Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ TRIẾT HỌC NÂNG CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.8 KB, 49 trang )



  



 !
Huế, 2/2014
"
#$"%& '
"( )*$+$,-./$0.)12
- Theo nghĩa gốc Hán, triết là trí, bao gồm cả sự hiểu biết, nhận thức sâu rộng, đạo lý.
- Theo nghĩa gốc Hy Lạp, triết có nghĩa là yêu mến sự thông thái.
- Từ thế kỷ VItcn cho đến thế kỷ XVIII loài người đã quan niệm triết học là khoa học
của mọi khoa học, là khoa học đứng trên mọi khoa học. Bởi thế, bất cứ ai thông thạo bất cứ
môn khoa học nào cũng được gọi là nhà hiền triết hoặc nhà thông thái. Người ta đã xem đối
tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm của triết học là bao gồm mọi đối
tượng, phương pháp và đặc điểm của mọi khoa học cụ thể.
- Thế kỷ XIX, người đầu tiên tách triết học ra khỏi các khoa học cụ thể khá thành
công nhưng trên lập trường duy tâm khách quan là G.V.F.Hêghen. Người hoàn thành sự
nghiệp đó là C.Mác và Ph.Ăngghen.
- Theo quan điểm mác-xít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là
khoa học về những biện pháp chung nhất, những nguyên tắc chung nhất, những con đường
chung nhất của sự vận động và phát triển của thế giới.
- Khái niệm triết học dù ở phương Đông hay phương Tây, dù có biến đổi theo lịch sử
nhưng bao giờ cũng bao gồm hai yếu tố: Một là yếu tố nhận thức, tức sự hiểu biết của con
người về thế giới, sự giải thích thế giới hiện thực bằng hệ thống tư duy. Hai là yếu tố nhận
định, tức sự đánh giá, nhận xét về mặt đạo lý và thái độ hành động đối xử của con người đối
với thế giới.
- Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có những đặc điểm riêng:
+ Nó là một trong những hình thái ý thức cổ xưa nhất và quan trọng nhất. Vai trò của


triết học ngày càng tăng lên cùng với quá trình phát triển của tri thức nhân loại. Cùng với đạo
đức, nghệ thuật, triết học mãi mãi tồn tại với xã hội loài người.
+ Khác với các hình thái ý thức xã hội khác, triết học nghiên cứu thế giới trong một
chỉnh thể, nhận thức bản chất của thế giới, vạch ra những nguyên nhân của sự phát triển.
Triết học nghiên cứu những nguyên lý, những quy luật chung nhất của sự vận động và phát
triển của thế giới. Tức không có lĩnh vực nào mà triết học không nghiên cứu. Nhưng ở tất cả
mọi lĩnh vực, triết học chỉ nghiên cứu cái chung nhất, chỉ ra bản chất của nó chứ không
nghiên cứu cụ thể như các khoa học cụ thể.
+ Là một trong những hình thái ý thức xã hội, nhưng triết học cố gắng đưa ra một
quan niệm chỉnh thể về thế giới, về các quá trình vật chất và tinh thần, về những mối liên hệ
tác động của các quá trình đó, về nhận thức và con đường cải biến thế giới.
3( 4+562789+2:;./$0.)12
Triết học nghiên cứu hàng loạt các vấn đề chung của thế giới, nhưng vấn đề cơ bản
của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức (giữa tồn tại và tư duy, hay
giữa tự nhiên và tinh thần).
Nó là vấn đề cơ bản của triết học bởi lẽ, trong thế giới có vô vàn sự vật, hiện tượng,
nhưng chung quy lại chúng chỉ phân thành hai loại: hiện tượng vật chất (tồn tại, tự nhiên) và
hiện tượng ý thức (tư duy, tinh thần). Mặt khác, từ phương Đông sang phương Tây, từ cổ đại
đến hiện đại tất cả các trường phái triết học, tất cả các nhà triết học trước khi nghiên cứu các
vấn đề chung khác, bao giờ cũng nghiên cứu và giải quyết vấn đề mối liên hệ giữa vật chất
và ý thức trước tiên. Việc giải quyết vấn đề này là cơ sở nền tảng cho việc giải quyết những
vấn đề khác của triết học. Nói cách khác việc giải quyết nó là giải quyết về thế giới quan (3
trình độ) và phương pháp luận của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt. Mặt thứ nhất giải quyết về thế giới quan. Tất
cả các nhà triết học đều phải trả lời câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào
3
có sau, cái nào quyết định cái nào? Tùy theo câu trả lời của các nhà triết học, mà các học
thuyết triết học đã chia thành hai trào lưu chính Duy vật và Duy tâm.
Các nhà triết học Duy vật khẳng định vật chất có trước và quyết định đối với ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người. Chủ nghĩa duy vật trong tiến

trình phát triển từ cổ đại đến hiện đại đã trãi qua nhiều hình thức khác nhau: cổ đại, tầm
thường, cơ học, máy móc nói chung là duy vật siêu hình, và duy vật biện chứng.
Ngược lại, các nhà triết học Duy tâm lại khẳng định ý thức có trước và quyết định đối
với vật chất. Trong tiến trình phát triển của mình, chủ nghĩa duy tâm cũng đã trãi qua nhiều
hình thức khác nhau: duy cảm chủ quan, duy lý, nhị nguyên, duy thức, duy ngã nói chung
là duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan.
Mặt thứ hai giải quyết về vấn đề nhận thức luận: tất cả các nhà triết học đều phải trả
lời câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới không? Tùy theo câu trả lời của các
nhà triết học mà các triết thuyết đã chia thành hai phái: Khả tri (luận) gồm các nhà triết học
trả lời con người có khả năng nhận thức thế giới. Thông thường họ là các nhà triết học duy
vật và các nhà triết học duy tâm chủ quan. Bất khả tri (luận) gồm các nhà triết học trả lời con
người không có khả năng nhận thức thế giới. Thông thường họ là các nhà triết học duy tâm
khách quan.
Trên cơ sở giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, lịch sử triết học chỉ ra Triết học có
hai nguồn gốc: Nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy vật là mối liên hệ của nó với các
thành tựu của các khoa học cụ thể. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là các lực lượng
xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Nguồn gốc
nhận thức của chủ nghĩa duy tâm là mối liên hệ của nó với các đấng siêu nhiên, hoặc tuyệt
đối hóa một hay một số yếu tố nào đó của ý thức. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm
thông thường là mối liên hệ của nó với các lực lượng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ, giai
cấp thống trị đang trên đà tan rã trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử.
<( ;$=)>7+?=)*=2789+./@+?./$0.)12
Xuất phát từ bản chất của triết học, khi giải quyết vấn đề cơ bản bản chất của thế giới
có vận động và phát triển không, nếu có thì do những nguyên nhân và theo những xu hướng
nào, mà trong triết học đã có hai phương pháp cơ bản biện chứng và siêu hình. Hai phương
pháp này đối lập nhau về cách nhìn nhận thế giới.
Phương pháp biện chứng xem xét thế giới trong mối liên hệ phổ biến quy định ràng
buộc lẫn nhau, và luôn vận động, và luôn phát triển. Trong sự phát triển của mình, phương
pháp biện chứng đã có những hình thức khác nhau là: Biện chứng cổ đại, biện chứng duy
tâm, biện chứng duy vật.

Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong mối liên hệ cô lập tách biệt lẫn nhau,
hoặc không vận động, hoặc không phát triển, hoặc vận động và phát triển theo chu kỳ khép
kín. Trong sự phát triển của mình, phương pháp siêu hình cũng có các hình thức khác nhau:
siêu hình duy tâm, siêu hình duy vật.
Tóm lại, trong sự phát triển của triết học, với tư cách là một khoa học, trong nó luôn
diễn ra cuộc đấu tranh giữa duy vật với duy tâm, giữa vô thần với hữu thần, giữa biện chứng
với siêu hình. Các cuộc đấu tranh ấy chính là đối tượng nghiên cứu của lịch sử triết học. Tuy
nhiên, triết học phương Tây thường tập trung giải quyết các vấn đề thuộc về thế giới quan,
trong khi đó triết học phương Đông lại nặng về vấn đề nhân sinh quan: Triết học Trung Quốc
tập trung về vấn đề đạo đức, chính trị-xã hội; Triết học Ấn Độ nặng về giải quyết các vấn đề
thuộc về đời sống tâm linh. Triết học phương Đông tính chiến đấu giữa duy vật với duy tâm,
giữa biện chứng với siêu hình, giữa vô thần với hữu thần mờ nhạt hơn so với triết học
phương Tây.
<
#$3%ABCBDE
F'
GHI254H./;+)?$J;2):+?)K;LHMNO.N#2):+?)K;LHM.P-QH+?RH;+)N4+
562789+2:;./$0.)12./@+?QS)I$MT;2U5V$
Nội dung cơ bản của sự phát triển triết học ở Hy-La cổ đại là cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phản ánh cuộc đấu tranh giữa tầng lớp chủ nô dân chủ
tiến bộ trong những điều kiện lịch sử thời đó và tầng lớp chủ nô quý tộc.
Những nhà triết học duy vật tiêu biểu ở thời này là Anaxago, Ampêđôcơlơ, Đêmôcrit,
Êpiquya quan điểm triết học và tư tưởng chính trị của họ là cơ sở lý luận cho sự hoạt động
tiến bộ của tầng lớp tiên tiến trong giai cấp chủ nô.
Những đại biểu tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm thời này là Xôcrát, Platôn quan
điểm triết học của họ thù địch với tiến bộ xã hội và khoa học. Triết học và quan điểm chính
trị của họ làm cơ sở lý luận cho hoạt động tầng lớp chủ nô quý tộc.
Những nhà triết học duy vật đồng thời là những người vô thần bảo vệ những quan
điểm khoa học tự nhiên tiên tiến, đề ra hàng loạt các ý niệm khoa học, trong đó có học thuyết
cấu tạo nguyên tử của vật chất, phê phán những tư tưởng thần học. Trái lại, các nhà triết học

duy tâm, bằng cách này hay cách khác chống những quan điểm khoa học tự nhiên tiên tiến,
căm thù chủ nghĩa vô thần, bảo vệ mê tín.
Mặc dù xuất hiện trong điều kiện các tri thức khoa học sơ khai triết học Hy-La cổ đại
đã đề cập tới những vấn đề cơ bản của thế giới quan dù chỉ ở trạng thái mầm mống. Trong
những hình thái muôn vẻ của tư tưởng triết học Hy-La cổ đại đã có mầm mống của tất cả các
kiểu thế giới quan sau này. Nói chung duy vật thời này mang tính tự phát, và biện chứng sơ
khai. Dù sao họ cũng đã khẳng định thế giới vật chất tồn tại khách quan không do thần thánh
hoặc một lực lượng siêu nhiên nào tạo nên. Thế giới vật chất xuất hiện từ vật chất, từ những
nguyên thể vật chất đầu tiên như nước, lửa, không khí, nguyên tử. Quan niệm duy vật thô sơ
này đã có tác động lớn trong việc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thần học cổ
đại.
Thời này chủ nghĩa duy tâm cũng có nhiều trào lưu khác nhau: Duy tâm khách quan
(trường phái Platôn); duy tâm chủ quan (trường phái Pitago); chủ nghĩa hoài nghi (trường
phái Acađêmi); chủ nghĩa bất khả tri (Pirông). Họ luôn gắn với tín ngưỡng tôn giáo, và
thường được giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ tinh thần của mình.

Ông hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực: triết học, đạo đức học, tâm lý học, toán học,
sinh vật học, vật lý, mỹ học,ngôn ngữ, kỹ thuật, âm nhạc. Mác, Ăng ghen coi ông là bộ óc
bách khoa toàn thư đầu tiên trong số những người Hy Lạp cổ đại.
Về triết học, ông coi nguyên tử là bản nguyên thế giới. Nguyên tử là hạt vật chất cực
nhỏ, không thấy được, không thể phân chia, không mùi, không vị, không âm, không sắc,
không khác nhau về chất chỉ khác nhau về hình thức, trật tự và tư thế. Mỗi nguyên tử có một
hình thức nhất định, vô hạn về số lượng, vô hạn về hình thức. Sự vật khác nhau là do nguyên
tử cấu tạo được sắp xếp theo những hình thức khác nhau. Mọi biến đổi của sự vật, thực chất
là sự thay đổi trình tự sắp xếp của nguyên tử cấu tạo. Nguyên tử là bất biến, và biến đổi
không ngừng.
Ông phỏng đoán, vận động không tách rời vật chất. Hoạt động của nguyên tử là vĩnh
cửu. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, ông đã nêu ra khái niệm không gian. Không gian là
gián đoạn và có thể phân chia vô cùng tận.
Đặc điểm chủ nghĩa duy vật của ông là quyết định luận chống lại mục đích luận. Ông

thừa nhận tính nhân quả và tính tất yếu, tính quy luật trong giới tự nhiên.
W
Về nhận thức, ông đặt ra và giải quyết một cách duy vật về đối tượng của nhận thức.
Vai trò của cảm giác với tính cách là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong
nhận thức tự nhiên.
Triết học của ông là gắn với chủ nghĩa vô thần. Theo ông thần thánh chỉ là sự nhân
cách hóa những hiện tượng tự nhiên hoặc những thuộc tính của con người. Ông bền bỉ đấu
tranh cho quan niệm duy vật về tự nhiên. Nó ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tiếp theo
của triết học duy vật.

Ông tên thật là Aristôcle, vì có vóc người to lớn, vạm vỡ nên được gọi là Platôn. Ông
từng hoạt động chống phái dân chủ chủ nô bảo vệ phái chủ nô quý tộc. Ông đã bị bắt và bị
đem ra chợ nô lệ bán. Khi được giải thoát ông về Aten lập viện hàn lâm - trường đại học đầu
tiên ở châu Âu.
Triết học của ông là hệ thống triết học duy tâm khách quan. Ông là người đầu tiên
xây dựng hoàn chỉnh chủ nghĩa duy tâm khách quan đối lập với thế giới quan duy vật. Ông
đã tiến hành cuộc đấu tranh gay gắt chống lại chủ nghĩa duy vật, đặc biệt là chống lại những
đại biểu của chủ nghĩa duy vật lúc ấy như Hêraclít và Đêmôcrít.
Theo ông, giới tự nhiên bắt nguồn từ những thực thể tinh thần, vật thể cảm tính chỉ là
cái bóng của ý niệm. Ông cho rằng, để nhận thức được tâm lý, người ta phải từ bỏ mọi cái
hữu hình cảm tính; phải có “hồi tưởng” lại những gì mà linh hồn bất tử đã quan sát được
trong thế giới ý niệm. Thuyết “hồi tưởng” thần bí được xây dựng trên cơ sở thừa nhận tính
bất tử, tính độc lập của linh hồn với thể xác.
Phép biện chứng của Platôn là biện chứng duy tâm, đường lối của ông chống lại
đường lối của Đêmôcrít. Những hiện tượng của tự nhiên bị ông quy thành những quan hệ
toán học. Đạo đức học được ông xây dựng trên cơ sở học thuyết về linh hồn bất tử.
Kẻ thù của chế độ dân chủ Aten, ông coi “chế độ quý tộc” - Nhà nước của tầng lớp
chủ nô thượng lưu - là nhà nước lý tưởng.
Học thuyết triết học của ông dựa trên ba tiền đề lý luận sau: lý luận về cái phổ biến
của Xôcrát; lý luận về tồn tại duy nhất bất biến của trường phái Elê, lý luận về con số, coi

như bản chất chân thực của phái Pitago, ông đã chia thế giới làm hai loại: Thế giới ý niệm
tồn tại chân thực, bất biến, vĩnh viễn, tuyệt đối là cơ sở tồn tại của thế giới sự vật cảm tính.
Thế giới sự vật cảm tính tồn tại không chân thực, luôn biến đổi và phụ thuộc và thế giới ý
niệm, là cái bóng của ý niệm, do các ý niệm sinh ra. Như vậy, theo Platôn, ý niệm là cái có
trước, là cái nguyên mẫu và là bản chất của mọi sự vật, còn mọi sự vật đều là cái có sau, là sự
mô phỏng, là bản sao của các ý niệm; bất kỳ sự vật nào cũng đều xuất hiện trong mối liên hệ
với các ý niệm. Ý niệm là các khái niệm, tri thức được khách quan hóa, chúng không được
sinh ra, mất đi từ cái gì đó, mà tồn tại mãi mãi như thế từ xưa đến nay.
Tuy đứng trên lập trường duy tâm khách quan trong quan niệm về thế giới, coi sự vật
chỉ là cái bóng của ý niệm. nhưng lịch sử ghi nhận triết học của ông đóng vai trò quan trọng
trong việc nghiên cứu bản chất của khái niệm cũng như trong việc phát triển tư duy lý luận,
thực hiệh một bước tiến trong việc chuyển triết học từ tư duy ẩn dụ tới tư duy khai niệm, tức
là giải thích thế giới, giải thích một hiện tượng phải tìm hiểu nó ở mức độ khái niệm, mức độ
tư duy lý luận.
():+?)K;X$+)N$,+./H+?2UPM!H
 !"
“Kinh viện” theo tiếng Latinh là trường học - Schola, nó chỉ bàn đến những vấn đề
viễn vông tách rời cuộc sống hiện thực. Về thực chất, chủ nghĩa kinh viện là nghệ thuật tranh
luận, lập luận không quan tâm đến nội dung của cuộc tranh cãi. Cái mà các nhà kinh viện
quan tâm là “định nghĩa”, “đối chiếu”,”phân mục”, v.v Họ tranh cãi nhau rất lâu về những
đề tài “Chuột có mắt hay không?”, “hoa hồng trên Thượng giới có gai khôn ?” v.v Đầu tiên
Y
triết học kinh viện được giảng trong các trường trung học, từ giữa thế kỷ XII được giảng
trong các trường đại học.
Quá trình phát triển của chủ nghĩa kinh viện có thể chia làm ba thời kỳ: thời kỳ đầu
(từ thế kỷ IX đến thế kỷ XII), thời kỳ hưng thịnh (thế kỷ XIII), thời kỳ suy tàn (thế kỷ XIV-
XV).
Vấn đề mối quan hệ giữa lý trí và niềm tin tôn giáo là vấn đề trung tâm chú ý của các
nhà kinh viện. Họ có niềm tin tôn giáo giữ vị trí hàng đầu trong quan hệ với lý trí. Xuất phát
từ quan điểm đó, họ giải quyết các vấn đề triết học có liên quan, trong đó, quan trọng nhất là

vấn đề mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Xung quánh vấn đề trên đã diễn ra cuộc đấu tranh kéo dài nhiều thế kỷ và quyết liệt
giữa “phái duy danh” có khuymh hướng duy vật với “phái duy thực” là chủ nghĩa duy tâm
trong lịch sử của triết học trung cổ.
Phái duy thực khẳng định cái chung (khi ấy người ta gọi là phái phổ biến) hay khái
niệm chung là tồn tại thực, nó là một thực thể tinh thần nào đó có trước sự vật đơn nhất. Phái
duy thực lấy triết học Platôn làm nguồn gốc lý luận.
Phái duy danh nhấn mạnh rằng, chỉ có sự đơn nhất, cá biệt là có thực, còn những cái
chung (cái phổ biến) chỉ là những tên gọi giản đơn mà người ta gán cho các hiện tượng riêng
lẻ. Không có con người hay cái nhà “nói chung”. Đó chỉ là những cái tên để chỉ một tổng số
tương đương, để chỉ những con người và những cái nhà đơn nhất.
Cuộc tranh cãi giữa phái duy danh và phái duy thực về căn bản là một vấn đề nghiêm
túc. Mặt triết học đằng sau cái vỏ thần học là sự vật tồn tại khách quan có thể tri giác được
bằng cảm giác có trước tư tưởng (duy danh), hay ngược lại, tư tưởng có trước sự vật (duy
thực), sự nhận thức của con người vận động từ cảm giác đến khái niệm đến sự vật. Thiên
chúa giáo chính thống có xu hướng nghiêng về phái duy thực. Còn phái duy danh có xu
hướng duy vật.
3ZAI.[\5V$8$]H.$^H8$]H2:;);$./#@_>HLHML;+)N#LHM.)`2./@+?./$0.
)12X$+)N$,+
#$
Ông sinh ở Italia, là nhà thần học, nhà triết học kinh viện nổi tiếng. Ngoài ra ông còn
nghiên cứu những vấn đề pháp quyền, đạo đức, chế độ nhà nước và kinh tế. Mười tám cuốn
sách trong tuyển tập của ông hợp lại như một bộ bách khoa toàn thư về hệ thống tư tưởng
thống trị thời trung cổ. Học thuyết của Tô-mát Đa-canh được thừa nhận là triết học duy nhất
chân chính của giáo hội Thiên chúa.
Tô-mát Đa-canh cho rằng, đối tượng của triết học là nghiên cứu “chân lý của lý trí”,
còn đối tượng của thần học là “chân lý của lòng tin tôn giáo”. Thượng đế là khách thể cuối
cùng của triết học và thần học. Cho nên giữa triết học và thần học không mâu thuẫn, nhưng
triết học thấp hơn thần học, giống như lý trí con người thấp hơn “lý trí của thần”.
Theo Tô-mát Đa-canh, giới tự nhiên là do trời “ sáng tạo ra từ hư vô” và trật tự của

nó, sự phong phú và hoàn thiện của nó đều được quyết định bởi sự thông minh của trời. Mọi
cái trên thế giới đều sắp xếp theo các bậc thang tôn ti trật tự, bắt đầu các sự vật không có linh
hồn, tiến qua con người, tới các thiên thần, các thánh, và sau cùng đến các bản thân chúa
Trời. Mỗi bậc ở dưới đều cố gắng đạt tới bậc trên; còn toàn bộ hệ thống thì mong muốn tiến
tới chúa Trời. Do đó, chúa Trời, Thượng đế là mục đích tối cao, là “quy luật” vĩnh cửu đứng
trên mọi cái, thống trị mọi cái, là hình thức thuần túy tước bỏ vật chất, là nguyên nhân tác
động cuối cùng của thế giới. Con người cũng do chúa Trời tạo ra “theo hình dáng của mình”,
sống trên trái đất - trung tâm của vũ trụ. Mọi cái trong tự nhiên đều thích ứng với con người
như thế nào là do chúa Trời quy định: mặt trời cho con người ánh sáng và sưởi ấm, mưa rơi
để làm cho đất đai của con người có nước; còn động đất và bão lụt phá hoại là do chúa Trời
trừng phạt tội lỗi của con người. Theo Tô-mát Đa-canh, đẳng cấp của mỗi người trong xã hội
a
là do Trời sắp đặt, nếu người nào vượt lên cao hơn đẳng cấp của mình là có tội lỗi. Chính
quyền nhà vua là do “ý của Trời”, thân xác con người phải phục tùng chính quyền nhà vua,
còn quyền lực tối cao bao trùm hết thảy, thì thuộc về Giáo hội.
Trong việc giải quyết vấn đề bản chất của cái chung. Tô-mát Đa-canh đứng trên lập
trường duy thực ôn hòa, Ông cho rằng, cái chung tồn tại trên ba phương diện: 1) nó tồn tại
trước sự vật trong trí tuệ chúa Trời như là một mẫu mực lý tưởng của các sự vật riêng lẻ; 2)
cái chung được tìm thấy trong các sự vật, nó chỉ tồn tại khách quan khi nó chứa đựng các sự
vật riêng lẻ; 3) cái chung được tạo bằng con đường trừu tượng hóa của trí tuệ con người từ
các sự vật riêng lẻ.
Để chứng minh chúa Trời là động lực ban đầu, nguyên nhân ban đầu, cái tất nhiên
ban đầu, sự hoàn thiện tuyết đối và là nguyên nhân tạo ra sự hợp lý của giới tự nhiên, Tô-mát
Đa-canh nêu ra những lý lẽ như sau: Thế giới không vận động vĩnh cửu, cần phải có động lực
ban đầu; nguyên nhân tác động không phải là vô tận, cần có nguyên nhân đầu tiên; mọi sự
vật của thế giới là ngẫu nhiên, cần có cái tất nhiên tuyết đối; sự hoàn thiện của các sự vật có
các giai đoạn khác nhau, cần phải có một thực thể hoàn thiện tuyệt đối; tính hợp lý của giới
tự nhiên không thể giải thích bằng nguyên nhân tự nhiên, cần phải tồn tại một thực thể lý trí
siêu tự nhiên điều chỉnh thế giới.
Về lý luận nhận thức, Tô-mát Đa-canh áp dụng học thuyết về “hình dạng” của

Arixtốt. Theo ông, mọi nhận thức diễn ra trong chủ thể nhờ tiếp thu ở khách thể những gì
giống với chủ thể, chứ không phải mọi tồn tại của khách thể đều được tiếp thu, đó là hình ảnh
của vật chất, chứ không phải bản thân sự vật. Ông chia “hình dạng” thành hình dạng cảm tính
và hình dạng lý tính, trong đó, hình dạng lý tính cao hơn hình dạng cảm tính, nhờ nó mà ta
mới biết được cái chung chứa đựng nhiều thực thể riêng biệt. Còn hình dạng cảm tính cũng
có vai trò quan trọng, nhờ nó mà cảm giác trở nên cảm thụ tích cực. Lý luận nhận thức của
Tô-mát Đa-canh là một bước tiến trong triết học kinh viện trung cổ, vì nó tiếp thu học thuyết
của Arixtốt chứ không phải của Platôn. Tuy nhiên nó chỉ khôi phục về hình thức học thuyết
của Arixtốt, chứ nó không lấy cái sinh khí, cái sống động, sự tìm tòi chân lý trong học thuyết
của Arixtốt.
"%&$'
Ông sinh ở Anh, nhà duy danh lớn nhất thế kỷ XIII. Vấn đề mối quan hệ giữa thần
học và triết học là vấn đề chủ yếu mà ông quan tâm. Theo ông, đối tượng của thần học
nghiên cứu Thượng đế, còn đối tượng của triết học nghiên cứu hiện thực khách quan - vật
chất. Ở đây Đun X-cốt có ý tưởng cắt đứt mối liên hệ giữa triết học và thần học, trong chừng
mực nào đó muốn giải phóng triết học khỏi ách áp bức của Giáo hội. Tuy nhiên, ông vẫn đề
cao vai trò của lòng tin, nhưng không hạ thấp quá đáng vai trò lý trí. Theo ông, Thượng đế là
một tồn tại bất tận, có thể chứng minh được, nhưng dựa vào lý trí để nhận thức Thượng đế thì
bị hạn chế, mà chủ yếu phải bằng lòng tin; lý trí chỉ nhận thức được ở tồn tại những gì mà nó
không thể tách khỏi các tài liệu cảm tính. Cho nên, con người không có được một khái niệm
nào về bản chất phi vật chất như chúa Trời, Thượng đế.
Là nhà duy danh luận, Đun X-cốt cho rằng cái chung không chỉ là sản phẩm của lý
trí, nó có cơ sở trong bản thân các sự vật; nó vừa tồn tại trong sự vật với tính cách là bản chất
của chúng, vừa tồn tại sau sự vật với tính cách là những khái niệm được lý trí con người trừu
tượng hóa khỏi bản chất của sự vật.
Về nhận thức luận, Đun X-cốt cho rằng, tinh thần, ý chí là hình thức của thân thể con
người, gắn liền với thân thể con người đang sống và do Thượng đế ban cho từ khi con người
mới sinh ra. Trí thức được hình thành từ tinh thần và từ đối tượng nhận thức. Tinh thần tuy
có sức mạnh to lớn trong nhận thức, nhưng vẫn phải phụ thuộc vào đối tượng nhận thức;
cũng có cái ý chí “không ai biết được” tựa hồ như quyết định tính chất hoạt động tinh thần

của con người. Nhưng theo Đun X-cốt, chỉ có những sự vật đơn nhất và cá biệt mới là thực
b
tại cao nhất. Ông được coi là nhà duy danh nổi tiếng nhất của chủ nghĩa kinh viện giai đoạn
hưng thịnh.
G/$0.)12PM!H.)0XcdTd
())* +,-. .
Vào thế kỷ XVII, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở nhiều nước Tây Âu đã
hình thành hầu hết trong lòng xã hội phong kiến. Đi liền với thực tế lịch sử đó là việc phát
hiện ra Châu Mỹ và con đường hàng hải vòng quanh Châu Phi tạo cho giai cấp tư sản đang
lên môi trường hoạt động mới. Thị trường Ân Độ và Trung Hoa rộng lớn, việc chiếm Châu
Mỹ làm thuộc địa, việc buôn bán với các nước thuộc địa, việc tăng thêm số phương tiện trao
đổi và số lượng hàng hóa đã đem lại cho thương nghiệp và công nghiệp hàng hải một đà phát
triển chưa từng có, do đó đã làm cho yéu tố cách mạng phát triển nhanh chóng trong lòng xã
hội phong kiến đang suy tàn.
Xét về toàn bộ và suy diễn đến cùng thì sự xuất hiện của phương thức tư bản chủ
nghĩa đã dẫn tới những hệ quả tất yếu về mặt xã hội và sự phát triển của khoa học trên những
nét cơ bản dưới đây:
Một là: Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thỏa mãn với những kiến thức
khoa học tự nhiên còn ở tình trạng chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, chưa cụ thể đã có từ trước.
Người ta không thể dưa vào kinh nghiệm đi biển thông thường và dùng thuyền gỗ để chuyển
chở khối lượng hàng hóa lớn vượt các đại dương, trái lại, cần có kỹ thuật đóng tàu mới, có
máy móc mới để sản xuất và trao đổi được nhiều hàng hóa hơn, tăng được nhiều lợi nhận hơn
cho các nhà kinh doanh. Thực tế đó đòi hỏi khoa học tự nhiên như cơ học, toán học, thiên
văn học và về sau cả vật lý học, hóa học, sinh vật học phải có bước phát triển mới.
Trước đây, tri thức của các lĩnh vực khoa học nói trên còn là một bộ phận trực tiếp
trong các hệ thống triết học. Đến thời kỳ này nảy sinh nhu cầu là các ngành khoa học cụ thể
tách ra khỏi triết học và trở thành những ngành khoa học độc lập; dùng phương pháp nghiên
cứu thật chi tiết, thật cụ thể nhằm phát hiện những thuộc tính, những quy luật của vật chất
như tính năng, tác dụng, độ bền vật liệu Từ đó xuất hiện một phương pháp mới trong khoa
học tự nhiên - phương pháp thực nghiệm hiện đại của khoa học. Trên mức độ nhất định, vào

thế kỷ XVII-XVIII, phương pháp thực nghiệm hiện đại đã ảnh hưởng tới lĩnh vực triết học.
Từ đó làm xuất hiện sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình trong triết học.
Hai là: Sự xuất hiện và ngày càng phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã làm cho giai cấp tư sản thấy rằng cần phải nắm lấy chính quyền, phá bỏ cát cứ
phong kiến tạo ra và mở rộng thị trường thống nhất để tăng lợi. Mâu thuẫn giữa giai cấp tư
sản cùng hệ tư tưởng tư sản với giai cấp địa chủ phong kiến và hệ tư tưởng Cơ đốc giáo ngày
càng sâu sắc.
Mặc dù nhu cầu nắm lấy chính quyền đã thôi thúc giai cấp tư sản, nhưng vào cuối thế
kỷ XVI đầu thế kỷ XVII giai cấp này vẫn còn nhỏ bé về số lương, chưa đủ sức mạnh về kinh
tế và tổ chức chính trị để có thể lật đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ phong kiến và hệ thống uy
quyền của nhà thờ Thiên chúa giáo. Cho nên giai cấp tư sản phải thỏa hiệp với giai cấp
phong kiến quý tộc và với nhà thờ Thiên chúa giáo.
Ba là: Bước sang thế kỷ XVIII, giai cấp tư sản đã lớn mạnh, và do điều kiện riêng của
mình, nước Pháp trở thành trung tâm của cách mạng tư sản. So với cuộc cách mạng tư sản
Anh (thế kỷ XVII), thì cách mạng tư sản Pháp (1789-1794) có tính triệt để, giai cấp tư sản
Pháp kiên quyết không chịu thỏa hiệp với giai cấp địa chủ phong kiến. Vua Lu-i 16 đã bị đưa
lên đoạn đầu đài chấm dứt sự thống trị của giai cấp phong kiến và thiết lập chế độ cộng hòa
tư sản.
Bốn là: Thế kỷ XVII và XVIII, là thế kỷ thắng lợi của chủ nghĩa duy vật đối với chủ
nghĩa duy tâm, của phương pháp tư duy siêu hình đối với phương pháp tư duy trừu tượng duy
lý thời trung cổ; và sau đó là thắng lợi của chủ nghĩa vô thần đối với hữu thần luận. Tuy
e
nhiên cũng đã xuất hiện sự kháng cự, đối lập của chủ nghĩa duy tâm và hữu thần luận-đó là
chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Béccli. triết học duy tâm chủ quan của Béc-cli là một bước
phát triển của chủ nghĩa duy tâm trong điều kiện lịch sử mới.
3. AI.[\./$0.?$;.$^H8$]H
(/ 0123 '$$
Gioóc Béc-cli sinh ra trong một gia đình quý tộc ở miền Nam Ailen; học ở trường
tổng hợp Đu-blin, say mê nghiên cứu thần học, toán học và triết học; từ 1734-1752 làm giáo
chủ ở I-ếc-lăng; mất ở Ôcpho.

Trước sự thắng lợi rực rỡ của chủ nghĩa duy vật ở thế kỷ XVII, trước tinh thần nhân
bản của các nhà khai sáng lúc đó, giám mục Béc-cli có tham vọng “khôi phục trên toàn thế
giới cái tinh thần đức hạnh đã bị xuyên tạc”.
Béccli là đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Ông có nhiều tác phẩm
như “Kinh nghiệm của thuyết thị giác mới” (1709), “Bàn về những nguyên tắc của nhận thức
con người” (1710) v.v Có thể khái quát, những nội dung chính của triết học Béc-cli như
sau:
Một là, phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất.
Điểm xuất phát của triết học Béc-cli là kinh nghiệm cảm tính hiểu theo nghĩa là tổng
hợp những biểu tượng hay những cảm giác. Theo ông, những cảm giác này không phản ánh
thực tại khách quan, mà chính chúng là thực tại khách quan chân chính. Ông viết:”Tôi không
phải cho rằng sự vật biến thành biểu tượng, mà nói đúng hơn là cho rằng biểu tượng biến
thành sự vật” .
Béc-cli đã sử dụng quan điểm của Lốc-cơ trong việc phân chia “đặc tính có trước” và
“đặc tính có sau” của sự vật, bác bỏ khuynh hướng duy vật của Lôccơ và từ đó đi đến chủ
nghĩa duy tâm, lẫn lộn cả “đặc tính có trước” và “đặc tính có sau” với cảm giác của chúng ta.
Ông nói: “Nếu biểu tượng biến thành sự vật, mà biểu tượng thì không tồn tại ngoài trí óc, cho
nên sự tồn tại của chúng là ở chỗ được tri giác hay được nhận thức, và do đó, nếu trong hiện
thực chúng không được tôi trí giác hay không có ở trong trí óc một tính thần nào khác, thì tức
là chúng không tồn tại, hoặc tồn tại trong trí óc một tinh thần vĩnh viễn nào đó ”. Thực chất
luận điểm này là: tồn tại là được tri giác; cái gì ngoài tri giác là không tồn tại, triết học Béc-
cli là duy ngã luận: ngoài cá nhân “Tôi” ra không còn gì cả, tất cả mọi sự vật họp thành vũ
trụ đều phụ thuộc vào tri giác của “Tôi”, nếu “tôi” không tri giác hay cảm giác thì chúng
không tồn tại.
Đồng thời, ta cũng thấy, ở Béc-cli có sự chuyển từ lập trường duy ngã sáng chủ nghĩa
duy tâm khách quan. Ông thừa nhận ngoài sự tồn tại của cá nhân “tôi”, và sự tồn tại của
những “tinh thần” của người khác còn có “một tinh thần vĩnh viễn” - thượng đế. Điều này
được thể hiện rõ ràng khi ông cho rằng triết học của ông sẽ là vô ích nếu như nó “không gợi
cho các độc giả thực tâm tin vào sự hiện diện và kính nể chúa và sự hoàn thiện tối cao của
bản chất con người là ở việc nhận thức và thực hiện các giáo lý trong Phúc âm”. Trong cuốn

“Ba cuộc nói chuyện”, Béc-cli viết: “ Có một tinh thần vĩnh viễn phổ biến khắp nơi, tinh
thần ấy nhận thực và bao trùm tất cả mọi vật, nó vạch ra con mắt chúng ta thấy sự vật ấy như
những cái phù hợp với những quy tắc mà chính nó định ra và do chúng ta định nghĩa là quy
luật của tự nhiên”. Tuy nhiên, chủ nghĩa Béc-cli vẫn là duy ngã luận triệt để.
Hai là, không có chân lý khách quan.
Nhiệm vụ chính của chủ nghĩa duy tâm Béc-cli là đấu tranh chống lại nhận thức luận
duy vật, lấy sự thừa nhận thế giới bên ngoài phản ánh vào ý thức của con người làm cơ sở
cho những lập luận của mình.
Từ chỗ phủ nhận tồn tại khách quan của thế giới vật chất, Béc-cli đã đi đến phủ nhận
chân lý khách quan. Ông cho rằng, tìm chân lý không phải trong sự phù hợp của tri thức với
sự vật bên ngoài mà ở tính rõ ràng của các tri giác cảm tính, ở tiêu chuẩn “ý kiến chung” là
f
so sánh sự thật của ý thức con người không phải với hiện thực khách quan, mà với ý thức của
người khác; ở sự đơn giản và dễ hiểu của các quan niệm; và ở sự phù hợp của tri thức với ý
thức và tuân theo ý chúa.
Triết học duy tâm chủ quan của Béc-cli về sau được Đa-vít Hium, Ma-khơ và những
môn đồ của Ma-khơ phát triển và ngày nay được tồn tại dưới nhiều hình thức biến tướng
mới.
4( +56  7
Đê-ni Đi-đơ-rô (1713-1784) sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, ông là một nhà
duy vật tiêu biểu của triết học khai sáng, người chủ biên của bộ Bách khoa toàn thư (1751-
1789) của Pháp. Những tác phẩm chủ yếu của ông là: ”Các tư tưởng triết học” (1746), “Cuộc
dạo chơi của nhà hoài nghi luận hay là Alleax” (1747) và nhiều tác phẩm văn học mang tính
triết lý.
Về bản thể luận, Đi-đơ-rô đã phê phán chủ nghĩ duy tâm chủ quan của Béc-cli và phê
phán tính không triệt để của chủ nghĩa duy vật Anh. “Trong vũ trụ chỉ có một thực thể - cả
trong con người lẫn động vật” - đó là vật chất. Vật chất bao gồm toàn bộ các vật thể có quảng
tính, có hình thức, và luôn luôn vận động.
Nguyên nhân của vận động, theo Đi-đơ-rô, là tự thân vật chất. “Sự dịch chuyển của
vật thể từ vị trí này sang vị trí khác, không phải là vận động mà chỉ là sự di động, còn vận

động thì có cả ở vật đang vận động lẫn vật đang đứng yên”. Ông cho rằng, chính quá trình
vận động và phát triển của giới tự nhiên mà những gì không thích nghi và chọn lọc đã giúp
cho nó ngày càng hoàn thiện. Từ đó ông đi đến tư tưởng cho rằng, kết cấu và trạng thái của
sinh vật là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên. có thể nói, với quan niệm
này, Đi-đơ-rô là tiền thân của học thuyết tiến hóa của Đác-uyn.
Những quan điểm về bản thể luận trên đây của Đi-đơ-rô rất gần với quan điểm duy
vật hiện đại.
Về lý luận nhận thức, Đi-đơ-rô đã xây dựng lý luận nhận thức trên lập trường duy
vật. Ông cho rằng, cơ thể con người là khí quan vật chất của tư duy, ý thức và các quá trình
tâm lý. Ông khẳng định: “Không có cơ thể con người thì không thể giải thích được cái gì
cả”. Bước chuyển tiếp vô tri, vô giác tới khả năng cảm giác, tư duy đều gắn liền với quá trình
phát triển của cấu trúc vật chất từ vô cơ, hữu cơ, đến sự sống và cơ thể con người.
Đi-đơ-rô là nhà duy lý kiểu mới, đề cao khả năng nhận thức cảm tính trong quá trình
nhận thức. Ông nói: “Phương pháp triết lý đúng đắn đã và sẽ phải là ở chỗ sao cho kiểm tra
trí tuệ bằng trí tuệ, sao cho bằng trí tuệ và thực nghiệm kiểm soát các cảm tính, bằng cảm
tính nhận thức giới tự nhiên, nghiên cứu giới tự nhiên để sáng chế các công cụ, dùng các
công cụ để tìm tòi và hòan thiện các tri thức”.
Về quan điểm chính trị-xã hội, Đi-đơ-rô cho rằng, bộ mặt trí tuệ và đạo đức của con
người là do môi trường và hoàn cảnh xã hôi tạo nên, chứ không phải do Thượng đế. Thượng
đế chỉ là sự thần thành hóa các điều kiện sống hiện thực của con người, chỉ có khoa học mới
vũ trang cho chúng ta quan niệm đúng về thế giới, làm cho con người lớn mạnh thêm, còn
tôn giáo thì chỉ đem lại những điều ảo tưởng, làm cho con người mềm yếu đi.
Đi-đơ-rô mới chỉ nhìn tôn giáo ở nguồn gốc tâm lý sợ chết của con người, chứ không
nhìn thấy cơ sở kinh tế-xã hội của sự tồn tại tôn giáo. Ông viết: “Hãy xóa bỏ nỗi lo sợ địa
ngục của người theo đạo cơ đốc, thì sẽ xóa bỏ được tín ngưỡng của anh ta”.
Đứng trên quan điểm về xã hội khế ước, Đi-đơ-rô đòi thực hiện cai trị theo dân chủ tư
sản, mở mang hệ thống giáo dục trong nhân dân, và cần phải xây dựng các đạo luật tiến bộ,
còn “các đạo luật dốt nát đó là những cái làm trụy lạc chúng ta”.
Tóm lại, sự đối lập trên tất các lĩnh vực trong triết học giữa Đi-đơ-rô và Béc-cli là
cuộc đấu tranh điển hình đầu tiên của triết học xung quanh vấn đề cơ bản của triết học trong

lịch sử.
"g
GhEi
"($6HX$,+X$+).0TQS)I$j2.)0XcdTdd
Nước Đức đầu thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX vẫn là một nước rất lạc hậu về kinh tế
chính trị so với nhiều nước ở châu Âu như Anh, Pháp. Đó là một giang sơn phong kiến điển
hình một tập hợp 360 quốc gia tự lập. Liên bang Đức chỉ là hình thức. Thủ công nghiệp, công
nghiệp, nông nghiệp bị định đốn. Triều đình vua Phổ Phriđrich Vinhem (1770-1840) vẫn
tăng cường quyền lực và duy trì chế độ quân chủ phong kiến, cản trở đất nước Đức phát triển
theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cả đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo
quần chúng. Đây là một trong những thời kỳ hèn kém nhất trong lịch sử nước Đức.
Tấm gương của các nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần phản kháng cách mạng của
giai cấp tư sản Đức và những bộ phận tiến bộ, nhưng vì giai cấp tư sản Đức và lực lượng tiến
bộ khác nằm ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về chính
trị, vì thế đã không thể tiến hành cách mạng tư sản trong thực tiễn, mà tiến hành cuộc cách
mạng về phương diện tư tưởng. Những tác phẩm của Gớt, Sinlơ, Cantơ, Phíchtơ v.v. đều toát
lên tinh thần phẫn nộ chống lại sự trì trệ và bất công của xã hội; phản ánh nguyện vọng của
giai cấp tư sản Đức thời đó.
Bối cảnh chính trị-xã hội và sự phát triển của khoa học Tây Âu ở nước Đức lúc đó
chứng tỏ sự hạn chế và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất
các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Nó đòi hỏi cần có cách nhìn mới về bản chất các hiện tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử
nhân loại, cũng như cần có quan niệm mới về khả năng và vai trò của con người. Triết học cổ
điển Đức ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu đó.
3(k25$]-2:;./$0.)122U5$]+j2
Do điều kiện kinh tế-chính trị và xã hội hết sức đặc biệt của nước Đức cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX, triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng, nhưng hình
thức của nó thì cực kỳ “rối rắm” và có tính chất bảo thủ. Đây là một đặc điểm của triết học
Đức thời kỳ đó. Đặc điểm này thể hiện rõ nét nhất trong hệ thống triết học của Hêghen. Triết
học của ông bao chứa một nội dung cách mạng sâu sắc, đó là phép biện chứng, nhưng hệ

thống (hình thức) triết học của ông lại cực kỳ duy tâm, rối rắm và kéo theo những kết luận
chính trị phản tiến bộ.
Đề caovai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là một thực thể hoạt
động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học là một đặc điểm của triết học cổ
điển Đức. Trong đó thành tựu cơ bản là đã khẳng định: con người là chủ thể, đồng thời là kết
quả của quá trình hoạt động của chính mình; tư duy và ý thức của con người chỉ có thể phát
triển trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế giới; lịch sử phát triển của nhân loại
là một quá trình phát triển biện chứng. Tuy nhiên, họ đã thần thánh hóa trí tuệ và sức mạnh
của con người tới mức coi con người là chúa tể của tự nhiên.
Tiếp theo tư tưởng biện chứng trong triết học thời cổ đại, triết học cổ điển Đức xây
dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học đối lập với phương pháp tư duy
siêu hình trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Giả thuyết tinh vân về sự
hình thành vũ trụ của Cantơ; việc phát hiện ra những quy luật và phạm trù cơ bản của phép
biện chứng làm cho phép biện chứng trở thành một khoa học đã thực sự mang ý nghĩa cách
mạng trong triết học.
<()J+?5V$8$]HQH4.[l22:;./$0.)122U5$]+j2%;+.7m^?)n+mo)78*2)
(8"97'
Thời kỳ trước phê phán (1746-1770)
Ông tự nhận mình là người tiếp tục công việc của các nhà duy vật cổ đại như
Đêmôcrít, Êpiquya. Quan điểm duy vật trong triết học tự nhiên của Can-tơ thể hiện ở những
luận điểm chủ yếu dưới đây:
""
Can-tơ cho rằng, thế giới của chúng ta là thế giới vật chất luôn luôn vận động và biến
đổi không ngừng, mọi sự vật đều liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau thông qua lực hút và
lực đẩy. Ông viết: “Hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ xây dựng thế giới vật chất từ nó, nghĩa là, hãy
cho tôi vật chất, tôi sẽ chỉ ra cho các bạn thấy, thế giới phải ra đời từ vật chất như thế nào”.
Can-tơ cho rằng, không thể chỉ dùng sức hút mà giải thích được nguồn gốc thế giới.
Vì chỉ có một mình sức hút có tác dụng thì thế giới vật chất bao giờ cũng ở trạng thái đứng
im mãi mãi. Bên cạnh sức hút còn có sức đẩy ra. Chính sự tương tác giữa sức hút và sức đẩy
làm cho vật chất vận động và vật chất không hình mới biến thành những thiên thể hình cầu.

Nhờ vậy, giới tự nhiên mới có thể tồn tại và vận động được. Ở đây Can-tơ đã tiến tới vấn đề
sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
Năm 1766, Can-tơ đã viết cuốn sách “Những mơ ước của anh chàng ảo tưởng được
soi sáng bằng những ước mơ của khoa siêu hình”. Trong cuốn sách này, ông đã chế giễu
những kẻ mê tín, tin vào thần linh, Ở đây đã thể hiện quan điểm vô thần của ông.
Thời kỳ phê phán (sau 1770)
Thời kỳ này triết học của Can-tơ chịu ảnh hưởng nhiều của triết học Hium, Lépnít và
Vônphơ.
Về nhiệm vụ của triết học, Cantơ cho rằng, nhiệm vụ hàng đầu của triết học là phải
xác định bản chất của con người. Theo Can-tơ, khoa học là triết học với mục đích là xác định
bản chất của con người. Khoa học đó không được dừng lại ở những vấn đề nhận thức luận
đơn thuần, mà phải hướng nhiệm vụ vào việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống, và hoạt
động thực tiễn của con người mà bất cứ ai cũng băn khoăn trong cuộc đời mình; nghĩa là phải
lý giải các vấn đề :
“Tôi có thể biết được cái gì ?
Tôi cần phải làm gì?
Tôi có thể hy vọng cái gì ?”
Can-tơ đã đề ra cho mình những nhiệm vụ to lớn vĩ đại và đầy tinh thần nhân đạo.
Nhưng ông không thể vượt qua được những hạn chế lịch sử của thời đại và hoàn cảnh xã hội
Phổ mà ông đang sống.
Về “tri thức tiên nghiệm”, “vật tự nó”
Can-tơ gọi thế giới vật chất là những “vật tự nó” tồn tại khách quan. Về nguyên tắc,
“vật tự nó” là không thể nhận thức được, là siêu nghiệm. Mọi tri thức của con người không
phải là sự phản ánh hiện thực khách quan (vật tự nó), mà chỉ nhận thức được hiện tượng sinh
ra từ tác động của “vật tự nó” lên các giác quan của con người. Ông khẳng định, mọi tri thức
của con người đều chỉ giới hạn trong các hiện tượng mà thôi. Đó là thực chất là bất khả tri
luận của ông. Tuy vậy trong quan niệm “vật tự nó” vẫn chứa đựng một ý nghĩa tích cực, nó
khẳng định sự tồn tại của các sự vật khách quan bên ngoài chúng ta. Ở góc độ này ông thể
hiện như một nhà duy vật.
Ông chia tri thức loài người thành hai loại: tri thức kinh nghiệm cảm giác và tri thức

tiên nghiệm. Theo ông mọi sự vật trong thế giới tồn tại dưới dạng đơn nhất, cá biệt và hỗn
độn. Tri thức kinh nghiệm cảm giác chỉ nắm bắt được những hiện tượng riêng biệt, lộn xộn.
Tri thức tiên nghiệm có sẵn trong ý thức đem lại trật tự cho mớ tri thức kinh nghiệm cảm
giác lộn xộn ấy và đem lại những mối liên hệ nhân quả tất nhiên, tính phổ quát, tính tất yếu
của thế giới hiện tượng. Như vậy theo ông, thế giới tồn tại khách quan, nhưng quy luật của
thế giới lại là sản vật của ý thức. Ở điểm này ông là nhị nguyên luận.
Về nhận thức luận
Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng ông đang đi gần tới phép biện chứng. Ông vạch ra
rằng, bất cứ lúc nào khi lý trí bắt đầu nghiên cứu thế giới khách quan tất yếu đụng phải mâu
thuẫn, do đó các mâu thuẫn là bản chất khách quan của lý tính con người. Ông đặt ra những
vấn đề còn bỏ ngõ trong các cuộc tranh luận về bản chất tư duy, và những vấn đề mang tính
"3
nghịch lý trong quá trình nhận thức. Đây là một thành tựu rất quan trọng của nhận thức triết
học, bởi vì bằng điều đó vận động của tư duy được đề cao.
Về đạo đức học
Ông theo lập trường duy lý. Ông viết “các nguyên lý cảm tính nói chung không thích
hợp để có thể xây dựng các quy luật đạo đức vào chúng”. Theo ông, chỉ có lý tính là nguồn
gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý và chuẩn mực đạo đức. Tự do là phạm trù trung tâm trong
đạo đức của ông. Theo ông, ý chí tự do và ý chí tuân theo các quy luật của đạo đức là như
nhau.
Về quan điểm chính trị-xã hội
Theo ông, xã hội là phương thức tồn tại của con người như một chủ thể, trong đó
bằng hoạt động của mình, con người ngày càng phát triển những khả năng và bản chất của
mình, và thực hiện các lý tưởng đạo đức của mình. Ông khẳng định, mâu thuẫn xã hội là
động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Sự xung đột giữa các tầng lớp, các đẳng cấp xã hội là
phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử. Can-tơ mong muốn xây dựng một thế giới hòa
bình, hữu nghị, vĩnh viễn không có chiến tranh. Theo ông chiến tranh phá hoại những chuẩn
mực đạo đức của con người. Ông kêu gọi các quốc gia đoàn kết xây dựng một liên bang,
trong đó mỗi dân tộc vẫn được bảo đảm tự do và độc lập về chính trị. Theo ông, chỉ có hình
thức nhà nước cộng hòa là phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội. Sứ mệnh của nhà nước,

luật pháp, chuẩn mực đạo đức đều phải nhằm mục đích phục vụ con người.
4(/ 01 7: 9  ;9'
Ông là nhà biện chứng lỗi lạc, triết học của ông là tập đại thành của triết học cổ điển
Đức - Một tiền đề lý luận của triết học mác-xít.
Triết học của Hêghen là một hệ thống triết học duy tâm khách quan
“Ý niệm tuyệt đối” là điểm xuất phát, là nền tảng của triết học Hêghen. Theo ông “ý
niệm tuyệt đối” là thực thể sinh ra mọi cái trên thế giới, là đấng tối cao sáng tạo ra giới tự
nhiên và con người. Mọi sự vật, hiện tượng xung quanh chúng ta, từ những sự vật, hiện
tượng tự nhiên cho đến những sản phẩm hoạt động của con người chỉ là hiện thân của ý niệm
tuyệt đối.
Theo Hêghen con người là sản phẩm và là giai đoạn phát triển cao nhất của “ý niệm
tuyết đối”. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người chính là công cụ để tinh
thần tuyệt đối nhận thức chính bản thân mình, trở về chính bản thân mình.
Đứng trên lập trường duy tâm khách quan, ông đã phê phán chủ nghĩa chủ quan và
nhị nguyên luận của Can-tơ. Ông cho rằng, Can-tơ đã xé lẻ tồn tại, bắt nó tách ra ngoài tư
duy. Ông kết hợp tồn tại với tư duy làm một và cho ngọn nguồn xuất phát đầu tiên, thực thể
đầu tiên của thế giới chính là tư duy, ý thức, nhưng không phải là ý thức cá nhân như Béc-
cli, Can-tơ mà là “ý niệm tuyệt đối” hay tinh thần vũ trụ. Tất cả mọi sự vật hiện tượng trên
thế giới và ý thức của cá nhân của nhân loại đều nằm trong “ý niệm tuyệt đối”, là sự thể hiện
của “ý niệm tuyệt đối”.
Triết học duy tâm khách quan của ông thể hiện trong toàn bộ hệ thống triết học của
ông. Hệ thống triết học của ông gồm ba phần: Lôgíc học - học thuyết về các quy luật phổ
biến của vận động và phát triển, về các nguyên tắc lý tính dùng làm cơ sở cho mọi cái đang
tồn tại; Triết học về tự nhiên - triết học đem lại bức tranh về sự phát triển của giới tự nhiên
dưới hình thức duy tâm; Triết học về tinh thần - dưới hình thức lịch sử của tinh thần, ông
trình bày lịch sử của con người và sự tự nhận thức của con người.
Dựa vào các thành tựu của khoa học tự nhiên đương thời, Hêghen thừa nhận giới tự
nhiên nằm trong quá trình vận động và phát triển từ vô cơ - hữu cơ - con người. Con người
có khả năng phản ánh giới tự nhiên, và khi con người phản ánh được đầy đủ giới tự nhiên
cũng là ý thức của con người đã quay về điểm khởi đầu của nó là ý niệm tuyệt đối. Ý thức

"<
của mỗi cá nhân được ông coi là sự tái diễn tư duy của toàn nhân loại, trãi qua các thời kỳ
khác nhau giống như sự phát triển của bào thai từ tiền thủy, sinh vật đến con người.
Như vậy, khởi điểm là tinh thần và kết thúc của sự phát triển cũng là tinh thần, chỉ
khác điểm khởi đầu là tinh thần thế giới, hay ý niệm tuyệt đối còn kết thúc là tinh thần tuyệt
đối tồn tại ở mỗi cá nhân con người. Theo ông giai đoạn cao nhất là lúc ý niệm tuyệt đối kết
thúc quá trình tự nhận thức của nó dưới hình thức tôn giáo, nghệ thuật và triết học.
Phép biện chứng duy tâm của Hêghen
Những luận điểm về phép biện chứng của triết học Hêghen có cả trong ba phần,
nhưng trong lôgíc thể hiện rõ nhất, quan trọng nhất. Luận điểm xuyên suốt toàn bộ phép biện
chứng của ông là: “Tất cả cái gì là hiện thực, đều là hợp lý và tất cả cái gì là hợp lý, đều là
hiện thực”. Luận điểm của ông không chỉ muốn bảo vệ và duy trì mọi cái hiện đang tồn tại,
thừa nhận về mặt triết học nền chuyên chế, nhà nước quý tộc Phổ, mà điều cơ bản nhất không
phải những gì hiện đang tồn tại cũng đều là hiện thực. Tính hiện thực chỉ thuộc về những gì
đồng thời là tất yếu: “Tính hiện thực, trong sự phát triển của nó, tự biểu lộ ra là tính tất yếu”.
Như vậy theo ông, hiện thực không phải là tồn tại nói chung, mà là tồn tại trong tính
tất yếu của nó, đó là “hiện thực trong sự phát triển. Xa rời tư tưởng này thì mọi ý niệm, lý
tưởng chỉ là những điều ảo tưởng, và triết học là một hệ thống những điều bịa đặt rỗng
tuếch”.
Ông đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và ông là người đầu tiên trình
bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, tức là trong sự vận
động, biến đổi và phát triển không ngừng. Đó là ý nghĩa thực sự và tính chất cách mạng của
triết học Hêghen.
Trong lôgíc học, Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù như lượng-chất, phủ định,
mâu thuẫn mà còn nói đến các quy luật: lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại; phủ định
của phủ định, và phần nào về quy luật mâu thuẫn. Nhưng tất cả chỉ là những quy luật vận
động phát triển của tư duy, của khái niệm.
Biện chứng của khái niệm trong khoa học lôgíc của ông bao gồm những điểm sau:
Một là, những khái niệm không những khác nhau mà còn làm trung giới cho nhau, tức có liên
hệ với nhau. Hai là, mỗi khái niệm đều phải qua một quá trình phát triển được thực hiện trên

cơ sở của 3 nguyên tắc:
- Nguyên tắc một: chất và lượng quy định lẫn nhau. Những chuyển hóa về lượng dẫn
đến những biến đổi về chất và ngược lại.
- Nguyên tắc hai: Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc và
động lực của sự phát triển.
Khi nghiên cứu các nguyên tắc này, ông đã đưa ra và giải quyết một cách biện chứng
mối liên hệ chuyển hóa giữa bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực, nguyên nhân và
kết quả.
- Nguyên tắc ba: Phủ định của phủ định là sự phát triển diễn ra theo hình thức xoáy
ốc. Ở đây ông giải quyết một cách biện chứng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa
lôgic và lịch sử.
Trong tác phẩm “triết học tự nhiên”, Hêghen đã nêu ra một loạt những tư tưởng biện
chứng tài tình về sự thống nhất của vật chất và vận động, về tính mâu thuẫn của không gian,
thời gian và vận động, về sự phụ thuộc của những đặc tính hóa học vào những thay đổi về
lượng v.v.
Quan điểm về xã hội của Hêghen
Bên cạnh những tư tưởng phản tiến bộ, ông đã nêu ra nhiều tư tưởng biện chứng quý
báu về sự phát triển của đời sống xã hội, trong đó ông đặc biệt quan tâm nghiên cứu bản chất
và nguồn gốc nhà nước.
"W
Khác với các nhà triết học trước đó, thường lý giải nguồn gốc nhà nước từ khế ước xã
hội, ông tìm nguồn gốc nhà nước từ mâu thuẫn xã hội. Ông viết: “Nhà nước hiện đại và
Chính phủ hiện đại chỉ xuất hiện khi tồn tại sự khác nhau giữa các đẳng cấp, khi sự chênh
lệch giàu nghèo trở nên quá lớn ”. Ông cho rằng nhà nước tồn tại vĩnh viễn, tồn tại trên bất
kỳ giai đoạn nào của lịch sử. Nhà nước là hiện thân của ý niệm tuyệt đối trong đời sống xã
hội. Ông xem nhà nước Phổ như là đỉnh cao của sự phát triển nhà nước và pháp luật. Theo
ông chiến tranh là một hiện tượng vĩnh viễn và tất yếu trong lịch sử, nhờ các cuộc chiến tranh
mà thể trạng đạo đức của các dân tộc mới được bảo toàn, chiến tranh bảo vệ các dân tộc tránh
khỏi sự thối nát. Ở điểm này, ông đứng trên lập trường của chủ nghĩa Sô vanh đề cao dân tộc
Đức.

Theo ông, lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và tính chủ quan trong hoạt
động của con người. Ông cũng cho rằng, sự phát triển tự do của con người là chuẩn mực ưu
việt của thời đại này so với thời đại khác, của dân tộc này so với dân tộc khác. Nhưng ông
hiểu tự do một cách duy tâm: Tự do thể hiện trong sự hiểu biết và làm theo ý chúa; lịch sử
toàn thế giới là lịch sử tiến bộ trong ý thức tự do. Dù vậy, ở mức độ nhất định nó toát lên tư
tưởng sâu sắc: Tự do cũng như trình độ giải phóng con người, làm cho “con người là chúa tể
số phận và sứ mạng của mình”, là một xu hướng phát triển của nền văn minh nhân loại.
(<=>74#''
Ông là nhà duy vật nổi tiếng của triết học cổ điển Đức. Bậc tiền bối của triết học
Mác. Ông đã làm phong phú chủ nghĩa duy vật một cách sáng tạo vào những năm bốn mươi
của thế kỷ XIX.
Về triết học duy vật nhân bản
Ông thực hiện phê phán triết học duy tâm khách quan của Hêghen đã coi thường con
người sống, không biết cảm giác là nguồn gốc của nhận thức. Ông lấy con người sống, con
người có cảm giác làm điểm xuất phát cho triết học duy vật của mình. Theo ông nhiệm vụ
của triết học phải đem lại cho con người một quan niệm mới về chính bản thân mình, tạo
điều kiện cho con người hạnh phúc.
Ông quan niệm con người như một thực thể sinh vật có cảm giác, biết tư duy, có ham
muốn, có ước mơ, là một bộ phận của giới tự nhiên, và xét theo bản chất nó là tình yêu
thương. Ông lấy tình yêu thương giữa nam và nữ làm kiểu mẫu của bản chất yêu thương.
Nhưng ông đã không thấy được phương diện xã hội của con người. Quan niệm con người của
ông là trừu tượng, bị tách khỏi những điều kiện kinh tế-xã hội và lịch sử. Vì thế khi nghiên
cứu những vấn đề về đời sống xã hội, ông rơi vào quan điểm duy tâm, bộc lộ tính trừu tượng
của cái gọi là con người cụ thể của ông.
Xuất phát từ lý luận nhân bản, ông đã xây dựng lý luận về bản thể, về nhận thức và về
xã hội.
Quan niệm về tự nhiên
Ông là nhà duy vật triệt để. Sau khi bác bỏ học thuyết của Can-tơ - học thuyết cho
rằng tự nhiên là do ý thức của con người cấu tạo nên - và bác bỏ học thuyết của Hêghen - học
thuyết cho rằng tự nhiên là một sự tồn tại khác của tinh thần thế giới, ông bảo vệ và chứng

minh nguyên lý duy vật cho rằng: Vật chất có trước ý thức có sau; tự nhiên tự nó tồn tại;
người ta chỉ có thể giải thích tự nhiên xuất phát từ bản thân nó. Ông cũng khắc phục một số
điểm hạn chế của duy vật máy móc coi vật chất như một cái gì thuần nhất. Theo ông, tự
nhiên có rất nhiều chất lượng khác nhau mà những cảm giác của con người đều có thể biết
được. Ông cho rằng quan hệ thực sự của tư duy với tồn tại là: tồn tại là chủ thể, tư duy là
thuộc tính. Nói cách khác chủ thể với tính cách là một bộ phận của tự nhiên, tư duy là thuộc
tính của nó.
Ông khẳng định: không gian và thời gian tồn tại khách quan, không có vật chất tồn tại
bên ngoài không gian thời gian. Ông cũng thừa nhận sự tồn tại khách quan của các quy luật
"Y
tự nhiên, tính khách quan của quan hệ nhân quả; thừa nhận sự vận động và phát triển của giới
tự nhiên diễn ra một cách khách quan, trong những điều kiện nhất định dẫn tới sự xuất hiện
của đời sống hữu cơ, và con người.
Về nhận thức luận
Ông phê phán hệ thống duy tâm khách quan của Hêghen, coi đối tượng của tư duy
không khác gì với bản chất của tư duy, do đó mà hệ thống duy tâm khách quan không thoát
khỏi giới hạn của tư duy và xa lạ với hiện thực. Ông khẳng định: Đối tượng của nhận thức
nói chung và của triết học nói riêng là giới tự nhiên và con người. Ông kêu gọi: “Hãy quan
sát giới tự nhiên đi, hãy quan sát con người đi! Bạn sẽ thấy ở đấy, trước mắt bạn, những bí
mật của triết học”. Ông phê phán bất khả tri luận và khẳng định: Con người có khả năng
nhận thức được giới tự nhiên, một người thì không thể nhận thức được hoàn toàn giới tự
nhiên, nhưng toàn bộ loài người thông qua các thế hệ thì có thể nhận thức được.
Đặc điểm của thế giới quan duy vật của ông là lòng tin vào sức mạnh của lý trí con
người. Toàn bộ những nguyên lý mà ông chứng minh là những nguyên lý về khả năng nhận
thức chân lý, về giới tự nhiên là đối tượng của nhận thức, về con người là chủ thể của nhận
thức, về mối liên hệ giữa cảm giác và lý trí, về vai trò nhận thức của cảm giác và lý trí. Hạn
chế trong lý luận nhận thức của ông là có tính chất tĩnh quan, không hiểu được vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức, phủ định sạch trơn phép biện chứng của Hêghen. Vì thế chủ
nghĩa duy vật của Phơbách vẫn nằm trong khuôn khổ của phương pháp siêu hình.
Quan điểm về xã hội và tôn giáo

Việc Phơbách phê phán thần học và tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong lịch sử tư
tưởng triết học tiên tiến. Ông cho rằng chính con người đã bày ra thần thánh bằng cách trừu
tượng hóa bản chất con người của mình, rồi cho rằng thần thánh cũng có bản chất ấy. Họ
tuyệt đối hóa, thần thánh hóa đặc tính của con người. Sau khi bác bỏ tôn giáo cũ, Phơbách đã
tuyên bố một tôn giáo mới không có chúa - tôn giáo tình yêu. Ông đã hạ thần học xuống trình
độ nhân bản học và nâng nhân bản học lên trình độ thần học.
W(+))>p+?./`2.$0=2:;./$0.)122U5$]+j250+[`)q+).)#+)./$0.)12
A*2
Ngoài những yếu tố duy lý, ảo tưởng, phi lịch sử, phi giai cấp, đạo đức học của Can-
tơ chứa đựng nhiều tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Nó là sự kết tinh những giá trị đạo đức chung
của nhân loại. Trong quan điểm chính trị xã hội của ông cũng thể hiện một lý tưởng nhân đạo
cao cả, có ý nghĩa định hướng cho các mối quan hệ quốc tế và tiến trình lịch sử. Nó đặt nền
móng cho quan điểm duy vật lịch sử của Mác.
Vai trò lịch sử của triết học Hêghen là ở chỗ đã phát triển phép biện chứng. Những
vấn đề cốt lõi nhất của phép biện chứng hiện đại đã được ông đề cập đến một cách bao quát
và nhiều điểm sâu sắc. Mác, Ăngghen đã đánh giá cao vai trò ý nghĩa của triết học Hêghen,
cho dù triết học của ông là duy tâm, phương pháp biện chứng và hệ thống triết học của ông
có mâu thuẫn.
Phơbách là nhà duy vật nổi tiếng đầu tiên trong hàng ngũ những nhà triết học trong
những năm bốn mươi của thế kỷ XIX. Chính ông đã làm sống lại chủ nghĩa duy vật của thế
kỷ XVII-XVIII, và đã làm phong phú một cách sáng tạo thế giới quan duy vật. Dù còn nhiều
hạn chế, nhưng triết học của ông là chiếc cầu nối, là suối lửa để từ triết học Hêghen bước
sang, chảy qua để đến với thế giới quan duy vật biện chứng triệt để cả trong tự nhiên, xã hội
và tư duy.
Nói chung triết học cổ điển Đức là một trong các tiền đề lý luận quan trọng để ra đời
triết học Mác.
G'ors
Với tư cách là một khoa học lịch sử triết học, lịch sử triết học phương Đông có đầy đủ
những đặc điểm, tính chất, đối tượng và phương pháp nghiên cứu của lịch sử triết học. Tuy
"a

nhiên, lịch sử triết học phương Đông có những đặc điểm khác biệt so với lịch sử triết học
phương Tây. Sự phát triển của tư tưởng triết học phương Đông, sự giao lưu tư tưởng và văn
hóa trong khu vực đã mang bản sắc độc đáo so với phương Tây:
- Triết học phưong Đông chủ yếu bàn đến nhân sinh quan, ít bàn đến thế giới quan.
Ngay cả khi bàn đến nhân sinh quan thì triết học Trung Quốc chú trọng nhiều hơn đến đạo
đức, chính trị-xã hội, còn triết học Ân Độ lại chú trọng đến đời sống tâm linh nhiều hơn. Giải
thoát luận luôn là khuynh hướng nổi trội trong lịch sử triết học Ân Độ, đặc biệt ở giai đoạn
cổ-trung đại. Tuy vậy, triết học phương Đông là sự phản tỉnh của đời sống nhân sinh, chứ
không chỉ là sự phản tỉnh của tự ý thức.
- Triết học phương Đông có sự đan xen rất khó phân biệt giữa duy tâm và duy vật,
giữa biện chứng và siêu hình, giữa vô thần và hữu thần, trong đó triết học Ân Độ là sự đan
xen, hòa đồng giữa những tư tưởng triết học với những tư tưởng tôn giáo.
- Ân Độ và Trung Quốc là hai trung tâm triết học lớn của các dân tộc phương Đông
cổ đại nói chung và các dân tộc châu Á nói riêng. Tính đa dạng, phong phú, sâu sắc của nền
triết học phương Đông nói lên rằng: Bất cứ một sự coi thường nào về nền văn hóa và tư
tưởng của các dân tộc châu Á đều là chủ quan trong khoa học về lịch sử, là cắt xén lịch sử,
do đó sẽ không thấy được tính đa dạng trong sự thống nhất của lịch sử tư tưởng triết học
nhân loại.
- Cùng bàn về nhân sinh quan, nhưng Nho-Phật-Lão đã tạo ra ba thế mạnh khác nhau.
Phật nặng về tâm linh, tình cảm tôn giáo; Nho nặng về chính trị, đạo đức; Lão lại chủ trương
tự nhiên. Sự hội nhập Nho-Phật-Lão đã tạo ra một hiện tượng đặc biệt trong đời sống tư
tưởng văn hóa các dân tộc Á Đông, và nó đã bổ túc cho nhau tạo ra một thế giới quan “hỗn
dung”, “tổng hợp”, tức là một thế giới quan triết học toàn diện hơn.
- Đứng ở góc độ phương pháp, thì các triết thuyết Trung Quốc đặc biệt quan tâm đến
đời sống thực tiễn chính trị-xã hội, trong khi đó triết học Ân Độ lại thiên về siêu hình học và
tôn giáo.
- Triết hoc phương Đông, nhất là triết học Ân Độ, mà nổi bật nhất là triết học Phật
giáo đã bao hàm những tư tưởng biện chứng sâu sắc. Nhưng với tư cách là biện chứng của sự
phát triển thì về cơ bản nó chưa đề cập tới.
- So với triết học Trung Quốc, thì các trường phái triết học Ân Độ ít có sự sáng tạo,

năng động. Thông thường các triết thuyết Ân Độ phát triển về sau thường chỉ là bằng cách
này, hoặc cách khác làm rõ hơn ý của các bậc tiền bối mà thôi. Đây chính là sự phản ánh
những yếu tố đã chi phối sự phát triển chậm chạp của Ân Độ cổ-trung đại.
Những tư tưởng triết học Ấn Độ và Trung Quốc du nhập vào Việt Nam, dần hòa
quyện vào tư tưởng và văn hóa dân tộc. Lịch sử triết học cho thấy cần phải xử lý đúng đắn
mối quan hệ giữa “cái dân tộc” và “cái quốc tế”, làm cho những tư tưởng triết học của Việt
Nam ngày càng phong phú, sống động hơn trong mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển chung
của thế giới, nhằm đạt tới một nền văn minh hiện đại đậm đà bản sắc dân tộc.
"()*$_>t2N6[`)q+).)#+)N#=)*../$]+2:;./$0.)12D+I2UT./H+?5V$
Triết học Ấn Độ ra đời trên cơ sở của một nền văn minh cổ nhất của loài người,
những truyền thống hàng ngàn năm của nó bắt nguồn từ thế kỷ XV TCN-X SCN vẫn được
bảo tồn cho đến ngày nay. Có thể chia lịch sử các học thuyết Ấn Độ thành hai thời kỳ:
- Thời kỳ Veda (XV TCN-VII TCN).
- Thời kỳ cổ điển hay còn gọi là thời kỳ Phật giáo- Balamôn (VI TCN đến thế kỷ X
SCN).
Cũng có quan niệm triết học Ấn Độ cổ-trung đại là phát triển trong khoảng từ thế kỷ
VI TCN đến thế kỷ XV SCN.
(? *@>A1:9B%::88
"b
Veda bắt nguồn từ căn tự “vid” có nghĩa đen là “hiểu biết”, “tri thức”. Veda cũng
được dùng chung với ý nghĩa là “kinh thánh”. Đối với các trường phái chính thống Veda là
những tri thức cao cả, thiêng liêng.
Trong cụ thể, Veda là một khối lượng các tác phẩm văn học được sáng tác trong
khoảng thời gian trên dưới 2000 năm, không đồng nhất về nội dung và văn phong. Cùng với
sự hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ, từ thế kỷ X TCN. Thánh kinh Veda là triết lý tôn giáo
đa thần, mà bộ phận mang tính triết học nhiều nhất là Upanshad. Đạo Balamôn dựa trên triết
lý của Upanishad và chế độ phân biệt đẳng cấp nghiệt ngã của Ấn Độ cổ, là tôn giáo thờ một
thần: Tinh thần tối cao, toàn năng, tuyệt đối, sáng tạo ra tất cả và chi phối tất cả - Thần
Brahman. Đây là hình thức ban đầu của đạo Hinđu và ảnh hưởng lớn đến thế giới quan triết
học Ấn Độ cổ đại.

Kinh Veda là bộ kinh cổ nhất của Ấn Độ và cũng là cổ nhất của loài người. Nó được
soạn từ thế kỷ XII đến thế kỷ V TCN. Người ta cho rằng, về nguồn gốc thần học, kinh Veda
là những chân lý do Thượng đế mặc khải cho loài người ở đầu mỗi chu kỳ của vũ trụ (Mỗi
chu kỳ là 4320 triệu năm). Những chân lý ấy tự tồn tại, tuyệt đối và tiên thiên siêu thời gian.
Con người chỉ nhận thức được nó bằng trực giác. Người thấu thị được nó phải có một quá
trình tu luyện, chiêm nghiệm nội tâm lâu dài cả về hành động lẫn tri thức. Về lịch sử nó
không là tác phẩm của một người, mà là sự tổng hợp, thu lượm tất cả những câu ca dao, vịnh
phú, tư tưởng, quan niệm, tập tục lễ nghi của nhiều bộ lạc người Aryan ở nhiều địa phương
thuộc sông Inđus, Gangơ và chân núi Hymalaya. Từ thế kỷ X đến thế kỷ VIII TCN nó mới
được sưu tập, biên chép thành sách bằng tiếng Phạn cổ.
Thời tiền Veda có 4 tập. Bộ phận sớm nhất của Veda là những khúc hát tụng ca
truyền miệng của dân du mục Arya, những khúc hát này được truyền qua ký ức và truyền
miệng, nó chỉ được in thành sách từ thế kỷ XIV là Rig-Veda. Sau đó là Sama-Veda, Yajur-
Veda, Atharva-Veda.
+ Rig-veda: Rig có nghĩa là tán ca. Đây là bộ phận cổ nhất nó có 1028 khúc hát với
10552 khổ, nó ra đời vào khoảng thế kỷ XXV-XX TCN, được phổ biến ở Ấn Độ vào thế kỷ
XV TCN. Những khúc ca ở đây dùng để cầu nguyện, chúc tụng công đức các thần thánh. Hai
vị thánh được nhắc đến nhiều nhất là thần Sấm Indra và thần Lửa Agni. Bộ kinh này chuyên
dùng cho các bậc Khuyến thỉnh sư (Hotri).
Rig-veda không có tư duy triết học mà chỉ nêu lên những nguyện vọng hàng ngày của
nhân dân như thức ăn, gia súc, mưa, an cư, mạnh khỏe, nhiều con cái. Tuy vậy, các nhà triết
học về sau thường cố gắng trích dẫn Rig-veda để chứng minh nó có ảnh hưởng đến quan
điểm triết học, xác nhận quyền uy của Rig-veda với học thuyết của mình. Thật ra việc làm
này là miễn cưỡng và vô nghĩa.
+ Sama-Veda còn gọi là ca vịnh Veda: Là tuyển tập các đoạn trích của Rig-veda, gồm
1549 bài. Nó là những câu hát dành cho các tư tế (udgtri) trong tiến trình nghi lễ. Trong lễ
hiến tế người ta đồng thanh hát ngân nga những bài ca có vần dài tới 9 giây và thường kết
thúc bằng từ UM (ôm) huyền bí. Nó chuyên dùng cho các bậc Ca vịnh sư (Udgrat). Nó còn
được coi như những quyết định về luật lệ cho sinh hoạt thị tộc. Chính điểm này, làm Ấn Độ
trở nên một quốc gia khó cách tân về phong tục, tập quán. Bởi vì, nếu cách tân là phạm lời

dạy của thánh.
+ Yajur-Veda gọi là Tế tự Veda. Nó là sự tập hợp những công thức khấn bái dùng
trong lễ nghi hiến tế. Đây là bộ kinh dành cho Hành lễ sư (Adhvaryu). Bộ này gồm 2 bộ
(Đen: Krispa và Trắng: Sukla). Bộ Trắng chỉ có các thần chú và các công thức sử dụng cho
các nghi lễ. Bộ Đen là những ý kiến về nghi lễ và thảo luận những ý kiến đó.
Thần chú trong Yajur-Veda bao gồm cả thơ và văn xuôi mang tính công thức khấn
bái dùng trong nghi lễ hiến tế. Các công thức này thường không có nghĩa. Nếu có thì là sự vô
lý hỗn loạn nên được coi là có sức mạnh ma thuật.
"e
Các hành lễ sư phải thuộc lòng các công thức trong thánh kinh này. Thánh kinh này
dạy những thể thức hành lễ, cúng bái, cách bày các loại tế khí, các đồ lễ lên bàn thờ và cách
dâng đồ lễ khi cúng tế.
+ Atharva-Veda là tập các thần chú ma thuật dùng cho các sự khẩn cầu khác nhau,
tách riêng với ba bộ kinh trên. Nó gồm 731 bài văn vần là những lời khấn bái mang tính bùa
chúa, phù phép, ma thuật nhằm đem lại những điều tốt lành cho bản thân và người thân, gây
tai họa cho kẻ thù. Atharva-Veda buổi sơ khai của đạo Balamôn được coi là thánh kinh quan
trọng nhất. Về sau, Rig-Veda thay thế vị trí của nó, nó dược xếp xuống hàng thứ tư trong
thánh kinh Veda chuyên dùng cho giới thầy pháp, thầy tu.
Trên cơ sở của thánh kinh Veda, đặc biệt là Rig-veda, Veda giáo đã hình thành, đây là
hình thức tôn giáo cổ nhất của Ấn Độ. Tôn giáo này thờ cúng thiên nhiên với các vị thần
tượng trưng cho các hiện tượng tự nhiên đa dạng, huyền diệu biểu hiện những tín ngưỡng,
phù phép, lễ nghi, truyền thuyết của thổ dân Dravidian mà chủ yếu là những tộc người Arian
hệ Ấn-Âu. Tôn giáo này tin và giải thích rằng trong vũ trụ đồng thời tồn tại ba lực lượng liên
quan nhau là Thần linh, Con người và Ac quỷ tương ứng với ba thế giới của vũ trụ là Thiên
giới, Trần thế và Địa ngục.
Thần linh trong Veda ngụ khắp ba cõi của vũ trụ. Thần linh rất phong phú đa dạng và
chia nhau chi phối mọi hoạt động của vũ trụ theo nguyên lý Rita (nghĩa đen là chân xác, thích
hợp, là trật tự vận hành của vũ trụ vạn vật). Theo họ, hiện thân của Thượng đế toàn năng là
Trời hay thiên giới (Dyaus), không giới hạn, chứa đựng toàn vũ trụ. Cùng với Trời là cha, là
khí dương, là tinh thần có Aditi là mẹ, là khí âm, là vật chất (vô tận). Do nguyên lý âm

dương, Trời cha Đất mẹ giao hợp mà sinh ra, nuôi dưỡng, điều hành toàn bộ vạn vật trong vũ
trụ. Thần cai quản trần thế là thần lửa Agni, thần cai quản không trung là thần gió Vayu, thần
cai quản thiên giới là thần mặt trời Surya. Đây là ba vị thần tối cao trong thánh kinh Veda.
Ngoài ra Veda còn nhắc nhiều đến thần sấm sét Indra. Người Ấn Độ cổ còn tôn thờ thần mặt
trăng Mosa, thần mưa Parjanya, thần không trung công lý Varuna, thần điều khiển trật tự
Rita, thần nước Apas, thần bão Rudra, thần rạng đông Ushas, thần hoàng hôn Apasra, thần
hạn hán Vittra, thần trí thức Samjna, thần ánh sáng Prabha, thần bóng tối Chaya, thần tài sản
Kubera, thần chiến tranh Kartikuya v.v
Trong kinh Veda còn đưa ra quan niệm về sự sản sinh ra chư thần, vạn vật, muôn loài
từ một đấng nguyên nhân đầu tiên và duy nhất Purusha. Vị thần này có ngàn đầu, ngàn tay,
ngàn mắt, ngàn chân phân ra khắp vũ trụ bao la. Từ miệng Ngài sinh ra dòng họ Balamôn, từ
đùi Ngài sinh ra thứ dân Vaishya và từ bàn chân của Ngài sinh ra bầy nô lệ Shudra, từ tâm
trạng Ngài sinh ra thần mặt trăng Mosa, từ mắt Ngài sinh ra mặt trời Pusan hay Surya, từ
miệng Ngài cũng sinh ra thần sấm sét Indra, thần lửa Agni, bằng hơi thở của mình Ngài sinh
ra cõi Trời, chân làm cõi Đất, Tay làm bốn phương trời đất.
Mỗi bộ kinh trên, đều có những quyển chủ yếu và những quyển không chủ yếu. Loại
chủ yếu gọi là Samhita. Những quyển kinh thuộc Samhita gọi là thánh kinh Veda. Những
thánh kinh căn bản, trọng yếu, thông dụng Samhita có ba loại: Tế nghi thư (Brahmanna),
Sâm lâm thư (Aranyaka), Áo nghĩa thư (Upanishad) quen gọi là các bộ kinh Hậu Veda. Thời
Hậu Veda gồm 3 bộ: Brahmanna-Veda, Aranyaka-Veda, Upanishad.
+ Brahmanna-Veda (Tế nghi thư) là kinh Balamôn. Bộ này nói về nghi lễ tế tự (có
sách nói là nó bàn về cách thức hiến tế). Tức, nó ghi chép, chỉ dẫn cách thức và quy định lễ
nghi tế tự. Bộ này thường dùng cho những người có chức sắc cao cấp gần như những giáo
chủ, tăng lữ Balamôn. Khi các cao tăng hành lễ với thánh kinh Brahmana thì được coi là sự
thực hành những bí quyết, phù phép với những thần chú mầu nhiệm có thể sai khiến thần
linh.
Theo thánh kinh Brhmanna, các đồ khí tế và lễ vật cũng có năng lực tự nhiên mạnh
mẽ, vô hình, mầu nhiệm có thể chuyển lay được ý muốn, hành động của thần linh. Bởi thế,
"f
với tấm lòng thành thanh khiết, tế lễ đúng phép, bày đồ tế lễ và dâng lễ vật đúng ý thần linh

sẽ được thần linh chấp nhận lễ và ban ân huệ đúng như cầu nguyện. Tất cả những linh
nghiệm, ứng báo đó đều do nguyên lý tối cao mà ra.
Dưới cái vỏ thần bí, đầy ắp các yếu tố thần thoại - tôn giáo, kinh Brahmanna cũng chỉ
ra cách lý giải căn nguyên và quá trình hình thành vũ trụ: Đi từ đơn giản đến phức tạp, từ
thấp đến cao. Vạn vật sinh, diệt, nóng, lạnh đều do âm - dương, đực-cái giao hợp trong
không gian, thời gian mà tồn tại mãi mãi. Căn nguyên của sự tồn tại mãi mãi này đều được
quy về “nguyên lý chủ đề tối cao” - Thần Brahman. Tưởng rằng nhất thần nhưng trên thực tế
họ tôn sùng ba vị thần đại diện cho một lực lượng tối cao, trừu tương, khái quát chi phối sự
hình thành, tồn tại, biến đổi của vạn vật trong vũ trụ. Ba vị thần ba xu hướng, nhưng chỉ là sự
thể hiện của một quá trình thống nhất của vũ trụ: Thần sáng tạo Brahma, thần hủy diệt Shiva
còn gọi là Tamas, thần bảo vệ Vishnu còn gọi là thần Sattava (thuần khiết, tính tĩnh).
Khi bàn về con người, kinh Brahmanna cho rằng, giữa mỗi kiếp người luôn có cái
duyên ràng buộc. Càng tu nhân, tích đức, làm nhiều điều thiện thì càng tạo ra nhiều những
nhân duyên tốt của hạnh phúc, cực lạc cho kiếp sau. Điều đó chỉ có thể thực hiện và đạt được
hiệu quả ứng nghiệm hiện tại nếu con người kính cẩn, tôn sùng, siêng năng khấn bái, chiêm
nghiệm sự linh báo ở thần linh.
+ Aranyaka-Veda là sự kế tiếp sự phát triển của Brahmanna. Nó có tên gọi là “Kinh
rừng” (Sấm lâm thư). Tập này tính triết học còn rất ít. Nó chủ yếu giải thích ý nghĩa huyền
bí, bí truyền của những lễ nghi và phát hiện những ý nghĩa triết lý cao siêu. Muốn được bí
truyền các tăng đồ phải vào sâu trong rừng, núi rậm, u tịch, vắng lặng và đem hết tâm trí ra
mà suy tư trong nhiều năm. Những cao tăng thấu đạt nghĩa lý siêu hình, uyên thâm của thánh
kinh Vêđa được tôn trọng ngang gần giới Balamôn.
+ Upanishad là tập muộn nhất và có nhiều tri thức triết học hơn cả. Nó là những lời
bình giải tôn giáo - triết học về các lẽ thiết yếu và ý nghĩa của từng cuộc tế lễ, về những lẽ
huyền bí sâu kín trong các kinh cầu nguyện, các bài thần chú và về những điều chủ yếu trong
các bài thần chú. Upanishad nghĩa là tư tưởng bí mật, là ngồi xung quanh ai đó để trao đổi
riêng. Nó có 18 tập với 200 bài kinh, được biên soạn qua những niên đại khác nhau từ thế kỷ
X đến thế kỷ VI TCN. Trong đó có các bộ kinh quan trọng như: Brithda aranyaka,
Chandogya, Isha, Katha
Nội dung Upanishad là sự giải phóng tư duy người Ấn Độ cổ, nó biểu hiện những

tinh thần mới: Giải phóng tư duy tư biện khỏi ma thuật. Mặc dù ngây thơ đơn giản, vẫn có
những ảnh hưởng của tư biện về nghi lễ, nhưng Upanishad đã đặt ra và trả lời được câu hỏi
triết học: Cái gì là nguyên nhân? Brahman là gì? Nguyên nhân của sự xuất hiện con người
như thế nào? Nó lý giải những vấn đề tối cao, mục đích tối cao của kinh Veda nên nó còn
được gọi là kinh Vedanta (Anta tiếng Phạn có nghĩa là kết thúc, hoàn tất, mục đích).
Upanishad chia nhận thức của con người thành hai trình độ: Hạ trí (apara-viday) và
Thượng trí (para-viday). Hạ trí là tri thức phản ánh những sự vật, hiện tượng cụ thể, riêng lẻ
có hình tướng, danh sắc, phong phú, đa dạng, hiện thực. Ngay cả việc nhận thức kinh Veda
cũng được xếp vào nhận thức hạ trí. Thượng trí là trình độ nhận thức vượt qua tất cả thế giới
hữu hình, có hạn thường xuyên biến đổi từ hình thức tồn tại này sang hình thức tồn tại khác,
để nhận thức một thực tại tuyệt đối, duy nhất, bất diệt (akasara), thường hằng, vô hình ẩn dấu
đằng sau tất cả những cụ thể, hữu hình, hữu hạn. Nó sáng tạo và chi phối tất cả thế giới hiện
tượng ấy.
Theo Upanishad, hạ trí là phương tiện cần thiết để hiểu biết thượng trí. Thượng trí là
mục đích tối cao của nhận thức. Khi có hiểu biết thượng trí sẽ đưa con người tới giải thoát.
Cái thực tại tối cao căn nguyên của sáng tạo mà chỉ thượng trí mới nhận thức được ấy, theo
Upanishad là bản chất nội tại của vũ trụ và muôn vật, nó ở ngoài tất cả mọi giới hạn của
3g
không gian, thời gian và nhân quả. Đó là “tinh thần vũ trụ tối cao”, là “thượng đế”, là thần
Brahman.
Theo Upanishad, Brahman là thực tại tuyệt đối, tinh khiết, hằng cửu, toàn thiện; là
tinh thần vũ trụ đại đồng, là nguyên lý sáng tạo nên toàn vũ trụ; là thực thể duy nhất, trước
nhất, tuyệt đối, vĩnh viễn, chung nhất, phổ biến nhất ẩn sau toàn bộ thế giới hữu hình.
Brahman biểu hiện trong con người là Atman (linh hồn), sự sống của con người. Atman đồng
nhất với Brahman nên Atman cũng tồn tại vĩnh viễn, tuyệt đối, bất diệt. Do ý chí, ham muốn,
dục vọng mà gây ra những hậu quả đau khổ cho linh hồn và thể xác (nghiệp báo - Karma) ở
kiếp này và cả kiếp sau (luân hồi - Samshara). Vậy, chỉ bằng tu luyện để Atman đồng nhất
với Brahman thì con người mới được giải thoát khỏi luân hồi, nghiệp báo.
Upanishad không là công trình của một người mà là kết quả của sự tư biện hình thành
qua nhiều thế hệ. Với nội dung phong phú, đa dạng, Upanishad trở thành nguồn gốc lý luận

cho tất cả các trường phái triết học duy tâm và tôn giáo của Ấn Độ sau này, đặc biệt là đối
với đạo Balamôn và Hindu.
Cho đến nay vẫn còn nhiều tranh luận, thậm chí trái ngược nhau khi cho rằng
Upanishad là cơ sở của những quan điểm khác nhau của các trường phái triết học khác nhau.
Chẳng hạn: Vedanta chỉ dựa vào Upanishad, nó không nghi ngờ Sama-veda và Brahmanna-
veda nhưng đã lờ đi. Mimansa cố đưa những chứng cớ phức tạp để chứng minh Upanishad là
đúng, là vĩnh hằng nhưng trên thực tế nó ủng hộ những quan điểm triết học mà Upanishad
chống lại. Cái say mê của Mimansa là nghi lễ, là những điều cấm kỵ. Điều này đúng ở Yajur-
veda và Brahmanna-veda chứ không thể là của Rig-veda và Upanishad. Tuy vậy, triết lý
Veda và Upanishad cùng với đạo Balamon là hệ tư tưởng thống trị trong đời sống tinh thần
người Ấn Độ cổ đại. Uy thế của nó mạnh đến mức nó được mệnh danh là tư tưởng triết học
chính thống của Ấn cổ. Tất cả những trào lưu vô thần, duy vật, chống lại uy thế của nó đều bị
coi là tà giáo, là không chính thống.
"(3`5\$_O=N6./$0.)12?$J;nL;+.;Nu$HLL;);
( +5:9B
Vedanta có nghĩa là kết thúc veda. Nó được coi như là sự kế tục giai đoạn cuối vùng
của veda. Vedanta đã phát huy những tư tưởng triết học trong Upanishad, kinh chủ yếu của
Vedanta là Vedanta-sutra được coi là của Badarayana, nhưng cho đến nay ta vẫn chưa có tiểu
sử của người này. Bộ chú giải kinh này có nhiều tác giả, trải qua nhiều thời kỳ khác nhau. Ta
chỉ biết nó được xếp là đối lập với Samkhuya, như vậy rất có thể nó ra đời từ thế kỷ VII
TCN.
Nội dung triết học của Vedanta nhìn chung là duy tâm rất trung thành với Upanitshad.
Cụ thể:
Do nội dung của Upanishad không thống nhất nên trước hết Vedanta là sự hệ thống
hóa, thống nhất các quan điểm triết học chứa đựng trong Upanishad. Điều này thể hiện rõ
trong kinh vedanta-sutra (còn gọi là Brahmanna-sutra). Nói chung có thể chia thành hai
thuyết chính:
(("C+D"C6:9B:9BEFB> 
Phái này còn gọi là lý thuyết ảo ảnh, coi Brahman là tồn tại tuyệt đối, nó đồng nhất
với cái “tôi” (Atman) với nghĩa là ý thức thuần túy. Theo họ, thế giới vật chất tuyệt đối

không hiện thực, hình ảnh của nó là ảo ảnh do vô minh (Avidya) sinh ra. Thuyết này (nhất
nguyên, duy nhất (Advaita) tuyết đối) không thừa nhận sự tồn tại của bất cứ cái gì ngoài
Brahaman hay ý thức thuần túy.
Thuyết duy nhất (Advaita) được coi là của Samkara (700-750) sáng lập. Các tác phẩm
của Samkara thường có tính lôgic sắc bén, văn phong trong sáng. Cụ thể:
+ Trên thế giới không có thực tại nào ngoài bản chất tinh thần tối cao duy nhất, vĩnh
cửu, dị dạng nhưng đồng tính là Brahman. Brahman là thực thể tinh thần thuần túy thực hữu,
3"
nó vô cùng, vô tận, tự biến mất nhưng vẫn hiện hữu, tồn tại, ở ngoài vô tận nhưng có ở khắp
trong những cái hữu hạn, là chất liệu và động lực của mọi cái cũng như thế giới, là cái sinh ra
vạn vật và thế giới, cũng đồng thời là cái để thế giới và vạn vật quy về nó.
+ Họ quan niệm, do vô minh mà con người đã ngộ nhận sự phong phú đa dạng của sự
vật hiện tượng là tồn tại chân thực, vô hạn. Thực ra chúng chỉ là những hữu hạn biến đổi vô
thường và chỉ là những ảo tưởng, ảo giác thuần túy mà thôi. Họ thừa nhận nguyên nhân của
thế giới là từ hư không do Brahman tạo ra.
+ Theo họ con người luôn sống giữa những ảo ảnh tự huyễn, giả tưởng và luôn bị nó
quyến rũ rồi mê muội đi, nhầm tưởng là ý chí của mình sống ở đời. Trên thực tế như vậy, con
người chỉ thấy cái hữu hạn, hữu hình mà không thấy được cái vô hình tuyệt đối, cái vô hạn và
cái vĩnh viễn thực sự của bản tính của mình đồng nhất với Brahman.
+ Họ đưa ra 4 phương pháp nhận thức là trực giác, khải thị, kết luận và cảm giác.
Theo họ, kết luận và cảm giác là nhận thức hạ trí chỉ biết được cái hữu hình, hữu hạn, ảo ảnh.
Chỉ có trực giác mới nhận thức được một cách đích thực thế giới. Từ đó, theo họ, mọi cố
gắng và mục đích tối cao của con người là phải đạt cái trực giác để có được sự đồng nhất
giữa linh hồn cá thể với linh hồn tối cao. Là nhằm giải thoát con người khỏi thế giới ảo, thoát
khỏi nghiệp báo, luân hồi. (Đây là giải thoát luận của họ).
+ Những người theo nhất nguyên (Advaita) bên cạnh thờ thần sáng tạo tối cao là
Brahma họ còn thờ thần hủy diệt (shiva). Về thực chất 2 thần này nhất thể.
(("C+*G"C1HIJH: K KB> 
Thuyết này do Ramanuja (1016-1091) sáng lập. Ông là một triết gia nổi tiếng vùng
Nam Ấn lúc ấy. Về nguyên tắc, triết học của phái này không khác mấy so với phái nhất

nguyên. Nếu có điều khác biệt thì là ở chỗ: nếu nhất nguyên chỉ thừa nhận duy nhất Brahman
tồn tại, hiện hữu thì họ thừa nhận có 3 thực thể tồn tại là Brahman, linh hồn cá thể (Atman)
và thế giới vạn vật. Cụ thể:
+ Theo họ, Brahman là đấng sáng tạo tối cao duy nhất, toàn năng, toàn đức mà ngoài
Vishnu (thần bảo vệ tồn tại, thuần khiết còn gọi là Sattva) không có thần nào sánh kịp.
Brahman sáng tạo ra tinh thần, kết hợp tinh thần thành linh hồn cá thể (thực thể linh hồn) sau
đó tạo ra thế giới vật chất. Brahman là cái có trước thế giới, là cái tạo ra thế giới. Mọi sự vật
hiện tượng và thế giới đều là hiện thực của Brahman.
+ Theo họ, 3 thực thể luôn tồn tại trong mối quan hệ phụ thuộc quy định nhau. Trong
đó, thực thể tối cao là Brahman, có quyền uy toàn năng, vừa sáng tạo duy nhất đối với linh
hồn và thế giới vạn vật. Thế giới vật chất, thể xác là thực thể thấp nhất, luôn thụ động. Còn
linh hồn là hiện thân của Brahman nó trú ngụ hội nhập trong thể xác và làm chủ thể xác.
+ Khi bàn về con người, nội dung tư tưởng triết học của phái này vẫn là giải thoát
luận. Theo họ, linh hồn cá biệt là một bộ phận và cùng một thể với Brahman. Nhưng linh hồn
có tư duy ý tưởng để sinh ra ý thức, nhận thức chỉ huy hành vi, hành động của thể xác. Từ
đó, họ cho rằng ý thức, hành vi cũng như hành vi có ý thức của con người đều phải nhận biết
rõ bản chất, nguồn gốc của mình là thành tâm, thiện ý, tôn sùng, kính yêu đấng sáng tạo
Brahman. Tức phải nổ lực để linh hồn của mình hòa nhập với Brahman, là giải thoát linh hồn
khỏi thực thể thấp nhất - vật chất.
+ Nhìn chung, tư tưởng triết học của phái không nhị nguyên phân lập hướng con
người vào quy y, vào “tín ngưỡng tâm” thờ hai thần nhất thể Brahma (sáng tạo, toàn năng) và
Vishnu (bảo vệ, thuần nhất).
((:LK":9BMNHIO L"PH#
QPhái đồng nhất trong sự khác nhau, coi Brahman và Atman là thống nhất về bản
chất, đều là tinh thần. Nhưng Atman trú ngụ trong vạn vật còn Brahman khách quan, độc lập
với con người, giữa Brahman và Atman được ví như biển và sóng biển.
33
+ Nhất nguyên có giới hạn (không nhị nguyên có phân lập ở thế kỷ IX) coi Brahman
là cái tồn tại tuyệt đối, toàn năng, sáng tạo. Đồng thời tồn tại linh hồn (cita), và vật chất
(acita) nhưng sự tồn tại của chúng là tồn tại trong Brahman.

+ Phái nhất nguyên nhị phân (thế kỷ XII) phái này cho rằng Brahman và Atman vừa
phân đôi vừa không phân đôi. Nó chỉ phân đôi khi được Brahman tạo ra thế giới tinh thần với
vật chất dưới dạng các thể thô. Khi nó ở trong Brahman chúng đều ở dạng tinh tế.
+ Thuyết nhị nguyên (thế kỷ XIII) chỉ rõ sự khác nhau giữa Brahman với Atman (tinh
thần cá thể). Ở đây không phải là nhị nguyên về hai bản thể vật chất-ý thức. Phái này chỉ ra 5
sự khác nhau giữa Brahman với tinh thần cá thể. Đó là những sự khác giữa: 1) Brahman với
Atman, 2) giữa Atman với vật chất; 3) giữa hai Atman; 4) giữa hai dạng vật chất; 5) giữa
Brahman với vật chất. Phái này kịch liệt chống lại phái nhất nguyên, họ coi phái nhất nguyên
sakara là Phật giáo trá hình.
+ Phái nhị nguyên thuần túy (thế kỷ XV) đưa ra quan niệm so sánh thượng đế với
linh hồn cá thể có quan hệ như vàng và đồ trang sức bằng vàng, còn linh hồn cá thể được coi
là tia lửa của linh hồn tối cao (Brahman). Họ cho rằng linh hồn cá thể là một bộ phận của linh
hồn tối cao nên cũng phải được tôn trọng. Họ chống lại việc tu khổ hạnh đầy đọa linh hồn cá
thể. Thực chất họ theo chủ nghĩa khoái lạc.
+ Thuyết sự đồng nhất trong sự khác biệt không hiện rõ. Theo phái này thì mọi
người đều bình đẳng trước Brahman và trước các bàn cầu nguyện.
Tóm lại, dù có nhiều hình thức, nhưng Vedanta đều chung nhau ở quan điểm coi linh
hồn cá biệt (Atman) là hiện thân của linh hồn tuyệt đối toàn năng tối cao (Brahman). Họ duy
tâm hữu thần (đa thần nhất thể), khá trung thành với Upanishad. Họ đều giải thoát linh hồn
con người khỏi thế giới hiện thực bằng trực giác. Triết học Vedanta có vị trí quan trọng trong
triết học Hinđu sau này.
4(2"BBvo)O.?$*@Z
Buddaha Trung Quốc dịch là Phật, có nghĩa là đấng giác ngộ, sáng suốt và giác ngộ
người khác (giác giả giác tha).
Theo truyền thuyết, Buddaha là thái tư, con trai vua Tịnh Phạn (Phạn Vương có tên là
Suddhodana), tên là Siddharta (Trung Quốc dịch là Tất Đạt Đà, tức nguyện ước đã đạt được).
Thuỏ ấy, Tịnh Phạn là vua một nước thuộc Bắc Ấn (Gồm phía nam Nê Pan, một phần của
các bang Úttarơ, Paradejơ, Bihe ngày nay). Tịnh Phạn thuộc dòng họ Sakya, kinh đô là thành
Catilavệ. Buddaha sinh ngày 15/04 năm 563 và mất năm 483 TCN, tính theo âm lịch (có sách
ghi 623-543 TCN, và ngày sinh là 08/04).

Theo truyền thuyết, Phật có tới 547 tiền kiếp trước khi đầu thai làm con của vua
Sakya. Trong những tiền kiếp trước ông là những con người, hoặc là những con vật, đều đầy
lòng từ-bi-hỷ-xả, sẵn sàng hy sinh vì đồng loại. Kiếp gần nhất của ông là voi trắng 6 ngà.
Khi mới sinh ra, Phật có 32 dị tướng (tam thập nhị), 82 đặc điểm phi thường (bát thập
nhị chủng hảo) trong đó có việc vừa được sinh ra đã đi dược bảy bước, và đã được tiên đoán
là sẽ thành Hoàng Đế trị vì thiên hạ, nếu không thì cũng là đức Phật cứu nhân độ thế. Phật
được vua cha cưới vợ cho vào năm 19 tuổi. Năm 29 tuổi, khi đã có một con trai, ông xuất gia
tu hành theo phương pháp khổ hạnh, hành khất về phương Nam. Ông thiền định khổ hạnh
trong 6 năm, đến mức thân hình gầy yếu chỉ còn da bọc xương, nhưng vẫn không đắc đạo.
Ông đã suy nghĩ “ta tu khổ hạnh, ép xác như thế này mà không thấy đạo, thì cách tu của ta
chưa phải, chi bằng ta phải theo trung đạo, tức không say mê việc đời, mà cũng không quá
khắc khổ ”. Năm đạo sỹ cùng tu hành với Tất Đạt Đà, tưởng ngài thoái chí, nên bỏ ngài mà
đi tu chỗ khác. Còn lại một mình, một buổi trưa sau khi tắm rửa xong và uống một cốc sữa
của người chăn bò đưa cho, ông cảm thấy khoan khoái, tinh thần tỉnh táo hẳn lên, ông một
mình đến ngồi dưới gốc cây bồ đề (Bobdi - Tấtbatla) thiền - tịnh trong 49 ngày thì quả nhiên
giác ngộ, thấy được căn nguyên sinh-thành-biến-hóa của vạn vật, vũ trụ, nhân sinh; tìm ra
3<
nguồn gốc của nổi khổ và phương pháp trừ nổi khổ cho sinh linh. Ông xuất gia ngày 8/2/595
(535) TCN, giác ngộ thành Phật ngày 8/12/589 (529) TCN. Ông đã truyền đạo của mình
trong 45 năm nữa, và nhập Niết bàn 15/2/543 (483) TCN.
Từ khi ra đời cho đến nay Phật giáo đã trải qua 4 lần kết tập (Đại hội).
+ Kết tập lần 1 được tổ chức sau khi Phật tịch khoảng 100 ngày (khoảng thế kỷ V
TCN), do Đại Ca Diếp triệu tập và làm chủ tọa. Đại hội này kéo dài 7 tháng, có 500 tỳ kheo
tham dự. Tại Đại hội này, Ananđa kể lại lời Phật dạy về giáo lý. Ưu Bà Ly kể lại lời Phật nói
về giới luật tu hành. Đại Ca Diếp kể về những lời luận giải của Phật về giáo lý và giới luật.
Như vậy, về nguyên tắc tam tạng của Phật giáo được khởi soạn từ đây, nhưng tất cả đều
không được ghi bằng văn tự.
+ Kết tập lần 2, được tiến hành khoảng thế kỷ IV TCN, kéo dài 8 tháng, với 700 tỳ
kheo tham dự. Đại hội lần này, chủ yếu giải quyết những bất đồng về việc thực hành giới luật
và luận giải kinh điển. Đại hội này, đánh dấu cho việc tách Phật giáo thành 2 phái: Thượng

tọa bộ và Đại chủng bộ.
+ Kết tập lần 3, tiến hành giữa thế kỷ III TCN, do vua Asoka đứng ra triệu tập, Lần
này kéo dài 9 tháng, với 1000 tỳ kheo tham dự. Kết tập lần này, tam tạng đã được ghi lại
thành văn bản với cả hai thứ tiếng Sanskrit và Paly. Sau kết tập, được sự bảo trợ của vua
Asoka, các tăng đoàn được thành lập và bắt đầu truyền bá đạo Phật ra nước ngoài.
+ Kết tập lần thứ 4, được tiến hành dưới triều vua Kaniska (125-150) SCN, với 500 tỳ
kheo tham dự. Kết tập đã hoàn chỉnh “kinh điển” của Phật giáo và tồn tại cho đến ngày nay.
Cũng từ lần kết tập này, Phật giáo chính thức chia thành hai phái lớn là Đại thừa và Tiểu
thừa.
Tiểu thừa có nghĩa là cổ xe nhỏ, phái này chủ trương ai tu thì tự độ lấy mình. Kinh
sách ban đầu chủ yếu viết bằng tiếng Paly, và chủ yếu truyền đạo về phía Nam Ấn như ở
Xrilanca, Lào, Thái Lan, Căm pu chia, Miến Điện, nên còn gọi là Nam tông. Phái này “chấp
hữu”.
Tiểu thừa có 2 phái lớn là: Phái “Nhất thiết hữu bộ” (Savatyvada), tập trung nghiên
cứu phạm trù thời gian. Phái Kinh bộ (Sautramtica), xây dựng “lý thuyết về tính chốc lát”.
Về sau, Tiểu thừa còn có nhiều phái khác như Câu xá tông, Thành thực tông, Luật tông v.v
Đại thừa có nghĩa là cổ xe lớn, phái này không chỉ tự giác ngộ cho mình mà còn giác
ngộ cho mọi người. Kinh sách thường viết bằng tiếng Sanskrit và phát triển mạnh về phía
Bắc Ấn như Nê Pan, Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Nhật, Việt Nam nên còn gọi là Bắc
tông. Phái này “chấp không” (không luận).
Đại thừa có 2 phái lớn: Phái Trung luận (Madhymika) do sư Long Thọ lập ra ở thế kỷ
II SCN. Phái Trung luận truyền tụng chủ yếu là các kinh Hoa Nghiêm, Trung luận, Thập nhi
môn luận, Thập trụ luận. Phái Du già (Yogacara) do hai anh em Vô Trước (Asangha) và Thế
Thân (Vasubhandha) sáng lập ở thế kỷ IV SCN. Kinh sách truyền tụng của phái này thường
là Du già sư địa luận (duy thức luận), Đại thừa luận, Kim cương bát nhã luận. Về sau Đại
thừa còn có nhiều tông phái khác như Pháp tướng tông, Tam luận tông, Hoa nghiêm tông,
Thiên thai tông, Mật tông (chân ngôn tông), Thiền tông, Tịnh độ tông, v.v
Từ thế kỷ III TCN đến thế kỷ VI SCN, Phật giáo đã phát triển chiếm địa vị độc tôn
trong đời sống tinh thần người Ấn Độ. Từ thế kỷ VI trở đi Phật giáo suy yếu dần trước sự
cạnh tranh của Hinđu giáo và Hồi giáo. Năm 1193, Hồi giáo đã tiêu diệt gần như hoàn toàn

Phật giáo ở Ấn Độ. Nhưng từ thế kỷ III TCN trở đi, Phật giáo đã nhanh chóng lan nhanh trên
phạm vi thế giới, trở thành một trong ba tôn giáo thế giới lớn nhất.
#. B"MMR +574S6J #0
Tư tưởng triết học Phật giáo được chứa đựng trong “Tam tạng”. Kho kinh điển này
gồm hơn 8400 cuốn, thuộc tiếng Paly (Nam Ấn) và Sanskrit (Bắc Ấn). Ngoài ra sự phát triển
3W
của Tiểu thừa và Đại thừa đã làm phong phú thêm những tư tưởng triết học sơ kỳ của Phật
giáo. Dù sao, tư tưởng cốt lõi cũng không ngoài phạm vi những tư tưởng sơ kỳ sau đây:
4(2S!"J+ T U"
b1.1) Lý “nhân duyên khởi”
Nguyên lý “Nhân duyên khởi” coi vạn vật trong vũ trụ đều có nguyên nhân tự thân,
không do một đấng thần linh nào tạo ra cả. Sự đa dạng của tồn tại là do “Nhân duyên” tạo ra:
nhân duyên hội thì sự vật tạo ra. Nhân duyên hết thì sự vật không còn.
“Nhân duyên” quan hệ chặt chẽ với “nhân quả”. Nhân là nghiệp lực. Quả là nghiệp
lực đã thành hiện thực nhờ hội đủ duyên.
“Nhân duyên khởi” và “nhân quả” là nguyên lý phổ biến tuyệt đối của mọi tồn tại.
“Duyên” ở đây phải được hiểu vừa là nguyên nhân sinh ra cái mới, vừa là kết quả của quá
trình biến đổi cái cũ trước đó. Nhân nhờ duyên mà thành quả, quả nhờ duyên mà thành nhân
mới, nhân mới nhờ duyên thành quả mới, Quá trình cứ thế nối nhau vô cùng, vô tận mà thế
giới, vạn vật, muôn loài cứ sinh sinh hóa hóa không ngừng.
Lýnhân duyên giải thích căn nguyên biến hóa vô thường của vạn pháp. Tất cả vạn
pháp không thoát ra được sự chi phối của luật nhân quả. Cái gì tác động ở vật gây ra kết quả
gọi là nhân. Cái gì kết tập lại từ nhân gây ra gọi là quả. Duyên là sự tương hợp, là điều kiện
giúp cho sự khởi sự của vạn pháp. Có lục nhân, tam duyên, tứ duyên và thập nhị nhân duyên.
Lục nhân gồm: 1) Tương ứng nhân: nhân của tâm vương và tâm sở tương ứng nhau
mà có (Tâm vương là cái tâm làm chủ cái thức, tâm sở là cái tâm đã thụ tưởng, hành, thức).
2) Câu hữu nhân: Nhân của tâm vương và tâm sở cùng có mà giúp lẫn nhau.
3) Đồng loại nhân: Nhân cùng một loại.
4) Biến hành nhân: Nhân cùng khởi một lúc khắp cả trong khổ đế và tập đế.
5) Dị thục nhân: Nhân làm điều thiện hoặc ác ở đời này thì đời sau sẽ thành ra ở đời

sau thành thiện báo hay là ác báo.
6) Năng tác nhân: Nhân nhờ có duyên khác mà tạo ra kết quả.
Tam duyên gồm: 1) Thân duyên (duyên thân với Phật): Ba nghiệp (thân, khẩu, ý) của
chúng sinh và ba nghiệp của Phật chẳng lìa bỏ nhau.
2) Cận duyên (duyên gần với Phật): chúng sinh nguyện thấy Phật, Phật liền ứng niệm
mà hiện ra trước mắt.
3) Tăng thượng duyên (duyên thêm lên cõi Phật): chúng sinh xưng niệm Phật mỗi
giây nghĩ (niệm niệm) trừ được tội nhiều kiếp, khi lâm chung Phật, thánh sẽ tiếp rước về cõi
cực lạc.
Tứ duyên gồm: 1) Nhân duyên: Cái duyên làm cho nhân thành quả. Chẳng hạn, lục
căn (mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý) làm nhân; lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) làm
duyên mà thành ra lục thức (thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác, ý giác).
2) Thứ đệ duyên: Cai duyên của tâm vương, tâm sở cứ thứ tự theo nhau sinh ra liên
tục không dứt.
3) Sở duyên duyên: Duyên này nhờ duyên khác mà sinh ra.
4) Tăng thượng duyên: Đối với sinh vật, kinh Phật tìm thấy sự liên kết của nghiệp quả
từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến tương lai mà đưa ra thập nhị nhân duyên (xem phần
tập đế).
b1.2) Tư tưởng “Vô thường”, “Vô ngã”:
Vạn pháp đều không vượt qua nguyên lý “Vô thường” và “vô ngã”.
“Vô ngã” là không có cái ta; sự vật bản chất không thường tồn bất biến, nên “ngã”
chỉ là “ảo”, “giả”. Nó là “ảo” là “giả” vì hội đủ nhân duyên thì có, cái “có” ấy tự tính vốn
chẳng “có” mà là “không”. Chỉ trong một Shadna thì sự vật đã chẳng còn là nó, thế thì cái
thấy chỉ là huyễn hoặc.
3Y

×