Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp vùng đồng bằng sông cửu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.18 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN
***********

ĐỀ ÁN MÔN HỌC:
Đề tài:
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP VÙNG ĐỒNG
BẰNG SƠNG CỬU LONG

Họ và tên

: Dương Hồng Dũng

Lớp

: Kinh tế phát triển 48a

Mã SV

: CQ480442

Giáo viên hướng dẫn

: ThS. Bùi Đức Tuân

Hà Nội: 11/2009


I. Cơ sở lí luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
1.1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế :
Trong 3 tiêu thức đánh giá phát triển, cơ cấu kinh tế được xem như là tiêu


thức phản ánh sự thay đổi về chất , là dấu hiệu đánh giá ,so sánh các giai đoạn
phát triển của nền kinh tế . Cơ cấu kinh tế biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau
như : cơ cấu ngành kinh tế , cơ cấu vùng kinh tế , cơ cấu thành phần kinh tế , cơ
cấu khu vực thể chế v.v …. Trong đó, cơ cấu ngành là quan trọng nhất vì nó
phản ánh sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực
lượng sản xuất . Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành chính là 1 nội dung quan
trọng của qn trình cơng nghiệp hố và hiện đại hoá đất nước.
1.1.1. Cơ cấu ngành kinh tế:
Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống : cơ cấu ngành của 1 nền kinh tế là
tập hợp tất cả các ngành hình thành nên nền kinh tế và các mối quan hệ tương
đối ổn định giữa chúng.
Có nhiều cách phân loại ngành khác nhau khi nghiên cứu về chuyển dịch
cơ cấu ngành . Song cho đến nay chính thức tồn tại 2 hệ thống phân ngành kinh
tế : phân ngành kinh tế theo hệ thống sản xuất vật chất (MPS) và phân ngành
theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA)
Theo hệ thống sản xuất vật chất , các ngành kinh tế được phân thành 2
khu vực : sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất .Khu vực sản xuất vật
chất và không sản xuất vật chất được phân thành các ngành cấp I như: Công
nghiệp , Nông nghiệp ..Các ngành cấp I lại được phân thành các ngành cấp II,
chẳng hạn ngành công nghiệp lại bao gồm các ngành sản phẩm như: điện năng ,
nhiên liệu .. Đặc biệt trong các ngành cơng nghiệp người ta cịn phân ra thành
nhóm A và nhóm B.
Nguyên tắc phân ngành xuất phát từ tính chất phân cơng lao động xã hội ,
biểu hiện cụ thể qua sự khác nhau về quy trình cơng nghệ của các ngành trong
q trình tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ . Các ngành kinh tế được phân
thành 3 khu vực hay gọi là 3 ngành gộp: khu vực I bao gồm các ngành nông –


lâm- ngư nghiệp ; khu vực II là các ngành công nghiệp và xấy dựng ; khu vực III
gồm các ngành Dịch vụ .

Theo hệ thống tài khoản quốc gia,các ngành kinh tế được phân thành 3
nhóm ngành lớn là nông nghiệp, công nghiệp , xây dựng và dịch vụ. Ba ngành
gộp này bao gồm 20 ngành cấp I như: nơng nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản, khai
mỏ khai khống,…Các ngành cấp I lại được phân nhỏ thành các ngành cấp II.
Các ngành cấp II lại được phân nhỏ thành các ngành sản phẩm.
Có nhiều mức phân ngành khác nhau , tuỳ theo mức độ gộp hay chi tiết
hoá đến chừng nào đó mà có được tập hợp các ngành tương ứng .
Với một cách phân ngành hợp lí và một giá trị đại lượng được chọn thống
nhất có thể xác định được các chỉ tiêu định lượng phản ánh một mặt cơ cấu
ngành ,đó là tỉ trọng các ngành so với tổng thể các ngành của nền kinh tế . Loại
chỉ tiêu định lượng thứ nhất này được sử dụng để nghiên cứu liên quan đến phát
triển cơ cấu ngành của nền kinh tế . Chỉ tiêu định lượng thứ hai có thể mơ tả
được phần nào mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành kinh tế , đó chính là
các hệ số trong bảng cân đối liên ngành ( hệ MPS) hay bản I/O của hệ thống
SNA.
Cơ cấu ngành kinh tế thể hiện ở mối quan hệ tương hỗ giữa các ngành với
nhau . Mối quan hệ này bao gồm cả mặt số và chất lượng . Mặt số lượng thể
hiện ở tỉ trọng ( tính theo GDP, lao động , vốn). Số liệu thống kê của Ngân hàng
thế giới (WB) chỉ rõ sự khác nhau về cơ cấu ngành giữa các nhóm nước có trình
độ phát triển kinh tế khác nhau. Các nước kinh tế phát triển thường có tỉ trọng
dịch vụ rất lớn. Ngược lại, các nước đang phát triển có nền kinh tế chủ yếu dựa
vào nơng nghiệp thì phần đóng góp của dịch vụ trong cơ cấu GDP thường từ 2030% .Khía cạnh chất lượng phản ánh vị trí , tầm quan trọng của từng ngành và
tính chất của sự tác động qua lại giữa các ngành với nhau. Sự tác động qua lại
giữa các ngành có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Tác động trực tiếp bao gồm tác
động cùng chiều hoặc ngược chiều , còn mối quan hệ gián tiếp được thể hiện
theo các cấp 1 ,2,3 v.v….Nói chung mối quan hệ của các ngành cả số và chất


lượng đều thường xuyên biến đổi và ngày càng trở nên phức tạp hơn theo sự
phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội trong nước và

quốc tế

. .

Xu thế chung khi chuyển từ một nền kinh tế kém phát triển sang một nền
kinh tế phát triển là giảm nhanh tỉ trọng nông nghiệp cả trong cơ cấu lao động
lẫn cơ cấu GDP, đồng thời tăng tương ứng trong cơ cấu GDP và lao động của
khu vực công nghiệp ở giai đoạn đầu và tăng cơ cấu lao động, cơ cấu GDP của
khu vực dịch vụ ở giai đoạn sau.
1.1.2 Cơ cấu trong nội bộ ngành kinh tế:
Cơ cấu trong nội bộ ngành kinh tế là tỉ trong các ngành cấp II trong các
ngành công nghiệp nông nghiệp , dịch vụ mà chủ yếu là tỉ trọng trong tổng sản
lượng của ngành , VD trong Cơng nghiệp thì tỉ trọng nhũng ngành dệt may, da
giầy, cơ khí , đóng tàu v.v… trong ngành Nơng nghiệp là ngành trông cây lương
thực , trồng lúa , chăn ni thâm canh tăng vụ .Mỗi ngành đều có đặc thù riêng
tuy vậy cơ cấu trong nội bộ ngành kinh tế là rất liên quan mật thiết với nhau ,có
tác động tương hỗ với nhau và thể hiện thế mạnh của từng vùng kinh tế trọng
điểm .
1.2. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế:
1.2.1 Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế:
Cơ cấu kinh tế là một phạm trù rộng , nó ln ln thay đổi theo từng thời
kì phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu khơng cố định . Q trình thay đổi
của cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hồn thiện
hơn, phù hợp với mơi trường và điều kiện phát triển gọi là sự chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu ngành là quá trình phát triển của các ngành kinh tế
dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi quan hệ tương
quan giữa chúng so với một thời điểm trước đấy .



Theo định nghĩa này , điều chỉnh cơ cấu ngành chỉ diễn ra sau một khoảng
thời gian nhất định vì nó là một q trình và sự phát triển của các ngành phải
dẫn đến sự thay đổi mối quan hệ tương đối ổn định vốn có của chúng ( ở thời
điểm trước đó ). Trên thực tế , sự thay đổi này là kết quả của quá trình :
Xuất hiện thêm một số ngành mới hay mất đi một số ngành đã có , tức là có
sự thay đổi về số lượng cũng như loại ngành trong nền kinh tế .
Tăng trưởng về qui mô với nhịp độ khác nhau của các ngành dẫn đến thay
đổi cơ cấu . Trong trường hợp này sự điều chỉnh cơ cấu ngành là kết quả của sự
phát triển không đồng đều của các ngành sau mỗi giai đoạn .
Chỉ tiêu xác định tốc độ biến đổi tương quan giữa các ngành kinh tế
thường dùng là nhịp độ tăng trưởng ngành :
Thay đổi trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành . Sự thay đổi
này trước hết biểu thị bằng số ngành có liên quan . Mức độ tác động qua lại của
ngành này với các ngành khác qua qui mô đầu vào mà nó cung cấp cho các
ngành hay nhận từ các ngành đó .
Sự tăng trưởng của các ngành dẫn đến sự thay đổi cơ cấu ngành trong mỗi
nền kinh tế . Cho nên , chuyển dịch cơ cấu ngành xảy ra như là kết quả của quá
trình phát triển . Đó là qui luật tất yếu từ xưa đến nay trong hầu hết mọi nền kinh
tế . Vấn đề đáng quan tâm là ở chỗ : sự chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra theo
xu hướng nào , tốc độ nhanh chậm ra sao , có những qui luật gì ?
Có rất nhiều nền kinh tế đã đạt được thành cơng trong sự phát triển nhờ
vào q trình chuyển dịch cơ cấu ngành đặc thù phù hợp với điều kiện cụ thể .
Việc tìm ra một xu hướng hay giải pháp cho chuyển dịch cơ cấu ngành của Việt
Nam khơng đơn thuần là áp dụng kinh nghiệm có được mà là sự phát triển đặc
thù của đất nước , của môi trường trong nước và thế giới hiện nay để làm thích
ứng những bài học đã có cho hoàn cảnh Việt Nam .
1.2.2 Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành kinh tế:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành là tăng tỉ trọng vốn đầu tư ,
thay đổi về đóng góp của các ngành cấp II trong nội bộ ngành kinh tế ,về tỉ trọng



ngành đó trong tổng sán lượng tồn ngành , ngành nào có khả năng tác động vào
sản lượng chung tồn ngành cao , đóng hóp vào điểm % thay đổi của tổng sản
phẩm cao thì nên gia tăng dung lượng vốn đầu tư và các chính sách ưu đãi cho
những ngành đó. Tập trung vao những ngành phù hợp với địa hình địa chất , khí
hậu , con người, đặc điểm sản xuất để có kế hoạch chuyển dịch cơ cấu trong nội
bộ ngành phù hợp .
1.3. Các mơ hình về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
1.3.1 Mơ hình 2 khu vực của Lewis:
A.Lewis là nhà kinh tế người Mỹ gốc Jamaica và , trong tác phẩm “ Lí
thuyết về phát triển kinh tế “ đã đưa ra các giải thích về mối quan hệ giữa nơng
nghiệp và cơng nghiệp trong q trình tăng trưởng, gọi là “Mơ hình hai khu vực
cổ điển “. Đặc trưng chủ yếu của mô hình hai khu vực cổ điển là phân chia nền
kinh tế thành hai khu vực công nghiệp và nông nghiệp và nghiên cứu quá trình
di chuyển lao động giữa hai khu vực.
Sự phát triển công nghiệp quyết định tăng trưởng kinh tế phụ thuộc khả
năng thu hút lao động dư thừa từ nơng nghiệp , phụ thuộc vào tích luỹ vốn. Mơ
hình Lewis trên một mức độ nhất định cịn giải thích nguồn gốc của những hậu
quả xã hội, sự phân hố giàu nghèo trong q trình tăng trưởng kinh tế .
Cơ sở nghiên cứu của mô hinh Lewis là từ Ricardo. Trong nghiên cứu của
mình , Ricardo đã đưa ra hai vấn đề : một là , khu vực nơng nghiệp có lợi nhuận
biên giảm dần theo qui mơ và tiến tới bằng không ( nguyên nhân của hiện tượng
này là do qui mô sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng lên đòi hỏi phải sử dụng
đất đai ngày càng xấu hơn , dẫn đến chi phí sản xuất tăng dần khi sản xuất một
tấn lương thực , với mức tăng cho trước ở đầu vào dẫn đến các mức tăng liên tục
nhỏ hơn ở đầu ra .Ông cho rằng lao động dư thừa ở nơng thơn về hình thức khác
với lao động dư thừa ở thành thị . Ở thành thị , lao động được coi là dư thừa khi
họ có khả năng lao động , có mong muốn làm việc nhưng khơng thể tìm được
việc làm . Cịn ở nơng thơn thì khơng phải như vậy , hiện tượng phổ biến ở đây
là mọi người đều có việc làm nhưng với năng suất lao động ngày càng thấp , các



thành viên trong gia đình phải chia việc ra để làm . Sản phẩm biên của lao động
giảm dần và tiến tới bằng không . Hiện nay các nhà kinh tế gọi là thất nghiệp trá
hình ( vơ hình hoặc bán thất nghiệp).
Do đó khu vực nơng nghiệp mang tính trì trệ tuyệt đối , cần phải giảm dần
qui mơ và tỉ trọng đầu tư . Cần xây dựng công nghiệp để thu hút lao động

TPA

TPM

A1

A2

Tpm3(K3)

A3

TPM2
TPM1

0

LA2

M3

TPM3


LA1

LA

0

M2

TPM2(K2)
TPM1(K1)

M1

LM1 LM2 LM3

LM


D5
ADL,MDL

WM
MDL

A

O

WM1


LA2

LA

D1

D2

D3

E5

E1 E2

E3

E4

O LM1 LM2

LM3

LM4 LM

WM

ADL

SLM


D4

Hàm sản xuất với các yếu tố L, K,T
Sản phẩm biên nông nghiệp giảm dần và =0 ( khai thác hết đất và lao
động tiếp tục đưa vào )
Nguyên tắc là tiền lương bằng với sản phẩm biên. Khi sản phẩm biên
bằng 0 thì tiền lương bằng sản phẩm trung bình.
Trong điều kiện dư thừa lao động thì tiền lương trong nơng nghiệp chỉ ở
mức tối thiểu
Khu vực công nghiệp trả cao hơn 30% để thu hút lao động
Hết lao động dư thừa thì tiền lương mới tăng ( đường cung lao động dốc
lên )
Khi lao động vẫn còn thừa , đường cầu lao động càng lớn thì lợi nhuận
cho nhà tư bản càng lớn ; cơ sở của sự tích luỹ và phân hố xã hội
Khi hết dư thừa , tiền lương tăng làm lợi nhuận công nghiệp giảm , bất
binhg đẳng giảm
Cần đầu tư lại vào nông nghiệp để giảm cầu lao động ở khu vực nơng
nghiệp
Tóm lại : Mơ hình Lewis giải quyết mối quan hệ giữa hai khu vực trong
qua trình tăng trưởng . Khi nơng nghiệp có dư thừa lao động thì tăng trưởng
kinh tế được quyết định bởi khả năng tích luỹ và đầu tư của khu vực Cơng


nghiệp .Chỉ ra được những hệ quả về mặt xã hội , lí giải được mối quan hệ giữa
tăng trưởng và bất bình đẳng xã hội trong mơ hình chữ U ngược (Kuznet)
Tuy nhiên cịn một vài giả định khơng thực tế :
-Tỉ lệ lao động thu hút sang khu vực cơng nghiệp tương ứng với tỉ lệ vốn
tích luỹ ở khu vực này ( thâm dụng vốn hoặc đầu tư nơi khác ).
Thành thị khơng có thất nghiệp.

Nơng thơn có thể giải quyết được việc làm mà khơng cần phải chuyển ra
thành phố .
Tiền lương công nghiệp không tăng ( thực tế vẫn tăng do nhu cầu về lao
động tay nghề và cơng đồn ).
1.3.2 Mơ hình 2 khu vực của trường phái tân cổ điển:
Một trong những điểm mới trong tư tưởng nghiên cứu của các nhà kinh tế
của trường phái tân cổ điển là đặt khoa học công nghệ ( T là một yếu tố trực tiếp
và mang tính quyết định đến tăng trưởng kinh tế .
Khu vực nơng nghiệp :
Con người có thể cải tạo và nâng cao chất lượng ruộng đất . Với lập luận
đó , đường biểu diễn hàm sản xuất trong nông nghiệp với yếu tố lao động biến
đổi TPA=F(LA) của trường phái tân cổ điển sẽ ln có xu thế dốc lên , thể hiện ở
sơ đồ sau:

TPA
TPA=f(LA)

LA


Đường hàm sản xuất trong nông nghiệp tân cổ điển
Qua sơ đồ ta thấy mặc dù đường biểu diễn hàm sản xuất trong nơng
nghiệp khơng có phần nằm ngang nhưng độ dốc cũng có xu thế giảm dần , tức là
với một số lượng lao động tăng lên bằng nhau , càng về sau thì mức tăng lên của
tổng sản phẩm ngày càng giảm đi . Biểu hiện trì trệ này được giải thích bởi qui
luật lợi nhuận biên giảm dần theo qui mơ, cho dù có sự tác động của khoa học
công nghệ nhưng đất đai trong nông nghiệp vẫn có dấu hiệu giảm đi về số và
chất lượng , nên sản phẩm biên của lao động không bằng khơng nhưng có chiều
hướng giảm dần . Sản phẩm biên trong nông nghiệp luôn dương nên tiền công
được trả theo mức lao động cận biên . Đường cung lao động trong nơng nghiệp

vì thế khơng có đoạn nằm ngang ( hơi dốc lên ) .Tân cổ điển coi công nghệ (T)
là yếu tố trực tiếp quyết định tăng trưởng

W

SLA

LA
Đường cung lao động nông nghiệp
* Khu vực công nghiệp :
Sản phẩm biên của lao động khu vực nông nghiệp luôn dương , khi
chuyển dịch lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp sẽ làm tăng liên tục sản
phẩm cận biên của lao động cịn lại trong nơng nghiệp , cho nên khu vực công
nghiệp phải trả mức tiền công ngày càng cao hơn cho số người lao động chuyển


từ nông nghiệp ngày càng nhiều . Khi lao động chuyển khỏi nông nghiệp làm
cho đầu ra( tổng sản phẩm ) của nông nghiệp giảm xuống và kết quả là giá cả
nông sản ngày càng cao, tạo ra áp lực phải tăng lương cho người lao động khu
vực công nghiệp .

SLM

W

WM2
WM1

DLM1
LM


Đường cung cầu lao động khu vực công nghiệp
Tân cổ điển cho rằng để cho quá trình trao đổi giữa hai khu vực không tạo
ra những bất lợi ngày càng nhiều cho cơng nghiệp thì các nhà tân cổ điển cho
rằng cần phải đầu tư cả cho nông nghiệp ngay từ đầu chứ không phải chỉ quan
tâm đến đầu tư cho công nghiệp. Việc đầu tư cho nông nghiệp phải được thực
hiện theo hướng nâng cao năng suất lao động ở khu vực này để mặc dù rút bớt
lao động nông nghiệp chuyển sang công nghiệp nhưng không ảnh hưởng đến
sản lượng lương thực , thực phẩm , giá nông sản không tăng , giảm áp lực tăng
giá tiền công lao động công nghiệp . Mặt khác để giảm bớt áp lực , khu vực
công nghiệp một mặt , cần đầu tư theo chiều sâu để giảm cầu lao động ; mặt
khác , khu vực này cần tập trung đầu tư phát triển sản xuất hàng hoá xuất khẩu
để đổi lấy lương thực , thực phẩm nhập khẩu từ nước ngồi về . Tuy khu vực
nơng nghiệp khơng có thất nghiệp nhưng vẫn có biểu hiện trì trệ tương đối so
với công nghiệp tức là với một số lượng lao động bổ sung cho nông nghiệp bằng


nhau nhưng mức tổng sản phẩm gia tăng có xu hướng ngày càng giảm , vì vậy
nên giảm tỉ trọng đầu tư khu vực nơng nghiệp .
1.3.3 Mơ hình 2 khu vực của Oshima:
Harry T. Oshima là nhà kinh tế người Nhật bản , ông nghiên cứu mối
quan hệ giữa 2 khu vực dựa trên những đặc điểm khác biệt của các nước chấu Á
so với các nước Âu- Mỹ , đó là nền nơng nghiệp lúa nước có tính thời vụ cao.
Tỏng tác phẩm “ tăng trưởng kinh tế ở các nước châu á gió mùa “ Oshima đã
đưa ra quan điểm mới về mơ hình phát triển và mối quan hệ công – nông nghiệp
dựa trên những đặc điểm cơ bản của sản xuất nông nghiệp và hoạt động kinh tế
châu Á.
Theo Oshima, dư thừa lao động khu vực nông nghiệp không phải lúc nào
cũng xảy ra nên mơ hình Lewis khơng thik hợp với đặc điểm Châu Á, nhất là
những vùng lúa nước. Oshima cho rằng về mặt lí thuyết thì trường phái tân cổ

điển hoan tồn đúng khi họ đặt vấn đề phải đầu tư từ đầu cho Nông nghiệp và
công nghiệp hay quan điểm của Ricardo là mơ hình phát triển phải bắt đầu từ
khả năng xuất khẩu Công nghiệp để nhập khẩu lương thực , tuy nhiên hai quan
điểm này là thiếu thực tế trong điều kiện các nước đang phát triển ( thiếu nguồn
lực vốn đầu tư , lao động , kĩ năng quản lí và quan hệ quốc tế ).
Oshima : đầu tư phát triển nền kinh tế theo 3 giai đoạn với mục tiêu và nội
dung khác nhau .
Giai đoạn bắt đầu của quá trình tăng trưởng :
Tạo việc làm cho thời gian nhàn rỗi theo hướng tăng cường đầu tư phát
triển nông nghiệp . Phù hợp với khả năng vốn , trình độ kĩ thuật của nơng thơn
trong giai đoạn đầu .
Biện pháp :
- Đa dạng hố sản xuất nơng nghiệp , xen canh , tăng vụ trồng thêm rau
quả , cây lấy củ , mở rộng chăn nuôi , trông cây lâm nghiệp .


Hỗ trợ của nhà nước để nâng cao năng suất : hệ thống tưới , vận tải nông
thôn , giáo dục và điện khí hố nơng thơn .
Cải tiến các tổ chức : tổ chức dịch vụ, tổ chức tín dụng
Tăng xuất khẩu nông sản thu ngoại tệ ( nhập khẩu máy móc cho cơng
nghiệp nhiều lao động )
Kết thúc khi nơng nghiệp có qui mơ lớn .
* Giai đoạn hai:
Hướng tới việc làm đầy đủ bằng cách đầu tư phát triển đồng thời nông
nghiệp và công nghiệp ( theo chiều rộng )
Biện pháp :
-Tiếp tục đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp .
-Phát triển ngành công nghiệp chế biến nơng sản hàng hố .
-Phát triển ngành tiểu thủ cơng nghiệp (nông cụ cải tiến ).
-Phát triển ngành sản xuất phân bón , giống , các yếu tố đầu vào .

-Hoạt động đồng bộ từ sản xuất , vận chuyển ,bán hàng , tín dụng.
Phát triển nơng nghiệp tạo nhu cầu tăng qui mô công nghiệp và dịch vụ.
Kết thúc khi tăng trưởng việc làm nhanh hơn tăng trưởng lao động , tiền
lương thực tế tăng .
* Giai đoạn ba:
Phát triển kinh tế theo chiều sâu nhằm giảm cầu lao động
Cơng nghiệp trong nước bắt đầu vươn ra nước ngồi .
Dịch vụ phát triển phục vụ công nông nghiệp tăng mạnh làm thiếu lao
động .
Biện pháp:
-Nông nghiệp cần sủ dụng máy móc để thay thế lao động , áp dụng công
nghệ sinh học để tăng sản lượng ( Lewis model).
-Công nghiệp hướng xuất khẩu cũng chuyển dịch cơ cấu sản phẩm .
Kết thúc khi nền kinh tế đã phát triển đến giai đoạn cao nhất .


Oshima: tăng trưởng nhanh dẫn đến phân hoá xã hội và sự bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập .


1.4. Ý nghĩa chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đến phát triển kinh tế.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là bộ phận cấu thành rất quan
trọng của nền kinh tế quốc dân , có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển kinh
tế xã hội ở nước ta . Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là tổng thể của
kinh tế bao gồm mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất
thuộc khu vực kinh tế nông thôn trong những khoảng thời gian và điều kiện kinh
tế xã hội nhất định.
Sau khi nghị quyết 10 của Bộ chính trị và nhiều chính sách mới được ban
hành đã giải được những khả năng buộc phong kiến phi kinh tế trong nông
nghiệp và nông thôn , tạo cho nơng nghiệp đạt được những thành tựu to lớn góp

phần từng bước chuyển nền nông nghiệp tự cấp tự túc sang sản xuất hàng
hoá .Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp nói riêng và nơng thơn nói
chung đã và đang có sự khởi sắc , sản xuất phát triển đời sống nhân dân được cải
thiện . Mặt khác , việc chuyển dịch cơ cấu ngành , theo vùng , lãnh thổ , theo các
thành phần kinh tế , theo cơ cấu kĩ thuật công nghệ hường tới nền sản xuất hàng
hoá và đạt được nhiều tiến bộ đáng kể.
Thế nhưng trong phạm vi của từng vùng trong nước thì khơng hẳn thế. Do
có sự phát triển khơng đều giữa các vùng trong nước, q trình đó diễn ra ở các
vùng không giống nhau: ở vùng kinh tế phát triển, q trình đó diễn ra theo trình
tự chung cịn ở vùng kinh tế kém phát triển, q trình đó có thể bắt đầu từ việc
phá thế độc canh hố chuyển sang đa canh lúa, màu phát triển chăn nuôi và bước
tiếp theo là phát triển các ngành tiểu, thủ công nghiệp và dịch vụ. Xu hướng
chung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là: tỉ trọng
nông nghiệp ngày càng giảm và tỉ trọng các ngành công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng.
Bên cạnh đó, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp và nơng thơn cịn
phải có sự quan hệ rất nhiều tới các ngành khác như phát triển nơng nghiệp hàng
hố phải chịu sự tác động mạnh mẽ của Công nghiệp và nông nghiệp không thể


tự đi lên nếu khơng có sự tác động trực tiếp của một nền công nghiệp phát triển
và được các ngành nghề mới trong nông nghiệp.
Trong nông nghiệp và nông thôn, đi cùng với sự chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp và nông thôn là sự phân công lao động cũng được diễn ra . Từ lao động
trồng lúa chuyển sang lao động trồng hoa màu chăn nuôi , làm các ngành nghề
tiểu thủ cơng nghiệp và dịch vụ ,nó khơng chỉ phụ thuộc vào phục vụ cho cả nhu
cầu phát triển nơng nghiệp mà cịn phục vụ cho cả nhu cầu phát triển công
nghiệp , thương nghiệp và các ngành doanh nghiệp khác .
Từ thế kỉ 20 đã chứng minh và xác định khoa học kĩ thuật công nghệ phát
triển và đổi mới như vũ bão , tính cộng đồng trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm

ngày càng cao, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của 1 nước không thể tách rời với
sự phát triển kinh tế của cộng đồng quốc tế hay cũng như không tách rời sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn với cơ cấu kinh tế vùng và
cơ cấu kinh tế chung của cả nước.
Mặt khác, sự phân hoá giàu nghèo ở nông nghiệp và nông thôn không thể
tránh khỏi , nó diễn ra theo hướng : khi sản xuất hàng hố kém phát triển thì
khoảng cách đó tương đối dỗng ra , khi sản xuất hàng hố phát triển ở trình độ
cao thì khoảng cách đó thu hẹp lại và có thể trở lại khoảng cách ban đầu ( nhưng
ở trình độ cao hơn ). Điều đó chứng tỏ sự phân hoá giàu nghèo vừa là kết quả,
vừa là động lực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thêm vào đó, ở đâu có trình độ dân trí thấp thì ở đó việc xác lập và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đương nhiên là gặp nhiều khó khăn và khó tránh khỏi
sai lầm . Điều này cũng chứng tỏ rằng với trình độ dân trí hay mặt bằng trong
giáo dục có chịu sự ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp và nông thôn .


I)

Thực trạng về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp vùng đồng bằng sông
Cửu Long

2.1. Thực trạng về các ngành nông nghiệp ở vùng Đồng Bằng sông Cửu
Long
2.1.1. Sản lượng về ni trơng thuỷ sản :
*Diện tích mặt nước ni trồng thuỷ sản (nghìn ha)
2003
621,3

2004

658,5

2005
680,2

2006
691,2

2007
723,8

2008
752,2

2006
1166775

2007
1526557

2008
1838638

2007
309531

2008
307070

*Sản lượng thuỷ sản ni trồng: ( tấn )

2003
634798

2004
773293

2005
1002805

*Sản lượng tôm nuôi theo địa phương: (tấn)
2003
182221

2004
222643

2005
265761

2006
286837

2.1.2. Sản lượng 1 số ngành nông nghiệp nông thôn ĐBSCL:
* Số hợp tác xã :
2003
656

2004
698


2005
758

2006
567

2007
775

2008
753

2006
3773,9

2007
3683,1

2008
3858,9

* Diện tích lúa cả năm : (nghìn ha)
2003
2004
2005
3787,3
3815,7
3826,3
*Sản lượng lúa cả năm ( nghìn tấn):


2003
2004
2005
2006
2007
2008
17528
18567,2
19298,5
18229,2
18678,9
20681,6
2.2.Những kết quả đạt được và những hạn chế trong việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế vùng ĐBSCL
2.2.1.Những kết quả và thành tựu đạt được


Đối với gạo - một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực, với
phương châm “muốn đẩy mạnh xuất khẩu gạo trước hết phải có giống tốt”, trong
những năm gần đây, công nghệ hạt giống được quan tâm nghiên cứu và đã có
nhiều tiến bộ. Sản lượng và chất lượng gạo của Việt Nam, vì thế, đã có những
bước cải tiến đáng kể. Mặc dù diện tích gieo trồng lúa trong những năm gần đây
mỗi năm một giảm (trung bình mỗi năm giảm khoảng 40 ngàn - 50 ngàn ha) do
chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp và đất nông nghiệp được thu hồi để làm
đường, làm nhà... phục vụ công nghiệp, nhưng sản lượng lúa của Việt Nam vẫn
tiếp tục tăng đều qua từng năm, mỗi năm sản lượng lúa tăng trung bình 600 ngàn
- 700 ngàn tấn. Việc nghiên cứu tạo nhiều giống lúa lai ngắn ngày, phù hợp với
điều kiện đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã mang lại năng suất, chất
lượng cao. Chiến lược thành công nhất của ĐBSCL trong 20 năm qua là tạo
được giống lúa cực sớm nên đã “bội thu” nhờ diện tích lúa vụ hè - thu tăng lên

1,4 triệu - 1,5 triệu ha và năng suất tăng từ 2 tấn lên 10 tấn. Nơng nghiệp
ĐBSCL đã đóng góp 50% sản lượng cho an ninh lương thực quốc gia và chiếm
tới 80% sản lượng gạo phục vụ xuất khẩu.
Tiêu chí chất lượng gạo cũng ngày càng được chú trọng. Đây là một thành
công trong xuất khẩu gạo của năm 2007. Trước đây, mỗi tấn gạo xuất khẩu cùng
cấp hạng của Việt Nam thấp hơn Thái Lan 20 USD - 40 USD, làm thiệt cho
chúng ta khoảng 80 triệu USD, nhưng nay, nhờ áp dụng tiến bộ khoa học vào
chọn tạo giống, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long đã tạo ra được những giống
lúa chất lượng cao, giảm sự chênh lệch này xuống còn 2 USD - 5 USD, thậm chí
có thời điểm bằng 0. Điều này thể hiện những bước tiến vượt bậc trong công
nghệ hạt giống.
Gạo xuất khẩu của ĐBSCL chủ yếu là loại 15% - 25% tấm; loại 5% tấm
khơng nhiều và gạo thơm thì 2 năm 2006 - 2007 chỉ xuất vài trăm ngàn tấn. Tình
hình xuất khẩu tơm sú hiện đang khó khăn vì vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt
của con tôm thẻ chân trắng ở Trung Quốc và Ấn Độ.


Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của ĐBSCL năm 2008 đạt gần 2,5 tỷ USD,
chiếm hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của cả nước. Riêng mặt
hàng cá tra, cá ba sa đóng góp 2% GDP của cả nước và khoảng 32% tổng kim
ngạch xuất khẩu của ngành thuỷ sản.
Thời gian qua, nuôi tôm sú trở thành một trong những ngành chủ lực, góp
phần đáng kể trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ĐBSCL nhưng cũng
đã gây ô nhiễm môi trường cục bộ tại các vùng ni, gây bất lợi cho hệ sinh thái
nước lợ. Tình trạng buông lỏng quản lý con giống tại ĐBSCL dẫn đến nhiều đàn
tơm sú giống kém chất lượng, thậm chí nhiễm bệnh đã được nhập vào đây, dẫn
đến hàng trăm ngàn ha ni khơng hiệu quả. Trong năm 2008 có 148.000 ha
tôm tại đây bị chết, tập trung tại Cà Mau với 57.789 ha, Kiên Giang 40.000 ha,
Sóc Trăng 28.000 ha, Bạc Liêu 19.000 ha. Tỉ lệ tôm chết từ 20 – 75% làm người
nuôi thiệt hại 165 tỉ đồng. Chỉ có khoảng 45% số hộ ni tơm sú ở ĐBSCL có

lãi. Số cịn lại hịa vốn hoặc lỗ.
Sức mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở ĐBSCL đã đem lại “luồng
gió mới” cho nghề ni thủy sản. Nhiều người nuôi tôm sú, cá tra, cá ba sa giàu
lên nhanh chóng. Nhưng, người giàu nhờ ni tơm sú, cá tra, cá ba sa đa phần là
các “đại gia”. Họ không phải là nông dân mà là doanh nghiệp, có vốn, biết áp
dụng khoa học kỹ thuật.
Theo Cục Ni trồng Thủy sản (Bộ Nông nghiệp & PTNT), năm 2009,
các tỉnh Đồng bằng sơng Cửu Long (ĐBSCL) đưa diện tích nuôi tôm sú lên
566.000, tăng 27.000 ha so năm 2008, tập trung tại các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu,
Sóc Trăng, Kiên Giang, Trà Vinh, Bến Tre .
Để bảo đảm thắng lợi, các tỉnh qui hoạch phát triển các vùng nuôi phù hợp
với mơi trường; hồn thiện thêm một bước hệ thống thủy lợi phục vụ ni thủy
sản nói chung và tơm sú nói riêng; tăng cường lành mạnh hóa mơi trường nước
bằng các biện pháp kiểm soát chất thải, kiểm tra, xử lý nghiêm các cơ sở, cá
nhân gây ô nhiễm mơi trường; siết chặt việc quản lý, kiểm sốt con giống, hạn
chế đến mức thấp nhất tình trạng đưa tôm giống kém chất lượng vào nuôi; phổ


biến rộng hơn kỹ thuật nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến, thâm canh đến tận
cơ sở. Đặc biệt khuyến khích nơng dân mở rộng áp dụng mơ hình “ni tơm
cộng đồng”.(Tất cả các thành viên trong tổ, nhóm ni cùng thả một loại tôm
giống, ngày thả, vệ sinh ao nuôi... nên hạn chế được dịch bênh. Nếu dịch bệnh
xảy ra thì cộng đồng thơng tin cho nhau để cùng thống nhất cách phịng trừ kịp
thời...) và mơ hình “ni tôm sinh thái”. (Không thả tôm giống mật độ dày mà
áp dụng như mơ hình tơm lúa (2,5con/m2/vụ); sử dụng thức ăn tự nhiên; sử
dụng ít phân hữu cơ để tạo màu trong nước nên không làm ô nhiễm môi trường,
do đó, khơng cần xử lý nước thải. Chi phí rất thấp nhưng năng suất ổn định
200kg/ha).
2.2.2.Những hạn chế, thách thức và nguyên nhân
Diện tích lúa canh tác mỗi năm mỗi giảm, trong khi năng suất lao động

nông nghiệp rất thấp, cơ cấu kinh tế nơng thơn ít thay đổi. Nơng nghiệp chiếm
68% tỷ trọng kinh tế nơng thơn, đóng góp 79% cơ cấu kinh tế hộ nơng dân,
trong đó trồng trọt chiếm 50%. Quá trình chuyển lao động ra khỏi nơng nghiệp,
nơng thơn ở Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng diễn ra rất chậm. Mức
đầu tư cho nông nghiệp hằng năm đạt chưa tới 10% ngân sách nhà nước.
Đời sống của người nông dân tuy được cải thiện nhưng vẫn còn nghèo.
Dù chúng ta đã đạt được nhiều thành quả về xuất khẩu lúa gạo, nhưng nông
dân trồng lúa vẫn là những người nghèo cả về đời sống vật chất lẫn đời sống
tinh thần. Mặc dù sản lượng lương thực mỗi năm lại tăng hơn một triệu tấn,
nhưng thu nhập của người trồng lúa thì vẫn chưa được cải thiện bao nhiêu.
Năm 2005, mức tiêu dùng của người phi nông nghiệp so với của nông dân cách
nhau 2,6 lần.
Vệ sinh an toàn thực phẩm xuất khẩu dù đã được kiểm sốt nhưng vẫn
cịn trong tình trạng bơm tạp chất (như rau câu) vào tôm xuất khẩu. Việc sử
dụng thuốc kháng sinh, hóa chất trong ni tơm cá vẫn còn ở mức báo động.
Bằng chứng là gần đây nhiều lô hàng tôm xuất khẩu bị trả lại. Tôm, cá ở



×