanh nghiệp, cá nhân và các
định chế tài chính khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Ở Anh, ngân hàng đƣợc coi là
một tổ chức bằng hoạt động của mình tiến hành thu nhận vốn dƣới hình thức tiền
gửi và cấp tín dụng cho các cá nhân và doanh nghiệp. Còn tại Việt Nam: "Ngân
hàng là loại hình tổ chức tín dụng đƣợc thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và
các hoạt động khác có liên quan" [30, (điều 20)] trong đó "Tổ chức tín dụng là
doanh nghiệp đƣợc thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của
pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận
tiền gửi và sử dụng tiền gửi cung cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán ".
Tuy có nhiều cách diễn giải khác nhau để làm rõ khái niệm về ngân hàng nhằm
phân biệt ngân hàng với các định chế tài chính khác nhƣng có điểm chung nhất
trong các định nghĩa về ngân hàng đó là chỉ có ngân hàng mới thực hiện các khoản
cho vay và bán ra những tài khoản thanh toán, ngoài những dịch vụ tài chính giống
nhƣ các định chế tài chính khác cũng thực hiện. Nhƣ vậy, có thể hiểu ngân hàng là
một định chế tài chính cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính, trong đó nghiệp vụ
cơ bản và truyền thống là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và thực hiện dịch vụ thanh
toán. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, có loại hình ngân hàng thƣơng mại,
ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tƣ, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và
các loại hình tổ chức ngân hàng khác.
Qua những khái niệm về công ty đa quốc gia và ngân hàng đơn thuần ở trên,
chúng ta có thể hiểu Ngân hàng đa quốc gia là ngân hàng cung cấp các dịch vụ tài
chính có phạm vi hoạt động ở hai hay nhiều nƣớc, có trụ sở hoạt động chính tại một
nƣớc và có các chi nhánh hoạt động ở nhiều nƣớc trên thế giới. Nhƣ các công ty đa
quốc gia hoạt động trong các lĩnh vực khác trên thế giới, ngân hàng đa quốc gia là
một thực thể kinh tế gồm nhiều công ty hoặc chi nhánh hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực tài chính - ngân hàng nhƣ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán
hoặc các ngành khác có liên quan đến hoạt động đầu tƣ tài chính tại nhiều nƣớc trên
thế giới. Mỗi công ty con hoặc chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia hoạt động tại
các nƣớc là những pháp nhân độc lập, trong đó có một ngân hàng đóng vai trò làm
7
nòng cốt là ngân hàng mẹ. Giữa các chi nhánh và ngân hàng mẹ có mối liên kết nhất
định về tài chính, về quản lý, thông tin hoặc về vấn đề thƣơng hiệu để cùng nhau
thực hiện một liên kết có quy mô lớn, nhằm đạt đƣợc các tôn chỉ, mục đích, sứ
mệnh và hiệu quả hoạt động của cả công ty một cách tối đa.
Khái niệm về quản trị: Trƣớc khi tìm hiểu về quản trị chi nhánh trong các
ngân hàng đa quốc gia, chúng ta tìm hiểu về khái niệm quản trị chung trong công ty
và quản trị chi nhánh.
Có nhiều khái niệm về quản trị nhƣng có thể hiểu quản trị là một quá trình
tổng thể về bố trí, sắp xếp nhân lực và tài nguyên một cách hiệu quả hƣớng đến các
mục tiêu nhất định của một tổ chức. Liên quan đến vấn đề quản trị trong công ty, có
hai khái niệm là quản trị công ty (QTCT) và quản trị kinh doanh (QTKD). Nhiều
ngƣời cho rằng quản trị chính là QTKD hoặc cũng chính là QTCT. Thực ra hai khái
niệm này không giống nhau. QTKD là điều hành quản lý hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp do Ban Giám đốc thực hiện. Còn QTCT, theo từ điển Bách
khoa toàn thƣ Wikipedia [35], là một hệ thống các thiết chế, chính sách, luật lệ
nhằm định hƣớng, vận hành và kiểm soát công ty. QTCT cũng bao hàm mối quan
hệ giữa nhiều bên, không chỉ nội bộ công ty mà còn những bên có lợi ích liên quan
bên ngoài công ty nhƣ các cơ quan quản lý Nhà nƣớc, các đối tác kinh doanh và cả
môi trƣờng, cộng đồng và xã hội. Có thể hiểu QTCT là một quá trình giám sát và
kiểm soát để đảm bảo hoạt động quản trị kinh doanh phù hợp với lợi ích của các cổ
đông. QTCT ở nghĩa rộng còn hƣớng đến đảm bảo quyền lợi của những ngƣời liên
quan không chỉ là cổ đông mà còn bao gồm các nhân viên, khách hàng, nhà cung
cấp, môi trƣờng và các cơ quan nhà nƣớc. QTCT đƣợc đặt trên cơ sở của sự tách
biệt giữa quản lý và sở hữu doanh nghiệp. Chủ sở hữu công ty là nhà đầu tƣ hoặc
các cổ đông nhƣng để công ty tồn tại và phát triển phải có sự điều hành của Hội
đồng Quản trị (HĐQT), Ban giám đốc và những đóng góp của ngƣời lao động mà
những ngƣời này không phải lúc nào cũng có chung ý chí và quyền lợi. Rõ ràng cần
phải có một cơ chế quản lý, điều hành và kiểm soát để nhà đầu tƣ, cổ đông có thể
kiểm soát việc điều hành công ty nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Điểm mấu chốt
8
nhất của QTCT là phải có đƣợc HĐQT có đủ tầm để chỉ đạo và kiểm soát công ty.
Theo thông lệ quốc tế, HĐQT là một cơ quan có quyền lực cao nhất của doanh
nghiệp, nơi vạch ra những chiến lƣợc và giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. QTCT tốt sẽ có tác dụng làm cho các quyết định và hành động
của Ban Giám đốc thể hiện đúng ý chí và đảm bảo lợi ích của nhà đầu tƣ, cổ đông
và những ngƣời có lợi ích liên quan. Nói gọn lại, QTCT là mô hình cân bằng và
kiềm chế quyền lực giữa các bên liên quan của công ty, hƣớng tới sự phát triển dài
hạn của công ty.
Quản trị chi nhánh: Chúng ta đã có một số khái niệm về vấn đề quản trị
trong công ty. Quản trị chi nhánh là hoạt động quản lý của công ty mẹ hoặc hội sở
chính với chi nhánh, đảm bảo sự phát triển bền vững cho các chi nhánh cũng nhƣ
của toàn bộ công ty.
Để hiểu hơn về hoạt động quản trị chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia,
chúng ta tìm hiểu một số đặc điểm chung trong việc quản trị chi nhánh của ngân
hàng đa quốc gia nhƣ sau:
Thứ nhất, đó là quyền sở hữu tập trung: ngân hàng con hay các chi nhánh
trên khắp thế giới đều thuộc quyền sở hữu tập trung của ngân hàng mẹ, mặc dù
chúng có những hoạt động cụ thể hàng ngày không hẳn hoàn toàn giống nhau và
giống ngân hàng mẹ, các chi nhánh đƣợc phép cung cấp các dịch vụ cụ thể tại các
nƣớc tùy thuộc vào luật pháp các nƣớc quy định
Thứ hai, các nhà lãnh đạo ngân hàng đa quốc gia thƣờng xuyên theo đuổi
những chiến lƣợc quản trị, điều hành và kinh doanh có tính toàn cầu. Tuy nhiên,
mỗi ngân hàng đa quốc gia có thể có nhiều chiến lƣợc và kỹ thuật hoạt động đặc
trƣng để phù hợp với từng địa phƣơng nơi có chi nhánh, trụ sở hoạt động.
Thứ ba, về quản trị tài chính quốc tế hoặc các hoạt động quản trị khác trong
các ngân hàng con, chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia hoạt động tại các nƣớc
trên thế giới cũng có nhiều khác biệt so với ngân hàng mẹ và các chi nhánh ngân
hàng hoạt động đơn thuần trên thị trƣờng nội địa nhƣ sự khác biệt về hệ thống tiền
9
tệ, khác biệt về cơ sở hạch toán lợi nhuận, các quy định chính sách pháp luật, văn
hóa, chính trị
Nhƣ vậy, quản trị chi nhánh tại các ngân hàng đa quốc gia là hoạt động quản
trị của ngân hàng mẹ có trụ sở tại một nƣớc với các ngân hàng con hay chi nhánh
ngân hàng hoạt động tại nƣớc của ngân hàng mẹ và tại các nƣớc khác trên thế giới,
thông qua các quy định, chính sách, kế hoạch thực hiện và các hoạt động kiểm soát
của ngân hàng mẹ với các ngân hàng con hoặc chi nhánh nhằm đảm bảo các ngân
hàng con hoặc chi nhánh hoạt động theo các mục tiêu, định hƣớng phát triển chung
của ngân hàng mẹ. Đồng thời đảm bảo các ngân hàng con hoặc chi nhánh ngân
hàng hoạt động đạt hiệu quả nhất dƣới tác động của môi trƣờng vĩ mô quốc tế và
môi trƣờng ngành quốc tế.
1.1.2. Một số đặc điểm của ngân hàng đa quốc gia
Trong môi trƣờng hoạt động trên phạm vi toàn thế giới, các ngân hàng đa
quốc gia luôn phải chú ý tới những sự khác biệt cơ bản trong quá trình hoạt động.
Những sự khác biệt cơ bản đó là:
Thứ nhất, đó là sự khác biệt về hệ thống tiền tệ: vấn đề mà các ngân hàng đa
quốc gia rất chú trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh và hoạt động quản trị
chi nhánh trên phạm vi toàn cầu là vấn đề quản lý tài chính giữa các chi nhánh trên
toàn thế giới và vấn đề hợp nhất tài chính giữa các chi nhánh với công ty mẹ. Do
môi trƣờng hoạt động kinh doanh giữa các chi nhánh và Hội sở chính là khác nhau,
các chi nhánh sử dụng các loại tiền tệ khác nhau, áp dụng các hệ thống kế toán khác
nhau Trong vấn đề quản lý tài chính, các chi nhánh hoạt động tại các nƣớc ghi
nhận các dòng lƣu thông tiền tệ luân chuyển vào và ra thông qua các hệ thống hạch
toán kế toán theo quy định cụ thể tại nƣớc sở tại nơi có chi nhánh hoạt động. Các
nghiệp vụ tài chính phát sinh do đó phải hạch toán bằng hệ thống kế toán tại nƣớc
sở tại và tính toán trên tiền bản xứ sau đó qui đổi ra đơn vị tiền tệ thống nhất của
ngân hàng mẹ (đơn vị tiền tệ thống nhất thƣờng là ngoại tệ mạnh hoặc là loại tiền
Hội sở chính sử dụng). Nhƣ vậy, khi phân tích tình hình tài chính của ngân hàng đa
10
quốc gia cần chú ý tới các chỉ tiêu phân tích tỷ giá hối đoái hoặc phân tích ảnh
hƣởng của biến động giá trị tiền tệ hay cơ chế kế toán
Thứ hai, đó là về thể chế chính trị và kinh tế: Mỗi quốc gia có khuôn mẫu và
đặc thù kinh tế và chính trị riêng. Sự khác biệt này là một vấn đề rất quan trọng
trong các đối sách của ngân hàng đa quốc gia trong việc điều hành và quản lý các
ngân hàng con và các chi nhánh trên qui mô toàn thế giới.
Thứ ba là sự khác biệt về ngôn ngữ: Khả năng giao tiếp là yêu cầu hàng đầu
trong mọi giao dịch kinh doanh, trong đó ngôn ngữ đóng vai trò trọng yếu. Vì vậy
các ngân hàng đa quốc gia muốn bành trƣớng việc kinh doanh của mình ra khỏi
biên giới quốc gia thì vấn đề hàng đầu cần quan tâm đó là khả năng ngoại ngữ của
nƣớc sở tại.
Thứ tư là sự khác biệt về văn hoá: Mỗi nƣớc có bản sắc văn hoá riêng và ảnh
hƣởng sâu sắc tới hoạt động kinh doanh trong xã hội. Chính vì vậy, các ngân hàng
đa quốc gia muốn mở rộng hoạt động kinh doanh, mở thêm chi nhánh hoạt động
hay thực hiện các mục tiêu kinh doanh ở nƣớc ngoài cần đặc biệt quan tâm đến vấn
đề này.
Từ những khác biệt trong môi trƣờng kinh doanh quốc tế trên chúng ta thấy
ngân hàng đa quốc gia có một số đặc điểm sau:
Trƣớc hết về mặt xuất xứ, các ngân hàng đa quốc gia là sản phẩm của sự liên
minh giữa những nhà tƣ bản có thế lực nhất. Đặc trƣng này phân biệt các ngân hàng
đa quốc gia trong thời đại tƣ bản tài chính, tức là các ngân hàng đa quốc gia hiện
đại, với các ngân hàng hoạt động trên phạm vi quốc tế ra đời trong thời kỳ tƣ bản tự
do cạnh tranh và ngay cả thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tƣ bản. Trong
thời đại ngày nay, khi quốc tế hoá sản xuất đƣợc đẩy mạnh, các công ty của những
quốc gia đang phát triển, nhất là những công ty thuộc nhóm các nƣớc công nghiệp
mới, mở rộng thị trƣờng cạnh tranh quốc tế và với sự giúp đỡ của nhà nƣớc thì
chúng có thể vƣơn ra hoạt động trên phạm vi quốc tế, thậm chí thiết lập những chi
11
nhánh ở ngay tại các nƣớc tƣ bản phát triển. Chính vì vậy, các ngân hàng đa quốc
gia cũng phát triển mạng lƣới hoạt động ra phạm vi toàn cầu một cách nhanh chóng.
Đặc điểm thứ hai của ngân hàng đa quốc gia là những ngân hàng có tầm cỡ
quốc tế, hoạt động trong môi trƣờng kinh doanh quốc tế. Các ngân hàng này thiết
lập hệ thống chi nhánh ở nƣớc ngoài với mục đích nâng cao tỷ suất lợi nhuận thông
qua việc bành chƣớng quốc tế. Chúng thực hiện việc phân công lao động quốc tế và
phân chia thị trƣờng thế giới giữa các công ty tƣ bản nói riêng và các cƣờng quốc
công nghiệp nói chung.
Đặc điểm thứ ba của các ngân hàng đa quốc gia là ngân hàng mẹ hay gọi là
Hội sở chính và các chi nhánh có mối liên kết đặc biệt. Ngân hàng đa quốc gia luôn
có cơ cấu tổ chức gồm hai bộ phận cơ bản: Ngân hàng mẹ hay Hội sở chính và các
chi nhánh. Hội sở chính thƣờng có trụ sở đặt tại nƣớc mà ngân hàng đó mang quốc
tịch. Giữa Hội sở chính và các chi nhánh có mối quan hệ tƣơng trợ, trong đó Hội sở
chính giữ vai trò quản lý chung, các chi nhánh là những đơn vị hạch toán độc lập
nhƣng tuân thủ các điều lệ, quy định và chính sách phát triển chung của Hội sở, tất
cả hợp thành một chỉnh thể thống nhất. Tuy nhiên, mối liên kết này là một chỉnh thể
nhƣng lại chứa đựng điểm mâu thuẫn. Trong vòng xoáy hoạt động của chúng có cả
những lực hƣớng tâm và ly tâm. Các lực hƣớng tâm liên kết các ngân hàng con,
công ty con, các chi nhánh thành một tổ hợp kinh tế quốc tế thống nhất thông qua
nhiều mối dây liên hệ, mốc nối và phụ thuộc nhau ở các mức độ nhất định. Các lực
ly tâm buộc các công ty con, ngân hàng con, các chi nhánh phải tự xây dựng và
hoạch định các chiến lƣợc kinh doanh nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao năng
lực cạnh tranh tại mỗi nƣớc trên thế giới, hoạt động độc lập với Hội sở chính.
1.1.3. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động quản trị chi nhánh của ngân hàng đa
quốc gia
Từ một số đặc điểm của ngân hàng đa quốc gia trong phần 1.1.2, chúng ta
nhận thấy một số yếu tố quan trọng ảnh hƣởng đến hoạt động quản trị và các quyết
định quản trị chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia.
12
Thứ nhất là môi trường hoạt động của Ngân hàng, của Hội sở chính và các
chi nhánh. Môi trƣờng hoạt động của ngân hàng gồm có các yếu tố thuộc môi
trƣờng vĩ mô và môi trƣờng ngành. Môi trƣờng vĩ mô gồm có môi trƣờng kinh tế,
môi trƣờng chính trị, môi trƣờng pháp luật, môi trƣờng công nghệ, môi trƣờng văn
hoá xã hội. Môi trƣờng ngành gồm có các đối thủ cạnh tranh, khách hàng, các sản
phẩm mới thay thế và các đối thủ tiềm ẩn. Đối với các ngân hàng đa quốc gia thì
bên cạnh môi trƣờng vĩ mô và môi trƣờng ngành của nƣớc đặt Hội sở chính thì còn
chịu ảnh hƣởng của môi trƣờng vĩ mô và môi trƣờng ngành của các nƣớc có chi
nhánh hoạt động, có thể hiểu là môi trƣờng vĩ mô và môi trƣờng ngành quốc tế.
Trong môi trƣờng hoạt động kinh doanh với phạm vi quốc tế và chịu sự điều chỉnh
của các luật quốc gia, các điều ƣớc quốc tế, vấn đề quản trị của ngân hàng đa quốc
gia là vấn đề hết sức quan trọng. Do đó, các ngân hàng đa quốc gia, với đặc thù là
trung gian tài chính thực hiện chức năng kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt là
tiền tệ, có chi nhánh hoạt động trên khắp thế giới thì vấn đề quản trị chi nhánh đảm
bảo thực hiện đƣợc các mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của toàn hệ thống ngân
hàng càng trở nên quan trọng.
Thứ hai là về mặt quản lý. Nét nổi bật trong vấn đề quản lý của ngân hàng đa
quốc gia là vấn đề kiểm soát của ngân hàng mẹ đối với các công ty con, ngân hàng
con hoặc các chi nhánh theo phong cách riêng, bằng cách sử dụng các đòn bẩy kinh
tế, thực hiện việc tập trung hoá có mức độ và kiểm soát chủ yếu theo hệ thống dọc
từ trung tâm đến ngoại vi. Theo cách quản lý đó, vai trò định hƣớng phát triển chiến
lƣợc về tài chính, kỹ thuật, thông tin, tín dụng của ngân hàng mẹ rất quan trọng, còn
các công ty con, ngân hàng con và các chi nhánh là những đơn vị kinh doanh hoạt
động mang tính độc lập tƣơng đối và trở thành những đơn vị hạch toán độc lập. Do
đó buộc chúng phải năng động, xây dựng các điều kiện và môi trƣờng thích hợp để
phát huy tính năng động.
13
1.2. Một số nguyên tắc cơ bản trong quản trị chi nhánh của các ngân hàng
đa quốc gia
Quản trị chiến lƣợc có vai trò hết sức quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp
kinh doanh nào. Ngân hàng Thƣơng mại cũng là một loại hình doanh nghiệp do vậy
quản trị chiến lƣợc Ngân hàng Thƣơng mại cũng phải tuân theo các nội dung cơ bản
của quản trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, Ngân hàng Thƣơng mại là một doanh nghiệp
đặc biệt, có những đặc điểm và đặc trƣng riêng nên quản trị Ngân hàng Thƣơng mại
có những nguyên tắc quản trị riêng. Đồng thời, nguyên tắc quản trị chi nhánh trong
ngân hàng đa quốc gia là trƣờng hợp cụ thể của nguyên tắc quản trị chi nhánh trong
các công ty đa quốc gia hoặc tập đoàn đa quốc gia do đó để tìm hiểu các nguyên tắc
quản trị chi nhánh trong ngân hàng đa quốc gia, chúng ta sẽ tìm hiểu các nguyên tắc
cơ bản trong quản trị công ty, quản trị chi nhánh của các công ty đa quốc gia, tập
đoàn đa quốc gia, từ đó đƣa ra các nguyên tắc cơ bản quản trị chi nhánh trong ngân
hàng đa quốc gia. Quản trị công ty đòi hỏi có những nguyên tắc nhất định thì việc
quản trị chi nhánh càng đòi hỏi phải có những nguyên tắc chặt chẽ và đầy đủ hơn.
Nguyên tắc quản trị chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia cũng chính là các nguyên
tắc quản lý chi nhánh của một ngân hàng thƣơng mại trong phạm vi một nƣớc hoặc
cũng chính là các nguyên tắc quản lý các công ty con trong một tập đoàn tài chính.
Tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại, phát triển, liên kết hoặc tích hợp các tập đoàn
trong lịch sử phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới, có thể nhận thấy ở
mỗi nƣớc tuỳ theo đặc thù kinh tế của mình đều có những mô hình và nguyên tắc
quản trị riêng và khác biệt. Nhƣng cũng có thể rút ra đƣợc một số nguyên tắc chung
và mang tính quyết định tới sự thành công của các mô hình quản trị này.
Thứ nhất, trong quá trình quản trị chi nhánh, phải xác định được quy trình
hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng, từ Hội sở tới các chi nhánh, bảo đảm tính
thống nhất và chặt chẽ trong tổ chức. Đó có thể là hệ thống quản lý tài chính rành
mạch trong trƣờng hợp ngân hàng đa quốc gia có các công ty con, ngân hàng, chi
nhánh hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Cũng có thể là Hội sở chính quản
14
lý mọi hoạt động của các công ty con và các chi nhánh: từ các vấn đề nhƣ chiến
lƣợc và định hƣớng phát triển của các chi nhánh cho tới các hoạt động hàng ngày
của các chi nhánh. Nói tóm lại, khi quản trị chi nhánh, các ngân hàng đa quốc gia
phải xác định đƣợc các công ty con, ngân hàng con và các chi nhánh trong hệ thống
ngân hàng sẽ đƣợc quản lý và liên kết với nhau theo nguyên tắc nào.
Thứ hai, đảm bảo tính độc lập và tự chủ trong một thể thống nhất. Với
nguyên tắc này, phải bảo đảm đồng thời tính thống nhất về vấn đề độc lập, tự chủ
trong hoạch toán và các hoạt động kinh doanh của các chi nhánh, công ty con, ngân
hàng con với Hội sở chính. Để làm đƣợc điều này đòi hỏi các ngân hàng đa quốc
gia phải thiết lập mối quan hệ thị trƣờng rạch ròi giữa các chi nhánh trong ngân
hàng, trong vấn đề quản lý tài chính, quản lý vốn đầu tƣ cũng nhƣ vấn đề về quản lý
và điều phối cổ phần.
Thứ ba, nâng cao sức cạnh tranh của các chi nhánh, công ty con, ngân hàng
con để nâng cao sức cạnh tranh của toàn bộ ngân hàng. Một trong những điểm cốt
lõi của thị trƣờng và nguồn gốc của sự phát triển là sự cạnh tranh. Dù hoạt động
trong lĩnh vực nào, vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của mỗi chi nhánh, công ty con,
ngân hàng con và của toàn bộ ngân hàng đa quốc gia có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Do đó, các ngân hàng đa quốc gia luôn chú trọng việc thiết lập cơ chế thúc đẩy sự
cạnh tranh lành mạnh giữa các chi nhánh, công ty con, ngân hàng con từ đó nâng
cao năng lực cạnh tranh của toàn hệ thống ngân hàng.
Ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc hoạt động cơ bản, với đặc thù của ngành
ngân hàng là kinh doanh tiền tệ và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến tài
chính thì trong quá trình quản trị chi nhánh, các ngân hàng đa quốc gia phải tuân thủ
thêm một số nguyên tắc do Uỷ ban Basel về giám sát hoạt động ngân hàng, viết tắt
là Basel, quy định. Từ năm 1999, Uỷ ban này đã nỗ lực đƣa ra Hiệp ƣớc mới thay
thế cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Hiệp ƣớc quốc tế về vốn của Basel (gọi
là Basel II) đã chính thức đƣợc ban hành với cách tiếp cận mới dựa trên ba nguyên
tắc cơ bản mà các ngân hàng quốc tế khi hoạt động bắt buộc phải tuân theo:
15
Nguyên tắc thứ nhất: Các ngân hàng phải duy trì một lƣợng vốn đủ lớn để
trang trải cho các hoạt động chịu rủi ro của toàn bộ ngân hàng, bao gồm cả Hội sở
và tất cả các chi nhánh, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị trƣờng và rủi ro tác
nghiệp. Theo đó, cách tính chi phí vốn đối với rủi ro tín dụng quy định trong Basel
II có sự sửa đổi lớn so với quy định trong Basel I và thay đổi nhỏ đối với rủi ro thị
trƣờng nhƣng hoàn toàn là phiên bản mới trong rủi ro tác nghiệp.
Nguyên tắc thứ hai: Các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn về
các loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng các giám sát viên có thể
đánh giá đƣợc tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá này. Với nguyên tắc này,
Basel II nhấn mạnh các vấn đề bắt buộc của công tác rà soát, giám sát trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng. Các ngân hàng cần phải xây dựng quy trình đánh giá
về mức độ đầy đủ vốn của họ theo danh mục rủi ro và thiết lập các chiến lƣợc đúng
đắn nhằm duy trì mức vốn đó.
Nguyên tắc thứ ba: các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách
thích đáng theo nguyên tắc thị trƣờng. Với nguyên tắc này, Basel II đƣa ra một danh
sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai và minh bạch thông tin từ
những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan
đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trƣờng, rủi ro tác
nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này.
Ngoài một số nguyên tắc cơ bản của Basel, trong quá trình quản trị chi nhánh
mỗi ngân hàng đa quốc gia còn xây dựng những nguyên tắc quản lý đặc thù tuỳ theo
mục đích quản trị chiến lƣợc của ngân hàng đó.
1.3. Một số mô hình quản trị chi nhánh cơ bản của ngân hàng đa quốc gia
1.3.1. Định hƣớng tiếp cận về quản trị chi nhánh trong các ngân hàng đa quốc gia
Từ các đặc điểm về ngân hàng đa quốc gia nhƣ đã tìm hiểu trong mục 1.1.2,
chúng ta sẽ đi tới các hƣớng tiếp cận về quản trị chi nhánh trong các ngân hàng đa
quốc gia. Để hiểu hơn về ngân hàng đa quốc gia, chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về cấu
16
trúc tổ chức và các loại hình ngân hàng đa quốc gia chủ yếu trên thế giới. Hiện nay
trên thế giới, ngân hàng đa quốc gia có các cấu trúc tổ chức chủ yếu sau:
Mô hình ngân hàng đa năng (Universal banking): Mô hình ngân hàng đa năng
là mô hình tập đoàn ngân hàng xuất hiện sớm ở Anh và Mỹ. Ở Mỹ, loại hình tập
đoàn này là sản phẩm của Đạo luật Glass – Steagall Act năm 1933. Các ngân hàng
lớn thƣờng có xu hƣớng hoạt động nhƣ những ngân hàng toàn cầu trong khi một số
tổ chức nhỏ hơn lại tập trung vào phát triển thành những ngân hàng thƣơng mại
chuyên biệt hoặc ngân hàng đầu tƣ. Mô hình ngân hàng đa năng cũng là mô hình
ngân hàng phổ biến nhất ở Châu Âu. Với mô hình này, các cổ đông của ngân hàng
trực tiếp quản lý các hoạt động kinh doanh ngân hàng, kinh doanh chứng khoán,
kinh doanh bảo hiểm và không có sự phân biệt về quản lý vốn giữa các lĩnh vực.
Với cấu trúc tổ chức nhƣ vậy cũng gây ra khó khăn trong việc xác định rủi ro của
mỗi lĩnh vực. Bên cạnh đó, rủi ro của lĩnh vực này có thể dẫn tới rủi ro sang các lĩnh
vực khác. Ở Châu Âu, ngân hàng đa năng có thể hoạt động cả trong lĩnh vực kinh
doanh chứng khoán và kinh doanh bảo hiểm cùng với hoạt động kinh doanh ngân
hàng nhƣng thực tế không có quốc gia nào cho phép một công ty đơn lẻ thực hiện
cả 3 hoạt động kinh doanh trên. Đây là mô hình ít đƣợc áp dụng ở các nƣớc đang
phát triển và không áp dụng đƣợc ở Việt Nam vì Việt Nam chƣa đạt đƣợc trình độ
phát triển cao và đội ngũ quản lý cũng không thể quản lý đƣợc một hệ thống nhƣ
vậy.
Nhƣ vậy, ngân hàng đa năng là ngân hàng không chỉ đơn thuần hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng mà còn hoạt động trong các lĩnh vực tài chính
có liên quan khác nhƣ kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm.
Mô hình công ty mẹ vừa nắm vốn vừa kinh doanh ngân hàng (parent-
subsidiary relationship): Với mô hình tổ chức của loại hình ngân hàng này, các công
ty tài chính là công ty con của ngân hàng. Các cổ đông của ngân hàng quản lý trực
tiếp ngân hàng nhƣng không quản lý trực tiếp các công ty bảo hiểm hay công ty
chứng khoán, còn các lãnh đạo ngân hàng quản lý trực tiếp hoạt động của công ty
17
chứng khoán và công ty bảo hiểm. Với mô hình này, vốn của ngân hàng, công ty
chứng khoán và công ty bảo hiểm đƣợc quản lý một cách độc lập tuy nhiên rủi ro
vẫn có thể xảy ra và gây ra rủi ro dây chuyền. Đây là mô hình phổ biến ở các nƣớc
nhƣ Anh, Canada Mô hình này có ƣu điểm là hoạt động ngân hàng thƣơng mại và
hoạt động đầu tƣ đƣợc tách biệt, giúp cho ngân hàng này có thể giảm thiểu rủi ro
hơn so với mô hình ngân hàng đa năng. Nguồn vốn đƣợc chia cho các công ty con
và quản lý một cách độc lập do đó hạn chế đƣợc nhiều rủi ro hơn khi nền kinh tế
gặp khó khăn hoặc một công ty con gặp vấn đề. Mô hình này có cấu trúc rõ ràng,
đơn giản hơn mô hình đa năng và dễ quản lý hơn vì nó đƣợc chia thành nhiều mảng
hoạt động, các công ty con chịu trách nhiệm đối với từng mảng hoạt động do đó tạo
điều kiện cho các cổ đông dễ dàng nắm bắt các hoạt động của ngân hàng. Tuy
nhiên, mô hình này có nhƣợc điểm là không mang lại sự thuận tiện cho khách hàng
và không nắm bắt thông tin nhanh nhƣ mô hình ngân hàng đa năng.
Mô hình công ty mẹ nắm vốn thuần tuý (Holding company): Trong mô hình
này, ngân hàng mẹ sở hữu cổ phần của các công ty con hoặc các chi nhánh. Ngân
hàng mẹ chủ yếu thƣờng chỉ thực hiện hoạt động đầu tƣ tài chính và chịu trách
nhiệm quản lý các chi nhánh hoặc công ty con trên từng lĩnh vực. Mô hình này có
ƣu điểm là có thể giảm thiểu rủi ro cho các chủ sở hữu, cho phép họ sở hữu và kiểm
soát số lƣợng các chi nhánh khác nhau. Mô hình này là mô hình của một số tập
đoàn ngân hàng đa quốc gia nhƣ Citigroup, HSBC Các cổ đông của công ty mẹ
không trực tiếp quản lý hoạt động của các công ty con. Do đó, rủi ro của lĩnh vực
này không ảnh hƣởng đến hoạt động của lĩnh vực khác. Mô hình này rất phổ biến
trong các tập đoàn tài chính quốc tế ở Mỹ và Nhật Bản.
Nhƣ vậy, có ba loại hình ngân hàng đa quốc gia chính đó là ngân hàng hoạt
động trong lĩnh vực ngân hàng đơn ngành, không chịu sự quản lý hay thuộc sở hữu
của công ty hay tập đoàn khác. Loại hình ngân hàng thứ hai là ngân hàng thuộc sở
hữu và chịu sự quản lý của một tập đoàn hay công ty khác. Loại hình thứ ba là ngân
hàng liên kết với các ngân hàng hay công ty khác nhƣng hoạt động độc lập với công
18
ty liên kết. Các chi nhánh của ngân hàng hoạt động tại nhiều nƣớc trên thế giới và
chỉ chịu sự quản lý của ngân hàng này.
1.3.2. Một số mô hình quản trị chi nhánh cơ bản của ngân hàng đa quốc gia
Qua cách tiếp cận trong phần 1.3.1, chúng ta thấy các ngân hàng, công ty
con, chi nhánh trong ngân hàng đa quốc gia có mối quan hệ khác nhau với ngân
hàng mẹ nhƣng có một điểm chung đó là các ngân hàng con, các chi nhánh trong
ngân hàng đa quốc gia luôn nhân danh ngân hàng mẹ để thiết lập các mối quan hệ
kinh doanh với các đối tác bên ngoài. Mặt khác, quan hệ giữa các ngân hàng con,
công ty con và các chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia với nhau là dựa trên quan
hệ kinh tế, quan hệ thị trƣờng. Ngân hàng đa quốc gia thiết lập hệ thống nguyên tắc
quản trị thống nhất trong ngân hàng với việc thiết lập tầm nhìn, sứ mệnh, hệ thống
giá trị cốt lõi, quy định, quy chế quản trị nội bộ và xây dựng thƣơng hiệu cho toàn
bộ ngân hàng. Hệ thống nguyên tắc quản trị này áp dụng thống nhất và ảnh hƣởng
đến tất cả các chi nhánh thành viên trong ngân hàng. Ví dụ, Tập đoàn Ngân hàng
Hồng Kông Thƣợng Hải sử dụng khẩu hiệu: "Ngân hàng toàn cầu, am hiểu địa
phƣơng" tại tất cả các công ty, chi nhánh trên toàn thế giới. Ngân hàng đa quốc gia
thiết lập hàng loạt các uỷ ban và hội đồng nhƣ hội đồng tài chính, hội đồng kiểm
toán, hội đồng chiến lƣợc, hội đồng nhân sự Trên cơ sở ngân hàng mẹ chủ trì, các
uỷ viên của uỷ ban, hội đồng đƣợc các chi nhánh trong ngân hàng tham gia theo cơ
chế kiêm nhiệm. Theo đó, các hội đồng, uỷ ban này xây dựng các kế hoạch và tổ
chức hƣớng dẫn triển khai kế hoạch cho toàn bộ các chi nhánh trong ngân hàng đa
quốc gia. Các ngân hàng đa quốc gia đƣợc hình thành theo quy luật của thị trƣờng,
đó là sự kết hợp tổng thể các phƣơng thức phát triển, có thể là con đƣờng nội sinh
của chính ngân hàng mẹ trên cơ sở thành lập, góp vốn thành lập hàng loạt các chi
nhánh trực thuộc ngân hàng mẹ trong và ngoài nƣớc. Giữa ngân hàng mẹ với các
chi nhánh ở nƣớc ngoài có mối quan hệ chặt chẽ mặc dù ngân hàng mẹ và các chi
nhánh nƣớc ngoài là các thực thể độc lập về mặt pháp lý. Với các hình thức quản lý
vốn khác nhau của ngân hàng mẹ đối với các chi nhánh sẽ hình thành nên các mô
hình quản trị chi nhánh khác nhau. Trên thế giới, mô hình quản lý ngân hàng đa
19
quốc gia ở các khu vực và các nƣớc cũng đƣợc thiết lập với cấu trúc và hình thức có
thể khác nhau nhƣng mô hình quản trị chi nhánh thông thƣờng đƣợc phân loại theo
ba yếu tố: Cơ chế đầu tƣ vốn, Cơ chế liên kết kinh doanh và cơ chế quản lý.
1. Theo cơ chế đầu tư vốn: Ngân hàng đa quốc gia có thể có lựa chọn một trong
các mô hình đầu tƣ: mô hình đầu tƣ đơn cấp, mô hình đầu tƣ đồng cấp, mô hình đầu
tƣ đa cấp, hoặc mô hình đầu tƣ hỗn hợp (tức là phối hợp nhiều hình thức đầu tƣ).
Trong mô hình đầu tƣ đơn cấp, ngân hàng mẹ lẫn các chi nhánh đều chỉ đầu tƣ
xuống một cấp trực tiếp, không đầu tƣ xuống cấp xa hơn. Trong đầu tƣ đồng cấp,
các chi nhánh trong cùng một cấp đầu tƣ qua lại. Trong mô hình đa cấp, các chi
nhánh, đặc biệt là ngân hàng mẹ, vừa đầu tƣ trực tiếp vào các chi nhánh con, đồng
thời cũng đầu tƣ trực tiếp vào các chi nhánh “cháu”, “chắt” ở dƣới, không thông qua
chi nhánh trung gian nào. Cuối cùng, mô hình hỗn hợp là mô hình phối hợp nhiều
hình thức đầu tƣ (đơn cấp, đồng cấp, đa cấp) giữa các chi nhánh trong ngân hàng.
2. Theo cơ chế liên kết kinh doanh: Ngân hàng đa quốc gia có thể lựa chọn mô
hình quản trị chi nhánh theo các mô hình: liên kết theo chiều dọc, liên kết theo
chiều ngang và liên kết hỗn hợp. Liên kết theo chiều dọc là mô hình liên kết các chi
nhánh hoạt động trong cùng một chuỗi giá trị ngành. Liên kết theo chiều ngang là
sự kết hợp giữa các chi nhánh có các sản phẩm, dịch vụ liên quan với nhau và có thể
sử dụng cùng một hệ thống phân phối để gia tăng hiệu quả. Mối liên kết này tạo
điều kiện đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, tận dụng hệ thống phân phối để tiết kiệm
chi phí, phân tán rủi ro. Liên kết hỗn hợp là sự kết hợp của cả hai dạng liên kết dọc
và ngang.
3. Theo cơ chế quản lý: Ngân hàng đa quốc gia quản lý chi nhánh theo các mô
hình: quản lý tập trung, quản lý phân tán hoặc quản lý hỗn hợp. Trong mô hình
quản lý tập trung, quyền lực đƣợc tập trung ở cơ quan đầu não, thƣờng là tại ngân
hàng mẹ. Ngân hàng mẹ quản lý tất cả các hoạt động của các chi nhánh. Trong mô
hình quản lý phân tán, ngân hàng mẹ chỉ đƣa ra định hƣớng và kiểm soát lại các
định hƣớng đã đặt ra vào cuối quý hoặc cuối năm tài chính và giao quyền tự chủ
20
hoạt động cho các chi nhánh. Với định hƣớng chung của ngân hàng mẹ, các chi
nhánh đƣợc phép tự chủ trong tất cả các hoạt động kinh doanh của chi nhánh mình
nhƣ việc đƣa ra các mục tiêu phát triển, các quy định, chính sách về tài chính, đầu
tƣ, nhân sự… Trong mô hình quản lý hỗn hợp, ngân hàng mẹ vừa giao quyền tự chủ
cho các chi nhánh, vừa thâu tóm quyền lực tại một số lĩnh vực trọng yếu trong các
hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Tuy nhiên, quản trị chi nhánh trong ngân hàng đa quốc gia không chỉ dừng
lại ở cấu trúc tổ chức tổng thể với các cơ chế liên kết và quản lý tổng quát nhƣ mô
tả ở trên, các ngân hàng còn thiết kế rất nhiều cơ cấu, cơ chế, nguyên tắc quản lý và
điều hành khác. Trong số các cơ chế, nguyên tắc quản lý và điều hành quan trọng
cần thiết đối với ngân hàng đa quốc gia, có thể kể đến cơ cấu tổ chức của ngân hàng
mẹ, điều lệ hoạt động của ngân hàng mẹ, hệ thống nguyên tắc quản trị ngân hàng,
hệ thống nguyên tắc quản lý điều hành hệ thống chi nhánh của ngân hàng đa quốc
gia. Hệ thống nguyên tắc quản trị này thƣờng nêu rõ các nguyên tắc cơ bản trong
quản lý tài chính, quản lý vốn, quản trị nhân sự, quản trị thƣơng hiệu, quản trị công
nghệ, quản lý các giao dịch nội bộ…, quy chế tổ chức hoạt động của Hội đồng quản
trị, Ban kiểm soát, mô tả chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban… và còn nhiều
quy định khác đƣợc thể hiện mối tƣơng tác giữa ngân hàng mẹ với các chi nhánh;
giữa các chi nhánh với nhau trong ngân hàng đa quốc gia.
Do đó, không có mô hình quản trị chi nhánh chung tối ƣu cho tất cả các ngân
hàng đa quốc gia. Ngoài một số nguyên tắc cơ bản trong quản trị chi nhánh, nguyên
tắc quản lý của các ngân hàng đa quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào các chiến lƣợc và
định hƣớng phát triển chung của ngân hàng, phụ thuộc vào đặc điểm và tính chất
hoạt động kinh doanh của các chi nhánh thành viên trong ngân hàng, phụ thuộc vào
môi trƣờng kinh doanh và hệ thống pháp luật ở các quốc gia nơi ngân hàng mẹ và
các chi nhánh có trụ sở hoạt động.
21
1.4. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản trị chi nhánh trong ngân hàng
đa quốc gia
Để đánh giá hiệu quả hoạt động quản trị chi nhánh trong ngân hàng đa quốc
gia và đánh giá đƣợc hiệu quả quản trị chi nhánh của ngân hàng Mizuho trong
chƣơng II, chúng ta cần xây dựng phƣơng pháp nghiên cứu khoa học hợp lý. Thông
thƣờng để đánh giá hiệu quả nói chung, chúng ta thƣờng dùng hai phƣơng pháp
phân tích chính là phƣơng pháp phân tích định tính và phƣơng pháp phân tích định
lƣợng. Nghiên cứu định tính thƣờng đƣợc sử dụng trƣớc nghiên cứu định lƣợng để
xác định các biến thích hợp có thể đƣợc đo lƣờng sau đó. Ngƣợc lại, nghiên cứu
định lƣợng dùng để khám phá sự khác nhau giữa các nhóm nghiên cứu thông qua
phân tích dữ liệu bằng các công cụ đo lƣờng hiện đại. Việc quyết định lựa chọn một
trong hai phƣơng pháp trên hoặc cả hai phƣơng pháp tuỳ thuộc vào bản chất vấn đề
nghiên cứu và hiện tƣợng nghiên cứu.
Để đánh giá bất kỳ chỉ tiêu nào, chúng ta đều thực hiện qua bốn bƣớc. Trong
khuôn khổ của luận văn là đánh giá hiệu quả quản trị chi nhánh tại ngân hàng đa
quốc gia, chúng ta có bốn bƣớc nhƣ sau:
Với đối tƣợng nghiên cứu của đề tài thì mục tiêu đánh giá là đánh giá hiệu
quả quản trị chi nhánh tại ngân hàng đa quốc gia. Để xây dựng đƣợc bảng chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả quản trị chi nhánh của các ngân hàng đa quốc gia, chúng ta sẽ tiến
hành một số phƣơng pháp định tính và định lƣợng nhằm xác định đƣợc các chỉ tiêu,
với phƣơng pháp này sẽ cho chúng ta kết quả hiệu quả nhất.
Phương pháp thứ nhất: Sử dụng bảng câu hỏi điều tra (questionaires). Bảng
câu hỏi điều tra là một công cụ nghiên cứu bao gồm một loạt các câu hỏi liên quan
đến đề tài nghiên cứu nhằm mục đích thu thập thông tin từ những ngƣời trả lời.
Bảng câu hỏi điều tra trong luận văn này là một bảng câu hỏi nghiên cứu định
Xác định mục
tiêu đánh giá
Xây dựng các
tiêu chí đánh giá
Triển khai đánh
giá các tiêu chí
Đánh giá kết
quả đạt đƣợc
22
lƣợng, tập trung vào việc tìm hiểu các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản trị chi nhánh
tại các ngân hàng thƣơng mại cổ phần có nhiều chi nhánh hoạt động tại Việt Nam từ
đó đƣa ra những chỉ tiêu khái quát nhằm đánh giá hiệu quả quản trị chi nhánh của
ngân hàng đa quốc gia.
Phương pháp thứ hai: Sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp. Bằng cách
đặt những câu hỏi trực tiếp liên quan đến lĩnh vực cần đánh giá. Phƣơng pháp
phỏng vấn trực tiếp có ƣu điểm là tính chính xác cao do tiếp cận trực tiếp đối tƣợng
nên không chỉ giải quyết đƣợc những vấn đề thắc mắc, mà còn lắng nghe những
quan điểm cụ thể của từng doanh nghiệp. Tuy nhiên, phƣơng pháp này cũng gặp
phải một số nhƣợc điểm nhƣ: mang tính chủ quan của doanh nghiệp sẽ làm ảnh
hƣởng chung tới việc đánh giá triển vọng phát triển hay thông tin doanh nghiệp
cung cấp không đƣợc chính xác do nhiều doanh nghiệp còn e ngại khi cung cấp
những thông tin về doanh nghiệp mình quá rõ ràng và cụ thể. Sử dụng phƣơng pháp
này còn tốn nhiều thời gian và công sức do việc gặp doanh nghiệp là khó khăn phức
tạp và không nhiều doanh nghiệp sẵn sàng nói chuyện.
Phương pháp thứ ba: Sử dụng phương pháp lấy ý kiến chuyên gia. Nội dung
phƣơng pháp này là lấy ý kiến của các chuyên gia trong việc đánh giá hiệu quả quản
trị chi nhánh trong các ngân hàng. Trƣớc tiên là lập nhóm các chuyên gia, sau đó tác
giả sẽ nêu ra ý kiến tranh luận. Ý kiến đó sẽ đƣợc gửi mail cho các chuyên gia, tiếp
sau đó tập hợp ý kiến của các chuyên gia nêu ra và gửi phản hồi lại cho các chuyên
gia, tiếp tục nhƣ vậy Ƣu điểm của phƣơng pháp này là tính đa dạng, sẽ tập hợp
đƣợc nhiều ý kiến tranh luận từ nhiều nhà hoạt động sâu trong lĩnh vực quản trị
ngân hàng Tuy nhiên phƣơng pháp này cũng tồn tại một số nhƣợc điểm nhƣ: tốn
nhiều thời gian, công sức do khó liên lạc đƣợc với các chuyên gia, phải mất cả tuần
thậm chí nhiều tuần mới nhận đƣợc ý kiến phản hồi từ các chuyên gia. Một số
chuyên gia là ngƣời nƣớc ngoài, nên việc trình bày ý kiến trở nên khó khăn hơn hay
trong các ý kiến phản hồi của các chuyên gia đôi khi trái ngƣợc nhau nên khó để
đƣa ra nhận định chính xác. Phƣơng pháp này còn mang nhiều tính chủ quan của
các chuyên gia dẫn tới việc đánh giá trở nên khó khăn hơn.
23
Phương pháp thứ tư: Phương pháp xử lý số liệu. Thông tin thu thập từ bảng
câu hỏi điều tra là các thông tin sơ cấp (tức là thông tin chƣa hiện hữu), tồn tại ở hai
dạng chính đó là thông tin định tính và thông tin định lƣợng. Thông tin trong nghiên
cứu định tính không có ý nghĩa về mặt thống kê còn quá trình phân tích và xử lý chỉ
dừng ở chỗ phân tổ hợp, phân nhóm những ý tƣởng quan điểm khác biệt và không
đòi hỏi nhiều sự hỗ trợ của các công cụ và kiến thức thống kê. Ngƣợc lại với các
thông tin nghiên cứu định lƣợng lại đòi hỏi nhiều kỹ năng và kiến thức phân tích
thống kê để tổ chức và phân tích. Phần mềm SPSS (Statistical Package for Social
Science - Phƣơng pháp phân tích số liệu khoa học) là một công cụ hữu hiệu để xử lý
và phân tích các thông tin định lƣợng này. Phần mềm SPSS là phần mềm chuyên
dụng xử lý thông tin sơ cấp (thông tin thu đƣợc trực tiếp từ đối tƣợng nghiên cứu
(ngƣời trả lời bằng câu hỏi thông qua một bảng câu hỏi đƣợc thiết kế sẵn). Thông
tin đƣợc xử lý là thông tin định lƣợng, có ý nghĩa về mặt thống kê. Nhƣ vậy, số liệu
thu thập đƣợc từ bảng câu hỏi điều tra của luận văn này sẽ đƣợc xử lý và phân tích
qua phần mềm SPSS phiên bản 17 dành cho Windows.
Thông qua một số phƣơng pháp ở trên, ngƣời viết đã thu thập đƣợc một số
chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản trị chi nhánh của ngân hàng đa quốc gia. Hiệu quả
quản trị chi nhánh ngân hàng đa quốc gia đƣợc thể hiện thông qua hiệu quả quản trị
tổng hợp của toàn bộ ngân hàng đa quốc gia đó. Mỗi ngân hàng đa quốc gia có các
mô hình và quy trình quản trị chi nhánh khác nhau, có hệ thống quy định điều hành
chi nhánh khác nhau. Tuy nhiên, các mô hình và quy trình quản trị chi nhánh tại các
ngân hàng đa quốc gia đều tập trung vào các vấn đề quản trị cốt lõi của ngân hàng
nhƣ quản trị hoạt động chung, quản trị tài chính, quản trị sản phẩm và dịch vụ, quản
trị nhân sự, quản trị công nghệ và quản trị rủi ro đối với các chi nhánh. Cụ thể:
1.4.1. Chỉ tiêu đánh giá về hoạt động quản trị chung đối với các chi nhánh
Môi trƣờng kinh doanh của ngân hàng đa quốc gia là môi trƣờng kinh doanh
quốc tế. Các chi nhánh hoạt động tại các nƣớc khác nhau nên môi trƣờng kinh tế,
môi trƣờng văn hoá xã hội, môi trƣờng chính trị, tình hình nhân sự khác nhau và
24
khác biệt với môi trƣờng kinh doanh của ngân hàng mẹ nên vấn đề quản trị các hoạt
động tại các chi nhánh là vấn đề hết sức phức tạp và quan trọng nhằm đạt đƣợc hiệu
quả hoạt động cao nhất. Do đó, một chỉ tiêu hết sức quan trọng trong đánh giá hiệu
quả quản trị chi nhánh của các ngân hàng đa quốc gia là hiệu quả quản trị hoạt động
chung đối với các chi nhánh. Trong điều kiện môi trƣờng kinh doanh phát triển và
hội nhập kinh tế toàn cầu nhƣ hiện nay, cơ cấu tổ chức của mỗi ngân hàng là một
chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá mức độ thành công và sự hợp lý về mặt tổ chức
và phân bổ các nguồn lực trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng đó. Mỗi ngân
hàng đều yêu cầu phạm vi hoạt động kinh doanh sâu và rộng, bởi vậy đòi hỏi mỗi
ngân hàng phải có một hệ thống tổ chức nhiều cấp gồm nhiều phòng ban chức năng,
bộ phận chuyên môn đa dạng nhƣng không quá rƣờm rà, cồng kềnh, gây cản trở
sự phát triển của toàn bộ ngân hàng. Cơ cấu tổ chức hợp lý, khoa học và chặt chẽ sẽ
giúp ngân hàng phối hợp và phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống
mà không lãng phí các nguồn lực. Hiệu quả của cơ cấu tổ chức không chỉ thể hiện ở
số lƣợng phòng ban chức năng, bộ phận chuyên môn, đơn vị trực thuộc có phù hợp
với quy mô và phạm vi hoạt động kinh doanh hay không, mà còn phụ thuộc vào sự
phân công, phân cấp giữa các phòng ban, bộ phận và mức độ phối hợp giữa chúng
có hiệu quả hay không trong việc triển khai các chiến lƣợc kinh doanh, các nghiệp
vụ hàng ngày để đạt đƣợc mục tiêu chung. Bên cạnh cơ cấu tổ chức, thực trạng trình
độ quản lý điều hành của Hội đồng Quản trị và Ban Giám đốc của mỗi ngân hàng
cũng ảnh hƣởng vô cùng to lớn tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng và ảnh
hƣởng rất lớn tới hoạt động quản trị chi nhánh chung của ngân hàng đa quốc gia.
Hội đồng Quản trị và Ban Giám đốc có khả năng đánh giá tình hình phát triển của
ngân hàng, có khả năng xây dựng chiến lƣợc phát triển ngân hàng bền vững và hiệu
quả, có khả năng giải quyết các công việc quan trọng phát sinh trong mọi tình
huống diễn biến của thị trƣờng
Nhƣ vậy, có thể tóm lƣợc lại một số tiêu chí đánh giá hoạt động quản trị
chung trong Bảng 1.1 dƣới đây.