Tải bản đầy đủ (.pdf) (830 trang)

Dược học cổ truyền toàn tập (tái bản lần 2 - 2017)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.61 MB, 830 trang )

GS.BS TRẦN VĂN KỲ

DU0C HỌC CƠ’TRUN
TỒNTẬP
(Tải bản lần thứ II)

NHÀ XUẤT BẲN ĐÀ NẤNG



LỜI NÓI ĐẦU
Sách DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN được xuất bản tồn
tập lần đầu. Nội dung sách gồm 2 phần chính:






- PHAN I: Giới thiệu đại cương về thuốc Y học cổ
truyền bao gồm: tên gọi, cách phân loại, đặc điểm và tính
chất của thuốc, cách phối ngủ, những cấm kỵ trong dùng
thuốc, liều lượng và các dạng thuốc thường dùng trên lâm
sàng.

- PHÂN II: Giơỉ thiệu hơn 250 vị thuốc thường
dùng. Đối với mỗi vị thuốc đều có giới thiệu tính vị qui kinh
của thuốc, tác dụng dược lý theo y lý C'Ổ truyền (có phần trích
dẫn theo Y văn cổ để tham khảo), kết quả nghiến cứu theo
dược lý hiện đại, phần ứng dụng lâm sàng theo các tài liệu
trong, ngoài nước và kinh nghiệm điều trị của tác giả, liều


dùng và chú ý.

Hy vọng cuốn sách sẽ cung cấp cho bạn đọc những tư
liệu bổ ích trong cơng việc thừa kế học tập, nghiên cứu, phát
huy phát triển Y học cổ truyền ở thời đại ngày nay.

Trong biền soạn tuy đã có nhiều cố gắng nhưng khó
tránh khỏi có mặt chứa đầy đủ, rất mong được nhiều bạn
đọc góp ỷ bổ sung để cuốn sách ngày càng hồn hảo.
Tác giả xin chân thành cám cm Nhà Xuất Bản và Nhà
sách Quang Bình đã tận tỉnh giúp đỡ để cuốn sách sớm ra
mắt bạn đọc.
Tác giả

GS.BS. TRẦN VĂN KỲ



.

__ .____ ________ AZ

_ ____ _

A**

AA. _

Phân một: ĐẠI CƯƠNG THUỐC Y HỌC cỗ TRUYỀN
Chương I

THUỐC Y HỌC CỔ TRUYỀN: TÊN GỌI VÀ CÁCH PHÂN LOẠI

A. TÊN GỌI CỦA THUỐC Y HỌC cổ TRUYEN:
Tên gọi của thuốc thường căn cứ vào các mặt sau đây:
1. Theo hình thái của thuốc: rất nhiều loại thuốc được đặt tên
theo hình thái như: Nhũ hương vì các giọt nhựa cây chảy ra hình
thành dạng như núm vú và mùi thơm, Ngưu tất do các đốt thân
cây phình ra như đầu gối con bị, Bối mẫu hình dạng như cái lưng,
Băng phiến là nhựa kết tinh của Long não trắng như băng, Câu
đằng do dây có gai như móc câu...
2. Theo màu sắc: màu đỏ có Hồng hoa, Xích thược, Đơn sâm,
Chu sa, màu vàng có Hồng cầm, Hồng kỳ, Hồng bá, Kim anh
tử, màu trắng có Bạch Truật, Bạch thược, Bạch chỉ, màu xanh như
Thanh bì, Thanh đại, Thanh hao, Đại thanh diệp, màu lục có Lục
đậụt lục phàn, màu đen có Huyền sâm, Hắc chi ma, Hắc đại đậu,
'Hắc-thăng ma, màu tím có Tử thảo, Tử sâm...
:■
3. Theo khí vị: như Xạ Hương (mùi thơm bay xa) Ngư tinh
thảo (mùi tanh như cá), những vị có hương thơm như Đinh hương,
Mộc hương, Giáng hương, Hoắc hương, vị ngọt như Cam thảo, Cam
cúc, vị đắng như Khổ hạnh nhân, Khổ ặâm, Khổ qua... cay như
Tế tân, Tân di, nhạt (đạm) như Đạm đậu xi, Đạm trúc diệp...,
có vi thuốc tên cây thuốc như Đạm trúc diệp..., có vị thuốc tên
Ngũ vị tử vì bản thân cây thuốc có 5 vị: vỏ chua, ngọt, hạt thì
cay đắng mặn
4. Theo địa danh: thường lấy tên nơi sản xuất ra loại thuốc
5


đó (thường nơi sản xuất ra loại thuốc tốt) như thuốc sản xuất tại

tỉnh Tứ Xuyên gọi là Xuyên khung, Xuyên ô, Xuyên luyện tử,
Xuyên bối, Xuyên tiêu, Xuyên đoạn, thuốc sản xuất tại phủ Hồi
Khánh tỉnh Hà Nam thì gọi là Hoài sơn, Hoài địa hoàng, Hoài
Ngưu tất, Hoài Cúc Hoa... sản xuất tại Quảng Đơng thì gọi là
Quảng Mộc hương, Quảng tê giác, sản xuất ở Triết Giang, Hàng
châu thì gọi là Triết bối, Hàng bạch chỉ, Hàng cúc hoa, Hàng bạch
thược, ở Vân Nam thì gọi là Vân phục linh...
5. Theo đặc điểm sinh trưởng của thuốc: Ví dụ Hạ khơ thảo
(khơ về mùa hạ) Mạch đơng, Đông thanh (mùa đông vẫn xanh
tươi) Khoản đông hoa (ra hoa về mùa đông) Tang ký sinh (cây
thuốc mọc bám vào cây dâu) Thạch vĩ (cây mọc trên đá).

6. Theo tên bộ phận dùng làm thuốc: như dùng rễ có Cát căn,
Lơ căn, Ma hồng căn, Bản lam căn, thứ dùng cành làm thuốc
thì'CĨ: Tơ ngạnh, Hoắc hương ngạnh, Quế chi, Tang chi, loại dùng
lá có Tơ diệp, Ngãi diệp, Trắc bá điệp... dùng hoa có Hồng hoa,
Cúc hoa, Kim ngân hoa... dùng quả có Bạch quả, La hán quả hoặc
La bạc tử (hạt củ cải.. Hạnh nhân, Đào nhân, Bá tử nhân, về động
vật có Lộc nhung, Lộc giác, Tê giác, Quảng tê giác, Thuyền thối,
HỔ cốt, Kê-nội kim, Qui bản, Miết giáp..
■ -J:
7. Theo tác dụng của thuốc: như Phịng phong, ích mẫu thảo,
Cốt tối bổ (làm lành xương gãy)...

8. Theo tên người tìm ra vị thuốc : như Đỗ trọng (do ông Đỗ
Trọng đã từng uống vị thuốc thấy người khỏe ra.

9. Theo cách bào chế: như Chích cam thảo, Diêm tri mẫu, Bào
khương, Thục địa hồng, Khương bán hạ, sao bạch truật, tửu quân
(Đại hoàng sao rượu)...


10. Các cách gọi tên khác: như theo thời gian tàng trữ thuốc:
thuốc để lâu gọi là Trần bì (vỏ quít lâu nám) Trần mễ (gạo lâu
năm) gọi là theo mùa thu hái như xuân Sài hồ, Đông tang diệp
(lá dâu hái về mùa đông) theo chiêt tự chữ Hán như Bằng sa (cũng
gọi là Nguyệt thạch (trong chữ Bằng có 2 chữ nguyệt và chữ thạch)
Tín thạch cịn gọi là Nhân ngơn (vì chữ tín có chữ nhân và chữ
ngơn) Khiên ngưu tử có 2 loại gọi là Hắc sửu và Bạch sửu (vì sửu
trong 12. chi là thuộc con trâu (ngưu)...
6


B. CÁCH PHÂN LOẠI THUÓC Y HỌC cổ TRUYEN:
1. Phân loại theo tác dụng và độc tính của thuốc là cách phân
loại đầu tiên của sách “Thần Nông bản thảo kinh”. Sách này chia
thuốc làm 3 loại: (1) Thuốc thượng phẩm: là loại thuốc có tác dụng
bổ dưỡng, khơng có độc gồm 120 vị như Nhân sâm, Cam thảo,
Địa hoàng, Thạch hộc, Ba kích thiên, Hồng kỳ, Câu kỷ, A giao...

(2) Thuốc trung phẩm: là loại thuốc vừa có tác dụng bổ hư và
trị bệnh, có độc hoặc khơng độc gồm 120 loại như: can khương,
Ma hoàng, Đương qui, Thược dược, Ngô thù, Hậu phác, Miết giáp...
(3) Thuốc hạ phẩm: chun trị, bệnh, phần lớn có độc, khơng
được uống lâu gồm 125 loại như Phụ tử, bán hạ, Đại hoàng, cam
toại, Lang độc, Ba đậu... Đây là cách phân loại sớm nhất mà các
sách thuốc sau này như sách “Bản thảo kinh tập chú”, Tân tu bản
thảo, “Chứng loại bản thảo đều phân loại theo cách này.
2. Phân loại theo thuộc tính thiên nhiên: như phân theo loại
cỏ hoang, loại dây leo, loại ngũ cốc, loại rau, quả, cây, côn trùng,
loại cá, loại chim, loại gia súc, loại thú rừng, các thứ nước, các

loại đất, loại đá, muối khoáng, thuộc về người... Nhiều sách đã
theo cách này như sách Bản thảo kinh tập chú, Tân tu bản thảo,
Loại chứng bản thảo, Bản thảo cương mục, Lĩnh Nam bản thảo
(Hải Thượng Lãn Ông)...
3. Phân theo tạng phủ, kinh lạc: như các sách “Tạng phủ tiêu
bản dược thức” (Trương nguyên Tố) lấy tạng phủ làm cương lĩnh
và bệnh lý làm mục (sắp xếp thuốc theo bệnh lý). Sách “Bản thảo
phân kinh thì lấy kinh lạc làm cương, lấy dược phẩm làm mục,
mỗi mục lại chia ra các loại: bổ, hịa, cơng, tán, hàn, nhiệt. Sách
“Dược phẩm vậng yếu” của Hải Thượng lãn ông chia theo Bộ như:
Bô hỏa gồm: nhục quế, Phụ tử, ơ đầu, Viễn chí, Đinh hương, Xạ
hương, Một dược, Hồng hoa, Hồng liên, Hồng cầm, Đăng tâm...
bộ mộc có: Đương qui, Tần giao, Câu đằng, Kinh giới, Bạc hà, Trúc
nhự, Tế tân, Thiên ma... bộ thổ có: Bạch truật, Bạch linh, Cam
thảo, Sơn dược, Liên nhục, Đại táo, Sinh khương, ích trí nhân,
Hậu phác, Bán hạ, Cốc nha, Mạch nha, Long nhãn, Biển đậu,
Thương truật... Bộ Kim có: Nhân sâm, Hồng kỳ, Sa xâm, Mạch
mơn, Ngũ vị tử, Tử uyển, Tang bạch bì, Mộc hương, Trầm hương,
Hương phụ, Chỉ xác, Chỉ thực, Trần bì, Hạnh nhân, Thạch xương

7


bồ... bộ Thuỷ có: Sinh địa, Thục địa, Lộc nhung, Hà thủ ô, Sơn
thu, Cau kỷ, Thỏ ti, Ngưu tất, Đỗ trọng, Tục đoạn, A giao, Huyền
sâm, Hoàng bá...
4. Phân loại theo tác dụng của thuốc theo dược lý cổ truyền:
như thuốc giải biểu có Ma hồng, Q chi, Tơ điệp, sinh Khương,
Kinh giới, Phòng phong, Khương hoạt... là thuốc giải cảm phong
hàn có Bạc hà, Thuyền thối, Đạm đậu xị, Tang điệp, Cúc hoa, Cát

căn, Màn kinh tử, Sài hồ, Thăng ma, Phù bình... là thuốc giải
cảm phong nhiêt, thuôc thanh nhiẹt co: Thạch cao, Tri mau, Lo
căn, Thiên hoa phấn, Trúc điệp, Chi tử, Hạ khô thảo, Hàn thuỷ
thạch, Tây qua... (Thanh nhiệt tả hỏa), Hoàng liên, Hoàng bá,
Hoàng cầm, Khổ sâm, Long dam thao... (la thuoc thanh nhiet tao
thấp), Tê giác, Sinh địa, Huyền sâm, Mẫu đơn bì, Xích thược,...
(thanh nhiệt lương huyết), Kim ngân hoa, Liên kiều, Bồ công anh,
Xuyên tâm liên, Thanh đại, Thổ phục linh, Ngư tinh thảo... (Thuốc
thanh nhiệt giải độc), Thanh hao, Địa cốt bì, Ngân sài hồ, Hồ
hồng liên,... (thanh hư nhiệt), Thuốc tả hạ có Đại hồng, Mang
tiêu, Lơ hội, Ba đậu... (công hạ) Hỏa ma nhân, uất lý nhân
(nhuận hạ) Thuốc trừ phong thấp như Khương hoạt, Uy linh tiên,
Phịng ký, Tần giao, Mộc qua, Ngũ gia bì,... thuốc phương hương
hóa thấp như Thương truật, Hậu phác, Hoắc hương, Bội lan, Sa
nhân, Bạch đậu khấu, Thảo quả,... Thuốc lợi thấp như Phục linh,
Trư linh trạch tả, Ý dĩ, Xa tiền tử, Hoạt thạch, Đăng tâm, Đơng
qua bì, Ngọc mễ tu (râu bắp), thuốc ôn lý như Phụ tử, o đâu, Nhục
quế, Can khương, Ngô thù, Tế tân..., Thuốc tiêu thực như Sơn tra,
Mạch nha, Thần khúc, La bặc tử, Kê nội kim., thuốc lý khí như
Quất hạch, Thanh bì, Chỉ thực, Chỉ xác, Mộc hương, Ô dược, Hương
phụ, Lệ chi hạch... thuốc trục trùng: Sử quân tử, Nam qua tử, Binh
lang, Lơi hồn, Qn chúng... Thuốc cầm máu (chỉ huyết) có Đại
kế, Tiểu kế, Địa du, Bạch mao căn, Bạch cập, Ngãi diệp, Bồ hoàng,
thuốc hoạt huyết như Đơn sâm, Nhũ hương, Một dược, Ngưu tất,
Ngũ linh chi, ích mẫu thảo, Xuyên sơn giáp, Thủy diệt, Tam lăng,
Nga truật, Vương bất lưư hành... thuốc chỉ khái hóa đờm như Bán
hạ, Nam tinh, Qua lâu, Bối mẫu, Trúc nhự, Trúc lịch, Hải tảo,
Cơn bố, Tạo giác thích, Cát cánh, Tun phục hoa,... thuốc an thần
như Chu sa, Long cốt, Hổ phách, Toan táo nhân, Bá tử nhân, Viên
chí, Linh chi...

8


Thuốc bình can tức phong như Linh dương giác, Thạch quyêt
minh, Mẫu lệ, Trân châu, Đại giá thạch, Câu đằng, Quyet minh
tử, Tồn yết, Ngơ cơng, Bạch cương tàm, Địa long,... thuôc khai
khiếu như Xạ hương, Băng phiến, Tô hợp hương, Thạch xương bơ...
thuốc bố gồm có thuốc bổ khí như Nhân sâm, Bạch truật, Hoang
kỳ, Sơn dược, Cam thảo,... Thuốc bổ dương như Lộc nhung, Tư ha
xa, Cáp giới, Đơng trùng hạ thảo, Nhục thung dung, Ba kích thiên.
Dam dương hoắc? Đỗ trọng, Tục đoạn, ích trí nhân Thuốc bổ
huyết như Đương qui, Thục địa, Hà thủ ô, Bạch thược, A giao, Long
nhãn nhục, thuốc bổ âm như Nam, Bắc sa sâm, Mạch mơn, Thien
mơn, Thạch hộc, Hồng tinh, Cáu kỷ, Miết giáp, Qui bản... Thuộc
thu ỉiễm như Ngũ vị tử, Ơ mai, Ma hồng căn, Thạch lựu bì, Kha
tử, Nhục đậu khấu... thuốc gây nôn như Qua đế, Thường sơn Minh
phàn, Lê lơ... và thuốc dùng ngồi như Lưu hồng, Hùng hồng,
Bang sa, Bạch phàn, Đại tốn, Ban miêu, Thiềm tô, Xà sàng tử...
gom 20 loại tuy chưa hoàn hảo nhưng là cách phân loại tốt nhất
hiện nay để sử dụng thuốc tốt trên lâm sàng phù hợp với Y lý
cổ truyền.

9


Chương II

TÍNH NĂNG CỦA ĐƠNG DƯỢC
Tính năng của thuốc là tính chất và cơng năng của thuốc, nói
lên tác dụng chữa bệnh của thuốc theo Y lý cổ truyền. Người thầy

thuốc nắm vững tính năng của thuốc mới sử dụng thuốc có hiệu
quả trong điều trị bệnh.
Tính năng của thuốc Đơng y bao gồm: tứ khí ngũ vị, thăng
giáng phù trầm, qui kinh và độc tính của thuốc.

A. TỨ KHÍ NGŨ VỊ.
1. Tứ khí (tứ tính)
Tứ khí là chỉ 4 loại dược tính khác nhau của thuốc: hàn (lạnh)
lương (mát) nhiệt (nóng) ơn (ấm), là chỉ mức độ nóng lạnh khác
nhau của thuốc. Nhận thức về tính của thuốc là dựa vào tác dụng
của thuốc đổì với cơ thể, ví dụ như Hồng liên và Mẫu đơn bì đều
dùng trị bệnh nhiệt nhưng Hồng liên tác dụng mạnh hơn Đơn
bì vì Hồng liên tính hàn mà Đơn bì tính lương. Cũng như Can
khương và Ngãi diệp đều trị bệnh hàn có tác dụng ơn kinh khu
hàn nhưng Can khương tác dụng mạnh hơn Ngãi diệp vì Can
khuơng tính nhiệt cịn Ngãi diệp tính ơn. Ngồi ra có nhiều vị
thuốc khơng nóng mà cũng khơng lạnh (theo cảm giác chủ quan
của con người) thì gọi là tính bình như Cam thảo, Hoài sơn, Bạch
linh, Liên nhục....

Thuốc hàn lương thuộc âm dược, thuốc ơn nhiệt thuộc dương
dược là 2 loại thuốc có tác dụng trái ngược nhau. Thuốc hàn lương
trị chứng nhiệt cịn thuốc ơn nhiệt trị chứng hàn theo ngun tắc
điều trị của Đông y là “hàn giả nhiệt chi, nhiệt giả hàn chi”
(chứng hàn dùng thuốc nhiệt, chứng nhiệt dùng thuốc hàn) fsách
Nội kinh tố vấn, chí chân yếu đại luận). Nhưng do tính hàn nhiệt
mức độ khác nhau nên cũng phân ra các loại thuốc đại nhiệt, đại
hàn, hơi nhiệt, hơi hàn...

10



2. Ngủ vị:

Ngũ vị cũng là đặc điểm quan trọng của thuốc, dùng lưỡi nếm
để phân biệt: cay (tân) ngọt (cam) chua (toan) mặn (hàm) đắng
(khổ). Ngồi ra cịn có vị nhạt (đạm) và chát (sáp) nhưng ngũ vị
vẫn là cơ bản cần nắm để sử dụng có hiệu quả trong điều trị.
Về tác dụng của ngũ vị, sách Nội kình tố vấn, chương tạng khí
pháp thời luận chỉ rõ: “tân tán, toan thu, cam hoãn, khổ kiên, hàm
nhuyễn”. Các học giả về sau có phát triển thêm, nói rõ như sau:
(1) Cay: có tác dụng phát tán, hành trệ (tân năng tán, năng hành).
- Phát tán là tán tà khí lục dâm, thuốc vị cay có tác dụng
giải biểu như Ma hoàng, Quế chi, Sinh khương, Kinh giới, Bạc hà...
- Hành trệ là thuốc vị cay có tác dụng làm cho khí huyết lưư
thơng như Mộc hương, Trần bì, Hương phụ... có tác dụng hành khí,
Xun khung, Hồng hoa... có tác dụng hoạt huyết hóa ứ.
Nhưng các loại thuốc vị cay thường là gây táo hại khí và dễ
làm tổn thương tân dịch nên cần sử dụng thận trọng trong các
chứng khí hư, âm hư, biếu hư mồ hơi ra nhiều.

(2) Ngọt (cam): Y văn cổ nói: “Cam năng bổ, năng hịa, năng
hỗn” có nghĩa là vị thuốc ngọt có tác dụng bổ hư, điều hịa tính
vị của các vị thuốc khác và có tác dụng làm nhẹ bớt, (hịa hỗn)
tác dụng q mạnh của nhiều vị thuốc.
- Phần lớn thuốc bổ trong Đơng y là có vị ngọt như Nhân
sâm, Cam thảo, Hồng kỳ cam ơn bổ khí, Thục địa, Đương qui,
Hà thủ ô cam ôn bổ huyết, Sa sâm, Mạch môn, Thạch hộc, Ngọc
trúc ngọt hàn bổ âm sinh tân, Nhục thung dung, Thỏ ti tử, Sa
uyển tật lê, Đỗ trọng ngọt ôn bổ dương.


- Tác dụng điều hịa các vị thuốc như trong bài Ma hồng
thang, Cam thảo vị ngọt làm cho Ma hoàng, Quế chi bớt cay, làm
cho Hạnh nhân bớt đắng.
- Tác dụng làm giảm bớt dược tính của thuốc như trong bài
Điều vị thừa khí thang (gồm 3 vị Đại hồng, Mang tiêu, Cam thảo)
thì vị cam thảo có tác dụng làm giảm nhẹ tác dụng tả hạ của
bài thuốc. Các vị Cam thảo, Đại táo, Mật ong thường dùng trong
các bài thuốc mục đích là để điều hịa các vị thuốc cho dễ uống,
nhất là đối với trẻ em.


Ngồi ra thuốc ngọt phần lớn có tác dựng tư nhuận,nhuận táo
như Qua lâu, Bối mẫu nhuận phế hóa đàm, Hỏa ma nhân, Mật
ong nhuận tràng thông tiện.
- Nhưng do thuốc vị ngọt thường có tính nê trệ dễ trợ thấp
hại tỳ, khơng nên dùng nhiều, cổ nhân có câu: “trung mãn kỵ
cam” (bụng đầy không dùng chất ngọt) nên cẩn thận trong lúc
dùng thuốc ngọt nhiều đối với chứng tỳ hư, nếu dùng nên kèm
thuốc hành khí lợi thấp.
(3) Chua (toan): Y văn cổ nói: “toan năng thu năng sáp” tức
là các vị thuốc chua có tác dụng cầm (thu liễm, cố sáp) như các
vi Ngũ vị tử, Ngũ bội tử cầm mồ hôi, Tiên hạc thảo, Bạch cập
cầm máu^ Xích thạch chỉ, Thạch lựu bì cầm tiêu chảy, Kim anh
tử, Tang phiêu tiêu chữa di tinh, đái dầm,...
- Ngồi ra vị thuốc chua có tác dụng liễm âm sinh tân giải
khát như Ngũ vị tử, ô mai, giúp tiêu hóa như: Sơn tra, dấm ăn,
một số thuốc có tác dụng sơ cân chỉ kinh như Mộc qua, Bạch thược.
(4) Đắng (khổ): Y văn cổ ghi: “Khổ năng tả, năng táo,
năng kiên”, có nghĩa là thuốc đắng có tác dụng tả hạ như

Đại hoàng, Mang tiêu, tả nhiệt như Chi tử, Hoàng liên,
Hoàng bá, Hoàng cầm, giáng tả như Hạnh nhân, Hậu phác,
Trầm hương giáng khí bình suyễn, dùng trong điều trị chứng
khí nghịch ho suyễn.
- Thuốc đắng có tác dụng táo thấp gồm 2 loại: thuốc đắng
hàn táo thấp như Hồng liên, Hồng bá, thuốc đắng ơn táo thấp
như Thương truật.
- Tác dụng “năng kiên” của thuốc đắng là tác dụng gián tiếp
thông qua tả hỏa để tồn âm (kiện âm) như trong trường hợp nhiệt
thịnh âm hư (hư nhiệt) dùng Hoàng bá, Tri mẫu đế’ thanh nhiệt
tồn âm tức là kiên âm. Ngoài ra, một số thuốc đắng có tác dụng
khai vị, giúp tiêu hóa tốt. Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại
cho ta thấy vị đắng của một số thuốc như Hoàng liên, Long đảm
thảo cho uống một ít trước bữa ăn có tác dụng tăng tiết dịch của
dạ dày tăng thèm ăn. Nhưng nếu dùng nhiều quá, thuốc đắng có
tác dụng ức chế tiết dịch của dạ dày và làm giảm khẩu vị. ơ Trung
Quốc thường dừng các loại thuốc đắng như Lô hội, Xuyên tâm liên,
Nha đảm tử làm viên bọc nhựa hoặc bọc Nhục quế (mục đích giảm
12


bớt kích thích bao tử), uống nuốt trước khi ăn làm thuốc khai vị.
Do thuốc đắng táo dễ làm tổn thương chân âm và tân dịch
nên cần thận trọng lúc dùng đối với người bệnh âm hư, tân dịch
hao tổn.
(5) Mặn (hàm): Y văn cổ ghi: “hàm năng hạ, năng nhuyễn
kiên” tức là thuốc có tác dụng tả hạ như Mang tiêu dùng để tẩy
xổ thông đại tiện, Mẫu lệ, Miết giáp có tác dụng nhuyễn kiên tán
kết dùng trị các chứng loa lịch (lao hạch) đàm hạch (bướu lành).
Ngoài ra, thuốc vị mặn thường đi vào thận có tác dụng bổ thận

tráng dương ích tinh như Tử hà xa, Lộc nhung, Cáp giới hoặc đi
vào phần huyết có tác dụng lương huyết như Tê giác, Huyền sâm.

(6) Nhạt (đạm): Y văn cổ ghi: “đạm phụ ư cam” có nghĩa là
vị nhạt thường kèm với ngọt nhưng thực tế là khác nhau. Thuốc
có vị nhạt thường có tác dụng thấm thấp lợi tiểu như Phục linh,
Trư linh, Ý dĩ, Thông thảo đều có vị nhạt.
(7) Chát (sáp): Sách Thần Nơng bản thảo kinh bách chủng
luc ghi: “sáp vị toan chi biến vị, sáp vị thu sáp cùng toan vị đồng”,
như vậy vị chát cũng có tác dụng thu liễm cố sáp như Long cốt
có tác dụng tiệm dương liễm hãn sáp tinh, Kha tử sáp tràng chỉ
tả. Như vậy thuốc có vị chua và chát là có cùng tác dụng nên 2
vị chua chát thường cùng đi với nhau nhưng cũng có vị sáp mà
khơng chua như Long cốt, Mẫu lệ. Ngồi ra, tính được cịn có vị
thơm (hương) có tác dụng tỉnh tỳ kiện vị như Bội lan tỉnh tỳ hóa
thấp, Thảo quả phương hương hóa trọc, Xạ hương khai khiếu trừ
uế trọc, Băng phiến thơng khiêu.
Về thuộc tính âm dương của ngũ vị, sách Nội kinh tố vân,
chương Chí chân yếu đại luận viết: Yđn cam phát tán vi dương,
toan khổ sung tiết vi âm, hàm vị sung tiêt vi âm, dạm vị thảm
tiết vi dương”. Như vậy là vị ngọt, cay, nhạt thuộc dương, chua
đắng mặn thuộc âm dược, về thuộc tính theo ngũ hành, sách Nội
kinh tố vấn thiên Tuyên minh ngũ khí viêt: chua thuộc can, đăng
thuộc tâm, ngọt thuộc tỳ, cay thuộc phế, mặn thuộc thận. Và coi
như vị của thuốc thuộc tạng nào thì loại thuốc đó có tác dụng chính
vào tạng đó. Đây cũng chỉ là kinh nghiệm của người xưa dể chúng
ta tham khảo.

13



3. Kết hợp khí và vị của thuốc:
Vị thuốc nào cũng có khí và vị và tác dụng của thuốc do khí
vị quyết định thường theo các mặt sau:
(1) Muốn sử dụng tốt một vị thuốc trong điều trị phải biết cả
khí lẫn vị của thuốc, ví dụ thc vị cay tính ơn thì có tác dụng
phát tán phong hàn trị chứng biểu phong hàn như Ma hoàng, Quê
chi, Tế tân; cịn thuốc vị cay tính lương có tác dụng phát tán phong
nhiệt thì trị chứng biểu phong nhiệt.
(2) Một vị thuốc chỉ có một tính (khí) nhưng có thể .có nhiều
vị như Ma hồng tính ơn nhưng có vị cay và đắng, vị Quế chi
tính ơn nhưng vị cay và ngọt.
(3) Chỉ cần tính hoặc vị của vị thuốc khác nhau là tác dụng
của vị thuốc theo Y học cổ truyền là khác nhau ví dụ Phù bình
cay hàn có tác dụng thanh nhiệt phát hãn, Bạch phàn chua hàn
thì tác dụng thu liễm thanh nhiệt, Lơ căn ngọt hàn thì tác dụng
thanh nhiệt sinh tân...
(4) Tính vị giống nhau nhưng tác dụng có khác nhau như Hồng
liên, Hồng bá, Hoàng cầm tuy đều là thuốc đắng hàn nhưng ngoài
tác dụng chung là thanh nhiệt tả hỏa, Hoàng liên có tác dụng táo
thấp mạnh hơn. Hồng cầm có tác dụng thanh phế chỉ khái cịn
Hồng bá có tác dụng lợi thấp thối hồng tốt hơn.
Tứ khí ngũ vị tuy có vai trị quan trọng đối với tác dụng của
thuốc được sử dụng theo lý luận Y học cổ truyền nhưng không phải
là căn cứ duy nhất để dùng thuốc Đông dược. Cho nên trong lúc
dùng thuốc Đông dược trị bệnh cần chú ý tham khảo những thành
tựu mà dược lý hiện đại trong q trình nghiên cứu thuốc Đơng
dược đã đạt.

Giới thiệu tóm tắt một số kết quả về nghiên cứu dược

lý hiện đại đối với khí vị của thuốc Đông dược: (theo tài
liệu Trung dược học).
1) Trên súc vật thực nghiệm, dùng thuốc hàn lương nuôi chuột
lớn dài ngày phát hiện chức năng của hệ thần kinh giao cảm - tuyến
thượng thận giảm sút, cịn dùng thuốc ơn nhiệt nuôi chuột lớn till
chức năng trên hoạt động được tăng cường (theo báo cáo của Lương
Nguyệt Hoa đàng trên tạp chi Trung Tây Y kết hợp 1982, 2 (2) 82;

14


Trần cần đã làm thống kê 206 loại thuốc vị đắng nhận
thấy tinh dầu bay hơi là thành phần chủ yếu (Tạp chí Trung Y
1986 - 10:59).
3) Đối với thành phần hóa học của thuốc ngọt bình nhận thấy
thuốc có nhiều protit và axit amin, vitamin hơn các loại thuốc cay
ôn và đắng hàn (Trung Dược thông báo 1981, 4:39).
4) Các loại thuốc vị chua có nhiều chất tanin và axit hữu cơ
nhờ đó mà có tác dụng thu liễm cố sáp (Tạp chí Trung thảo dược
1987, 18(12):33.
5) Thuốc thơm (phương hương) phần lớn có vị cay ăn vào có
tác dụng kích thích khứu giác và vị giác thơng qua phản xạ thần
kinh mà có tác dụng cải thiện trạng thái thần kinh bị ức chế,
trạng thái ức chế của hệ tiêu hóa nhờ vậy mà có tác dụng tăng
cường khẩu vị, tăng cường hoạt động của cơ quan tiêu hóa (Luận
văn nghiên cứu sinh học vị thạc sĩ của Quách Kim long tại học
viện Trung Y Bắc Kinh 1988.
6) Thuốc mặn một bộ phận là lương tảo, loài hải sản có iốt
và muối có tác dụng làm mềm các loại anh lựu, loa lịch, đàm hạch
các khối u, một số khác có muối sunfat natri có tác dụng trị táo

bón (Trung y dược 1987, 18 (12): 33).
2)

B. THĂNG GIÁNG PHÙ TRAM:
Theo các Y gia ngày xưa thì tháng giáng phù trầm nói lên
xu hướng tác dụng của thuốc. Thường biểu hiện của bệnh theo các
chiều hướng có khác nhau như hướng lên trên (ví dụ, nơn mửa,
ho suyễn, nấc cụt, ợ hơi), hướng đi xuống như tiêu chảy, kiết lỵ,
bạch đới, băng lậu, lịi dom..., thốt ra bên ngồi như tự ra mồ
hôi (tự hãn) mồ hôi trộm (đạo hãn) hoặc hướng vào bên trong
như chứng biểu nhập lý, nhiệt nhập tâm bào... Do đó cân có thc
có tác dụng ngược lại xu hướng phát sinh bệnh để điều chỉnh trạng
thái bệnh lý của cơ thể hồi phục sức khỏe bình thường, đó là tính
thăng giáng phù trầm của thuốc.
Thăng là tác dụng nâng lên, phần trên, giáng là tác dụng
làm lắng xuống phần dưới, phù là phát tán ra ngoài, trầm là tác
dụng làm lắng xuống gây tẩy xổ đi tả. Trên thực tế thăng và
phù cũng gần như nhau, trầm và giáng cũng khó phân biệt, cho
15


nên thường dùng kết hợp “thăng phù” hoặc “giáng trầm”. Thường
các loại thuốc dùng để thăng dương giải biểu phát tán, khu phong
tán hàn, gây nôn, khai khiếu là thuốc thăng phù. Các loại thuốc
dùng để tẩy xổ, trục thủy, thanh nhiệt, lợi thủy thẩm thấp, an
thần, tiệm dương tức phong, tiêu đạo, giáng nghịch thu liễm, chỉ
khái bình suyễn... đều có tính dược trầm giáng. Tuy nhiên cũng
có những loại thuốc tính năng thăng phù giáng trầm khơng rõ
rệt hoặc có cả hai xu hướng như Sài hồ vừa có tác dụng phát tán
giải biểu vừa có tác dụng thanh nhiệt, Xuyên khung vừa có tác

dụng khu phong chỉ thống (thăng phù) cũng có tác dụng hoạt huyết
điều kinh (trầm giáng).
- Yếu tố quyết định tính năng thăng giáng phù trầm của thuốc:
1. Tz'n/i vị của thuốc: Tính vị là thuộc tính âm dương của thuốc
quyết định xư hướng tác dụng của thuốc. Tính ơn nhiệt, vị cay
ngọt, nhạt thuộc dương dược, xu hướng tác dụng phần lớn là thăng
phù. Tính dược hàn lương, vị chua đắng, mặn thuộc âm dược, xu
hướng tác dụng phần lớn trầm giáng. Theo Y văn cổ: sách Tố vấn
chương Chí chân yếu đại luận viết: “tân cam phát tán vi dương,
toan khổ sung tiết vi âm, hàm vị sung tiêt vi âm, đạm vị thảm
tiết vi dương”. Lý Thời Trân (Bản thảo cương mục) cũng ghi: “toan
hàm vô thăng, tân cam vô giáng, hàn vô phù nhiệt vô trầm”.
2. Mức độ (hậu bạc) của khí vị: tức là mức độ nồng hậu hoặc
đạm bạc của khí vị, ví dụ Bạc hà, Tang diệp khí vị đạm bạc nên
xu hướng tác dụng thăng phù, cịn Đại hồng, Thục địa khí vị nồng
hậu nên xu hướng tác dụng là trầm giáng.

3. Trọng lượng nặng nhẹ của thuốc: thuốc có tỷ trọng nhẹ như
hoa, lá và loại thuốc nhẹ như Đăng tâm, Thiền thối tính năng
thăng phù, ngược lại các loại quả rễ, loại khoáng vật làm thuốc
có tỷ trọng nặng như Tơ tử, Chỉ thực, Mẫu lệ, Từ thạch, Thạch
cao phần lớn tính năng trầm giáng. Trên thực tế khái niệm này
cũng chỉ tương đối, có vị như Tun phục hoa khơng phải tác dụng
thăng phù mà là giáng khí, giáng nghịch, hoa Hịe trị trường
phong tiện huyết thì khơng có tính năng thăng phù.

4. Tính thăng giáng phù trầm của thuốc cịn phụ thuộc vào
cách bào chế và phối ngũ. Có loại để tươi thì thăng mà bào chê
chín thì giáng như Ma hồng sống thì phát hãn giải biểu, chích
16



Ma hồng thì bình suyễn. Nếu chế với rượu thì tính thăng tán
tăng lên như Đại hồng, Hồng liên nếu rượu chê thì thanh nhiệt
phần trên tốt, chế với nước muối thì tác dụng đi xuống. Đơ trọng,
Ba kích thiên, Bổ cốt chi chế muối để tăng tác dụng trị đau do
sán khí (sa ruột). Trong một bài thuốc, nếu thc trâm giáng
chiếm đa số thì một số ít vị có tác dụng thăng phù cũng khơng
phát huy được và ngược lại cũng vậy. Tuy nhiên trong Y học cô
truyền cũng có khi dùng một vị thuốc nào đó có tính thăng phù
hay trầm giáng để dẫn thuốc ví dụ như dùng Cát cánh đê dân
thuốc đi lên, dùng Ngưu tất để dẫn thuốc đi xuống. Cho nên có
thể nói là tính thăng giáng phù trầm của thuốc là tùy thuộc nhiêu
vào người thầy sử dụng và cách bào chế thuốc.

c. QUI KINH:
Theo Y học cổ truyền thì quy kinh là nói lên phần tạng phủ
kinh lạc trong cơ thể mà một vị thuốc có tác dụng tức cũng nói
lên phạm vi chỉ định điều trị của vị thuốc. Cho nên trong Y học
cổ truyền tính năng qui kinh của thuốc là rất quan trọng, người
thầy thuốc cần biết để sử dụng có hiệu quả trong điều trị bệnh.

- Yếu tố quyết định tính qui kinh của thuốc:
Học thuyết qui kinh cũng chủ yếu dựa vào kinh nghiêm của
nhiều thầy thuốc xưa qua nhiều thời đại khác nhau đúc kết thành,
chủ yếu cũng theo tính năng tháng -giáng phù trầm, tứ khí ngũ
vị kết hợp với học thuyết kinh lạc tạng phủ về cơ thể con người
mà xây dựng nên. Qui kinh một vị thuốc thường dựa vào:

1. Tác dụng trị bệnh của thuốc: ví dụ thuốc giải cảm thường

qui kinh phế, thuốc chỉ khái hóa đàm phần lớn qui kinh phê, thc
an thần qui kinh tâm như Viễn chí, Chu sa, Trân châu, Bá tủ nhân
hoặc kinh can như Hổ phách, Trân châu, Thạch quyết minh,' Toan
táo nhân, Bá tử nhân... thuốc tức phong (chống co giật) phân lớn
qui kinh can như Câu đằng, Linh dương giác, Toàn yết, Ngơ cơng,
Thiên ma Thiền thối., thuốc khai khiếu qui kinh tâm như Thạch
xương, bồ, Xạ hương, Tô hợp hương, An tức hương... thuốc táo thấp
phần lớn qui kinh tỳ như Hoắc hương, Bội lan, Bạch biên đậu,
Thương truật, Phục linh... hoặc kinh bàng quang như Trư hnh,
Trạch tả, Phòng kỷ, Biển súc, Hoạt thạch... thuốc trợ tiêu hóa
17


thường qui kinh tỳ vị như Mạch nha, Sơn tra, Thần khúc, Kê nội
kim. Thuốc hoạt huyết qui kinh tâm (vì tâm chủ huyết) như Đơn
sâm, Uất kim, Khương hồng, Nhũ hương, Một dược, Đào nhân
Hồng hoa... hoặc qui kinh can (can tàng huyết) như Đơn sâm, Xích
thược, ích mẫu thảo, Trạch lan, Xuyên khung, Tam lăng, Nga
truật, Bồ hoàng... thuốc bổ khí qui kinh tỳ như Nhân sâm, Hoang
kỳ, Bạch truật, Sơn dược, Đại táo... kinh phê như Nhân sâm,
Hồng kỳ, Sơn dược, Cam thảo...
2. Đặc điểm của thc về màu sắc, hình thải, khí vỹ. như Toan
táo nhân, Chi tử, hạt Sen (hình tim) qui kinh tâm, Hà thu ô đo,
Câu kỷ tử, Tang thầm sắc đỏ qui kinh tâm..., nhất là ngũ vị có
quan hệ nhiều đến qui kinh của thuôc như sách Nọi kinh to van
viết: “chua vào can, đắng vào tâm, ngọt vào tỳ, cay vào phè, mặn
vào thận”. Đây là cách qui kinh sớm nhất. Nhưng đối với nhiều
vị là khơng chính xác, ví dụ như Thương truật vị đắng nhưng tác
dụng là kiện tỳ táo thấp nên qui kinh tỳ chứ không qui kinh tâm.
Hơn nữa, các vị thuốc có vị khác nhau cũng khơng phải chỉ qui vào

một tạng hay phủ có thể có tác dụng vào nhiều tạng khác nhau,
có khi qui vào tạng không liên quan đến vị của thuôc đó như Hà
thủ ơ vị ngọt nhưng lại qui vào can thận, A giao vị ngọt nhưng
qui kinh phế can thận. Nên qui kinh chủ yếu là theo tác dụng của
thuốc và cách qui kinh này là có giá trị thực tiễn trên lâm sàng.

Nghiên cứu về học thuyết quỉ kinh theo dược lý hiện đại:
1. Có tác giả nghiên cứu so sánh sự phân bố của thành phần
hữu hiệu của 23 loại thuốc và kết quả là: 14 loại có sự phân bố
là thống nhất với qui kinh của thuốc, tỷ lệ 61%, có 6 loại sự phân
bơ gần giống như qui kinh, tỷ lệ 26%, còn 3 loại thì sự phân bơ
của thuốc khơng liên quan gì với qui kinh, tỷ lệ 13%. Các tác giả
cho rằng thành phần của thuốc hữu hiệu tác dụng lên cơ thể có
chọn lọc là cơ sở qui kinh của Trưng dược (Lục Quang Vỹ, sự phân
bô trong cơ thể thành phần hữu hiệu của thuốc và tính qui kinh.
Tạp chí nghiên cứu Trung y dược 1984, 5:38).
2. Có tác giả cho rằng học thuyết qui kinh của Đơng y có điểm
giống với học thuyết thụ thể của dược lý hiện đại. Thụ thê tồn tại
trên bề mặt hoặc trong tế bào, các thự thể này có phản ứng sinh
hố kết hợp với các chất có hoạt tính sinh vật như thuốc, chất kích
18


tố... như đã phát hiện khi dùng phương pháp thực nghiệm quan sát
sự tồn tại trên màng tế bào mỡ thụ thể protein, và nhận định răng
cái gọi là “thụ thể hàn lương”, thụ thể ôn nhiệt”... ‘Trung dược thụ
thể” là có tồn tại. Trung dược và thụ thể tương ứng của chúng là
có ái lực khá mạnh, sự kết hợp đó đã sản sinh ra hiệu lực của thuốc,
và tác giả cho rằng thành phần hữu hiệu của thuốc và thụ thể là
cơ sở để nghiên cứu tính quy kinh của thuốc (Lý Chu Hưởng, Trung

dược và thụ thể. Luận văn báo cáo tại Hội nghị khoa học kỹ thuật
toàn quốc về lý luận Trung dược năm 1986).

D. ỨNG DỤNG TÍNH NĂNG CỦA THUốC TRÊN LÂM SÀNG:

1. Cần có sự hiểu biết đầy đủ các tính năng của thuốc để sử dụng
thuốc có hiệu quả cao: Trong 3 mặt tính năng của thuốc, khí vị là nói
lên tính chất của thuốc, thăng giáng phù trầm nói lên xu hướng tác
dụng của thuốc, qui kinh nói lên tác dụng có chọn lọc của thuốc đối
với tổ chức cơ quan trong cơ thể. Cùng một loại thuốc tác dụng giống
nhau nhưng qui kinh khác nhau thì hiệu quả điều trị là khác nhau,
ví dụ cùng là vị thuốc khổ hàn thanh nhiệt táo thấp nhưng Hoàng
liên qui kỉnh tâm thiên về thanh tâm hỏa, Hồng cầm qui kinh phế
có tác dụng thanh phế nhiệt, Long đởm thảo qui kinh can thì có tác
dụng thanh can nhiệt. Mặt khác các vị thuốc qui cùng một kinh nhưng
khí vị khác nhau thì tác dụng ơn, thanh, bổ, tả là khác nhau, ví dụ
chữa bệnh phê ho ta có thể dùng nhiều vị thuốc cùng qui kinh phê
như Hoàng cầm, Can khương, Qua lâu, Sa sâm nhưng do khí vị khác
nhau mà tác dung khác nhau như Hồng cầm khơ hàn thanh phè
nhiệt, Can khương ôn phế hàn, Qua lâu cam hàn nhuận phê hóa đàm,
Sa sâm ngọt hàn dưỡng phế sinh tân... hoặc như cùng qui vào kinh
can nhưng Hương phụ vị cay có tác dụng sơ can lý khí, Long đảm thảo
vị đắng nên tác dụng thanh can tả hỏa, Sơn thù vị chua (toan) có tác
dụng thu liễm bổ can, A giao vị ngọt tác dụng bổ dưỡng can huyèt,
Miết giáp vị mặn có tác dụng tán kết tiêu trưng (khối u)... Cho nền
theo Y học cổ truyền thì cần có sự kết hợp cả 3 mặt tính năng (tứ
khí ngũ vị, thăng giáng phù trầm, qui kinh của thuốc) mới hiểu được
tác dụng tồn diện của một vị thuốc Đơng y.
2. Về mặt dùng thuốc đúng bệnh đúng thuốc thì ngồi việc
nắm tính ơn lương hàn nhiệt qui kinh của thuốc phải biện chúng

đúng bệnh thuộc hàn nhiệt hư thực, bệnh thuộc tạng nào tâm can

19


tỳ phế thận... ví dụ như bệnh thuộc biểu hàn thì dùng thc có
khí vị cay ơn như Kinh giới, Quê chi, Sinh khương đê tân ôn giái
biểu, nếu thuộc biểu nhiệt thì dùng thuốc cay mát hay cay hàn
như Bạc hà, Phù bình., hoặc đắng hàn như Đậu xi, Tang diệp, Cúc
hoa để thanh nhiệt giải biểu... Ngoài ra, đối với một chứng bệnh
cũng cần biết chứng bệnh đó thuộc tạng phủ nào để dùhg thuôc
cho đúng như chứng suyễn có thể là do phê khí khơng tun thơng
thì dùng các vị thuốc qui kinh phế như Ma hoàng, Hạnh nhân đê
tuyên phế bình suyễn, nếu là do thận khơng nạp khí thì phải dùng
loại thuốc qui kinh thận như Cáp giới, Bổ cốt chi để bơ thận nạp
khí. Hoặc như trị chứng đau đầu, do thuốc qui kinh khác nhau mà
lúc trị dùng thuốc có khác, nếu đau đầu do thái dương bàng quang
kinh thi dùng khương hoạt, đau đầu thuộc kinh dương minh thì
dùng Bạch chỉ, (qui kinh vị) đau đầu thiếu dương kinh dùng Xuyên
khung (qui kinh đởm) đau đầu quyết âm kinh dùng Ngô thù du (qui
kinh can), đau đầu thiếu âm kinh thì dùng Tế tân (qui kinh tâm
thận).
Ngoài ra trên lâm sàng bệnh tật thường biểu hiện phức tạp,
bệnh của tạng này có thể làm ảnh hưởng tạng phủ kia nên lúc
dùng thuốc khơng chỉ chọn thuốc của một kinh mà cịn chọn thuốc
của nhiều kinh khác, như bệnh thuộc phế mà phát hiện có tỳ hư
có thể dùng thuốc thuộc tỳ kinh như Bạch truật, Bạch linh để “bổ
tỳ ích phế” hoặc chứng can dương thịnh mà do thận hư thì chọn
thuốc qui kinh thận như Huyền sâm, Sinh địa, Địa cốt bì để tư
thận dưỡng can. Do đó để dùng thuốc trị bệnh được tốt khơng

những cần nắm bắt tính vị qui kinh của thuốc mà còn phải biết
sự quan hệ giữa các tạng phủ kinh lạc.
3. Về mặt bào chế thuốc thì lý luận tính vị qui kinh có tác
dụng chỉ đạo trong cơng tác bào chế thuốc. Ví dụ vị mặn qui kinh
thận thì dùng muối sao Hồng bá, Tri mẫu đế tăng cường tả thận
hỏa, vị chua nhập can nên dùng giấm chế Sài hồ làm tăng tác
dụng sơ can chỉ thống.

20



×