TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN
***********
ĐỀ ÁN MÔN HỌC:
Đề tài:
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP VÙNG ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
Họ và tên : Dương Hoàng Dũng
Lớp : Kinh tế phát triển 48a
Mã SV : CQ480442
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Bùi Đức Tuân
Hà Nội: 11/2009
I. Cơ sở lí luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
1.1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế :
Trong 3 tiêu thức đánh giá phát triển, cơ cấu kinh tế được xem như là tiêu
thức phản ánh sự thay đổi về chất , là dấu hiệu đánh giá ,so sánh các giai đoạn
phát triển của nền kinh tế . Cơ cấu kinh tế biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau
như : cơ cấu ngành kinh tế , cơ cấu vùng kinh tế , cơ cấu thành phần kinh tế , cơ
cấu khu vực thể chế v.v …. Trong đó, cơ cấu ngành là quan trọng nhất vì nó
phản ánh sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực
lượng sản xuất . Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành chính là 1 nội dung quan
trọng của quán trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
1.1.1. Cơ cấu ngành kinh tế:
Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống : cơ cấu ngành của 1 nền kinh tế là
tập hợp tất cả các ngành hình thành nên nền kinh tế và các mối quan hệ tương
đối ổn định giữa chúng.
Có nhiều cách phân loại ngành khác nhau khi nghiên cứu về chuyển dịch
cơ cấu ngành . Song cho đến nay chính thức tồn tại 2 hệ thống phân ngành kinh
tế : phân ngành kinh tế theo hệ thống sản xuất vật chất (MPS) và phân ngành
theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA)
Theo hệ thống sản xuất vật chất , các ngành kinh tế được phân thành 2
khu vực : sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất .Khu vực sản xuất vật
chất và không sản xuất vật chất được phân thành các ngành cấp I như: Công
nghiệp , Nông nghiệp ..Các ngành cấp I lại được phân thành các ngành cấp II,
chẳng hạn ngành công nghiệp lại bao gồm các ngành sản phẩm như: điện năng ,
nhiên liệu .. Đặc biệt trong các ngành công nghiệp người ta còn phân ra thành
nhóm A và nhóm B.
Nguyên tắc phân ngành xuất phát từ tính chất phân công lao động xã hội ,
biểu hiện cụ thể qua sự khác nhau về quy trình công nghệ của các ngành trong
quá trình tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ . Các ngành kinh tế được phân
thành 3 khu vực hay gọi là 3 ngành gộp: khu vực I bao gồm các ngành nông –
1
lâm- ngư nghiệp ; khu vực II là các ngành công nghiệp và xấy dựng ; khu vực III
gồm các ngành Dịch vụ .
Theo hệ thống tài khoản quốc gia,các ngành kinh tế được phân thành 3
nhóm ngành lớn là nông nghiệp, công nghiệp , xây dựng và dịch vụ. Ba ngành
gộp này bao gồm 20 ngành cấp I như: nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản, khai
mỏ khai khoáng,…Các ngành cấp I lại được phân nhỏ thành các ngành cấp II.
Các ngành cấp II lại được phân nhỏ thành các ngành sản phẩm.
Có nhiều mức phân ngành khác nhau , tuỳ theo mức độ gộp hay chi tiết
hoá đến chừng nào đó mà có được tập hợp các ngành tương ứng .
Với một cách phân ngành hợp lí và một giá trị đại lượng được chọn thống
nhất có thể xác định được các chỉ tiêu định lượng phản ánh một mặt cơ cấu
ngành ,đó là tỉ trọng các ngành so với tổng thể các ngành của nền kinh tế . Loại
chỉ tiêu định lượng thứ nhất này được sử dụng để nghiên cứu liên quan đến phát
triển cơ cấu ngành của nền kinh tế . Chỉ tiêu định lượng thứ hai có thể mô tả
được phần nào mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành kinh tế , đó chính là
các hệ số trong bảng cân đối liên ngành ( hệ MPS) hay bản I/O của hệ thống
SNA.
Cơ cấu ngành kinh tế thể hiện ở mối quan hệ tương hỗ giữa các ngành với
nhau . Mối quan hệ này bao gồm cả mặt số và chất lượng . Mặt số lượng thể
hiện ở tỉ trọng ( tính theo GDP, lao động , vốn). Số liệu thống kê của Ngân hàng
thế giới (WB) chỉ rõ sự khác nhau về cơ cấu ngành giữa các nhóm nước có trình
độ phát triển kinh tế khác nhau. Các nước kinh tế phát triển thường có tỉ trọng
dịch vụ rất lớn. Ngược lại, các nước đang phát triển có nền kinh tế chủ yếu dựa
vào nông nghiệp thì phần đóng góp của dịch vụ trong cơ cấu GDP thường từ 20-
30% .Khía cạnh chất lượng phản ánh vị trí , tầm quan trọng của từng ngành và
tính chất của sự tác động qua lại giữa các ngành với nhau. Sự tác động qua lại
giữa các ngành có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Tác động trực tiếp bao gồm tác
động cùng chiều hoặc ngược chiều , còn mối quan hệ gián tiếp được thể hiện
theo các cấp 1 ,2,3 v.v….Nói chung mối quan hệ của các ngành cả số và chất
2
lượng đều thường xuyên biến đổi và ngày càng trở nên phức tạp hơn theo sự
phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội trong nước và
quốc tế . .
Xu thế chung khi chuyển từ một nền kinh tế kém phát triển sang một nền
kinh tế phát triển là giảm nhanh tỉ trọng nông nghiệp cả trong cơ cấu lao động
lẫn cơ cấu GDP, đồng thời tăng tương ứng trong cơ cấu GDP và lao động của
khu vực công nghiệp ở giai đoạn đầu và tăng cơ cấu lao động, cơ cấu GDP của
khu vực dịch vụ ở giai đoạn sau.
1.1.2 Cơ cấu trong nội bộ ngành kinh tế:
Cơ cấu trong nội bộ ngành kinh tế là tỉ trong các ngành cấp II trong các
ngành công nghiệp nông nghiệp , dịch vụ mà chủ yếu là tỉ trọng trong tổng sản
lượng của ngành , VD trong Công nghiệp thì tỉ trọng nhũng ngành dệt may, da
giầy, cơ khí , đóng tàu v.v… trong ngành Nông nghiệp là ngành trông cây lương
thực , trồng lúa , chăn nuôi thâm canh tăng vụ .Mỗi ngành đều có đặc thù riêng
tuy vậy cơ cấu trong nội bộ ngành kinh tế là rất liên quan mật thiết với nhau ,có
tác động tương hỗ với nhau và thể hiện thế mạnh của từng vùng kinh tế trọng
điểm .
1.2. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế:
1.2.1 Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế:
Cơ cấu kinh tế là một phạm trù rộng , nó luôn luôn thay đổi theo từng thời
kì phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu không cố định . Quá trình thay đổi
của cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện
hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát triển gọi là sự chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu ngành là quá trình phát triển của các ngành kinh tế
dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi quan hệ tương
quan giữa chúng so với một thời điểm trước đấy .
3
Theo định nghĩa này , điều chỉnh cơ cấu ngành chỉ diễn ra sau một khoảng
thời gian nhất định vì nó là một quá trình và sự phát triển của các ngành phải
dẫn đến sự thay đổi mối quan hệ tương đối ổn định vốn có của chúng ( ở thời
điểm trước đó ). Trên thực tế , sự thay đổi này là kết quả của quá trình :
Xuất hiện thêm một số ngành mới hay mất đi một số ngành đã có , tức là có
sự thay đổi về số lượng cũng như loại ngành trong nền kinh tế .
Tăng trưởng về qui mô với nhịp độ khác nhau của các ngành dẫn đến thay
đổi cơ cấu . Trong trường hợp này sự điều chỉnh cơ cấu ngành là kết quả của sự
phát triển không đồng đều của các ngành sau mỗi giai đoạn .
Chỉ tiêu xác định tốc độ biến đổi tương quan giữa các ngành kinh tế
thường dùng là nhịp độ tăng trưởng ngành :
Thay đổi trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành . Sự thay đổi
này trước hết biểu thị bằng số ngành có liên quan . Mức độ tác động qua lại của
ngành này với các ngành khác qua qui mô đầu vào mà nó cung cấp cho các
ngành hay nhận từ các ngành đó .
Sự tăng trưởng của các ngành dẫn đến sự thay đổi cơ cấu ngành trong mỗi
nền kinh tế . Cho nên , chuyển dịch cơ cấu ngành xảy ra như là kết quả của quá
trình phát triển . Đó là qui luật tất yếu từ xưa đến nay trong hầu hết mọi nền kinh
tế . Vấn đề đáng quan tâm là ở chỗ : sự chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra theo
xu hướng nào , tốc độ nhanh chậm ra sao , có những qui luật gì ?
Có rất nhiều nền kinh tế đã đạt được thành công trong sự phát triển nhờ
vào quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành đặc thù phù hợp với điều kiện cụ thể .
Việc tìm ra một xu hướng hay giải pháp cho chuyển dịch cơ cấu ngành của Việt
Nam không đơn thuần là áp dụng kinh nghiệm có được mà là sự phát triển đặc
thù của đất nước , của môi trường trong nước và thế giới hiện nay để làm thích
ứng những bài học đã có cho hoàn cảnh Việt Nam .
1.2.2 Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành kinh tế:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành là tăng tỉ trọng vốn đầu tư ,
thay đổi về đóng góp của các ngành cấp II trong nội bộ ngành kinh tế ,về tỉ trọng
4
ngành đó trong tổng sán lượng toàn ngành , ngành nào có khả năng tác động vào
sản lượng chung toàn ngành cao , đóng hóp vào điểm % thay đổi của tổng sản
phẩm cao thì nên gia tăng dung lượng vốn đầu tư và các chính sách ưu đãi cho
những ngành đó. Tập trung vao những ngành phù hợp với địa hình địa chất , khí
hậu , con người, đặc điểm sản xuất để có kế hoạch chuyển dịch cơ cấu trong nội
bộ ngành phù hợp .
1.3. Các mô hình về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
1.3.1 Mô hình 2 khu vực của Lewis:
A.Lewis là nhà kinh tế người Mỹ gốc Jamaica và , trong tác phẩm “ Lí
thuyết về phát triển kinh tế “ đã đưa ra các giải thích về mối quan hệ giữa nông
nghiệp và công nghiệp trong quá trình tăng trưởng, gọi là “Mô hình hai khu vực
cổ điển “. Đặc trưng chủ yếu của mô hình hai khu vực cổ điển là phân chia nền
kinh tế thành hai khu vực công nghiệp và nông nghiệp và nghiên cứu quá trình
di chuyển lao động giữa hai khu vực.
Sự phát triển công nghiệp quyết định tăng trưởng kinh tế phụ thuộc khả
năng thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp , phụ thuộc vào tích luỹ vốn. Mô
hình Lewis trên một mức độ nhất định còn giải thích nguồn gốc của những hậu
quả xã hội, sự phân hoá giàu nghèo trong quá trình tăng trưởng kinh tế .
Cơ sở nghiên cứu của mô hinh Lewis là từ Ricardo. Trong nghiên cứu của
mình , Ricardo đã đưa ra hai vấn đề : một là , khu vực nông nghiệp có lợi nhuận
biên giảm dần theo qui mô và tiến tới bằng không ( nguyên nhân của hiện tượng
này là do qui mô sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng lên đòi hỏi phải sử dụng
đất đai ngày càng xấu hơn , dẫn đến chi phí sản xuất tăng dần khi sản xuất một
tấn lương thực , với mức tăng cho trước ở đầu vào dẫn đến các mức tăng liên tục
nhỏ hơn ở đầu ra .Ông cho rằng lao động dư thừa ở nông thôn về hình thức khác
với lao động dư thừa ở thành thị . Ở thành thị , lao động được coi là dư thừa khi
họ có khả năng lao động , có mong muốn làm việc nhưng không thể tìm được
việc làm . Còn ở nông thôn thì không phải như vậy , hiện tượng phổ biến ở đây
là mọi người đều có việc làm nhưng với năng suất lao động ngày càng thấp , các
5
thành viên trong gia đình phải chia việc ra để làm . Sản phẩm biên của lao động
giảm dần và tiến tới bằng không . Hiện nay các nhà kinh tế gọi là thất nghiệp trá
hình ( vô hình hoặc bán thất nghiệp).
Do đó khu vực nông nghiệp mang tính trì trệ tuyệt đối , cần phải giảm dần
qui mô và tỉ trọng đầu tư . Cần xây dựng công nghiệp để thu hút lao động
Tpm3(K3)
TPM2(K2)
TPM1(K1)
TPA
A1
A2
A3
TPM1
LA
LA1
LA2
TPM3
TPM2
M1
M2
M3
0
0
LM1 LM2 LM3
TPM
LM
6
Hàm sản xuất với các yếu tố L, K,T
Sản phẩm biên nông nghiệp giảm dần và =0 ( khai thác hết đất và lao
động tiếp tục đưa vào )
Nguyên tắc là tiền lương bằng với sản phẩm biên. Khi sản phẩm biên
bằng 0 thì tiền lương bằng sản phẩm trung bình.
Trong điều kiện dư thừa lao động thì tiền lương trong nông nghiệp chỉ ở
mức tối thiểu
Khu vực công nghiệp trả cao hơn 30% để thu hút lao động
Hết lao động dư thừa thì tiền lương mới tăng ( đường cung lao động dốc
lên )
Khi lao động vẫn còn thừa , đường cầu lao động càng lớn thì lợi nhuận
cho nhà tư bản càng lớn ; cơ sở của sự tích luỹ và phân hoá xã hội
Khi hết dư thừa , tiền lương tăng làm lợi nhuận công nghiệp giảm , bất
binhg đẳng giảm
Cần đầu tư lại vào nông nghiệp để giảm cầu lao động ở khu vực nông
nghiệp
Tóm lại : Mô hình Lewis giải quyết mối quan hệ giữa hai khu vực trong
qua trình tăng trưởng . Khi nông nghiệp có dư thừa lao động thì tăng trưởng
kinh tế được quyết định bởi khả năng tích luỹ và đầu tư của khu vực Công
ADL,MDL
MDL
ADL
A
LA2
WM
WM1
WM
D1
D2
D3
D4
D5
E1
E2 E3 E4
E5
SLM
LM1 LM2 LM3 LM4 LMLA
O
O
7
nghiệp .Chỉ ra được những hệ quả về mặt xã hội , lí giải được mối quan hệ giữa
tăng trưởng và bất bình đẳng xã hội trong mô hình chữ U ngược (Kuznet)
Tuy nhiên còn một vài giả định không thực tế :
-Tỉ lệ lao động thu hút sang khu vực công nghiệp tương ứng với tỉ lệ vốn
tích luỹ ở khu vực này ( thâm dụng vốn hoặc đầu tư nơi khác ).
Thành thị không có thất nghiệp.
Nông thôn có thể giải quyết được việc làm mà không cần phải chuyển ra
thành phố .
Tiền lương công nghiệp không tăng ( thực tế vẫn tăng do nhu cầu về lao
động tay nghề và công đoàn ).
1.3.2 Mô hình 2 khu vực của trường phái tân cổ điển:
Một trong những điểm mới trong tư tưởng nghiên cứu của các nhà kinh tế
của trường phái tân cổ điển là đặt khoa học công nghệ ( T là một yếu tố trực tiếp
và mang tính quyết định đến tăng trưởng kinh tế .
Khu vực nông nghiệp :
Con người có thể cải tạo và nâng cao chất lượng ruộng đất . Với lập luận
đó , đường biểu diễn hàm sản xuất trong nông nghiệp với yếu tố lao động biến
đổi TPA=F(LA) của trường phái tân cổ điển sẽ luôn có xu thế dốc lên , thể hiện ở
sơ đồ sau:
TPA
TPA=f(LA)
LA
8
Đường hàm sản xuất trong nông nghiệp tân cổ điển
Qua sơ đồ ta thấy mặc dù đường biểu diễn hàm sản xuất trong nông
nghiệp không có phần nằm ngang nhưng độ dốc cũng có xu thế giảm dần , tức là
với một số lượng lao động tăng lên bằng nhau , càng về sau thì mức tăng lên của
tổng sản phẩm ngày càng giảm đi . Biểu hiện trì trệ này được giải thích bởi qui
luật lợi nhuận biên giảm dần theo qui mô, cho dù có sự tác động của khoa học
công nghệ nhưng đất đai trong nông nghiệp vẫn có dấu hiệu giảm đi về số và
chất lượng , nên sản phẩm biên của lao động không bằng không nhưng có chiều
hướng giảm dần . Sản phẩm biên trong nông nghiệp luôn dương nên tiền công
được trả theo mức lao động cận biên . Đường cung lao động trong nông nghiệp
vì thế không có đoạn nằm ngang ( hơi dốc lên ) .Tân cổ điển coi công nghệ (T)
là yếu tố trực tiếp quyết định tăng trưởng
Đường cung lao động nông nghiệp
* Khu vực công nghiệp :
Sản phẩm biên của lao động khu vực nông nghiệp luôn dương , khi
chuyển dịch lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp sẽ làm tăng liên tục sản
phẩm cận biên của lao động còn lại trong nông nghiệp , cho nên khu vực công
nghiệp phải trả mức tiền công ngày càng cao hơn cho số người lao động chuyển
LA
W
SLA
9