Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

PHÂN TÍCH QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS 2015 VỀ BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.18 KB, 19 trang )

TIỂU LUẬN CÁ NHÂN
MƠN: LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỀ BÀI 7 : PHÂN TÍCH QUY ĐỊNH
CỦA BLTTHS 2015 VỀ BIỆN PHÁP
GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP
KHẨN CẤP
Họ và tên : NGUYỄN QUỐC HƯNG
Lớp: K7A
MSSV: 193801010267


MỤC LỤC
A. Mở đầu............................................................................................1
B. Nội dung..........................................................................................2
I. Những vấn đề lý luận chung về biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp........................................................................2
1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn...............................................2
2. Khái niệm biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp 2
3. Cơ sở quy định biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn
cấp...................................................................................................2
4. Ý nghĩa của việc quy định và áp dụng biện pháp ngăn chặn
giữ người trong trường hợp khẩn cấp.........................................3
II. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về giữ người
trong trường hợp khẩn cấp.............................................................3
1. Căn cứ áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn
cấp...................................................................................................3
2. Thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp. 7
3. Thủ tục áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp
khẩn cấp..........................................................................................8
III. Điểm mới, hạn chế và giải pháp hoàn thiện về quy định của
BLTTHS năm 2015 về biện pháp giữ người trong trường hợp


khẩn cấp............................................................................................9
1. Điểm mới của quy định của BLTTHS năm 2015 về biện
pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp................................9
2. Hạn chế của quy định của BLTTHS năm 2015 về biện pháp
giữ người trong trường hợp khẩn cấp.......................................11
3. Giải pháp hoàn thiện về quy định của BLTTHS năm 2015 về
biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp.....................13
C. Kết luận.........................................................................................15


A. Mở đầu
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp do cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng áp dụng đối với người bị nghi là thực hiện tội phạm, bị can, bị cáo
nhằm ngăn chặn việc người đó bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho
việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội. Giữ người
trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp ngăn chặn mới, được quy định tại Điều
110 sửa đổi, bổ sung trong BLTTHS năm 2015 trên cơ sở biện pháp ngăn chặn
bắt khẩn cấp của BLTTHS năm 2003. Điều luật quy định về căn cứ áp dụng,
thẩm quyền áp dụng, thủ tục áp dụng biện pháp này với nhiều quyết định, hành
vi tố tụng được thực hiện sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Đây là
biện pháp ngăn chặn quan trọng và phổ biến, tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng để ngăn chặn tội phạm, giảm bớt
những thiệt hại có thể xảy ra cho xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền cơng
dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, đồng thời cũng là cơ sở để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật
những hành vi áp dụng không đúng, xâm phạm quyền con người, quyền công
dân. Tuy đã có nhiều điểm tiến bộ, tuy nhiên điều luật này vẫn khơng thể tránh
khỏi những hạn chế vì thế nên em xin chọn đề tài: “Phân tích quy định của
BLTTHS 2015 về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp” để làm bài
tập tiểu luận môn Luật Tố tụng hình sự từ đó phân tích các vấn đề lý luận chung,

khái quát các quy định của pháp luật, sau đó tìm ra điểm mới, những vướng mắc
và đề xuất các giải pháp hoàn thiện hơn nữa quy định của BLTTHS 2015 về
biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Vì sự hạn chế về điều kiện tài
liệu và hiểu biết nên khi nghiên cứu không thể tránh khỏi những sai sót mong
thầy (cơ) đóng góp ý kiến để bài làm của em có thể được hồn thiện hơn. Em
xin cảm ơn.

1


B. Nội dung
I. Những vấn đề lý luận chung về biện pháp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp.
1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp do cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng áp dụng đối với người bị nghi là thực hiện tội phạm, bị can, bị cáo
nhằm ngăn chặn việc người đó bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho
việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội. Mục đích của
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn là nhằm ngăn chặn tội phạm, mang tính
chất phịng ngừa, khơng mang tính chất trừng trị. [1]
Khi tiến hành tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong trường hợp cụ thể có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn, một trong
những biện pháp ngăn chặn được áp dụng trong trường hợp khẩn cấp đó là giữ
người trong trường hợp khẩn cấp.
2. Khái niệm biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp ngăn chặn do người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng ngay lập tức làm hạn chế tự do về thân thể
đối với người ở trong trường hợp khẩn cấp, cụ thể làm hạn chế một số quyền
công dân, quyền con người như: quyền tự do đi lại, tự do cư trú…; nhằm ngăn
chặn việc người đó thực hiện tội phạm hoặc ngăn chặn ngay việc người đó bỏ

trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. [1]

2


3. Cơ sở quy định biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
- Cơ sở lý luận, giữ người trong trường hợp khẩn cấp được quy định dựa
trên cơ sở lý luận về quyền con người và bảo vệ quyền con người của luật pháp
quốc tế và quốc gia.
- Cơ sở pháp lý, giữ người trong trường hợp khẩn cấp dựa trên cơ sở quy
định của Hiến pháp nước ta về quyền con người và bảo đảm quyền con người,
quyền của cá nhân.
- Cơ sở thực tiễn, quy định biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
dựa trên cơ sở thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm.
4. Ý nghĩa của việc quy định và áp dụng biện pháp ngăn chặn giữ
người trong trường hợp khẩn cấp
- Ý nghĩa Chính trị - xã hội: Việc quy định biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp trong TTHS có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Biện
pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp chính là sự đảm bảo cho việc thực
hiện dân chủ trong pháp luật, thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm các quyền và lợi
ích hợp pháp của cơng dân được Hiến pháp và pháp luật quy định.
- Ý nghĩa pháp lý: giữ người trong trường hợp khẩn cấp cịn có ý nghĩa là
cơ sở pháp lý để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật khi áp dụng biện pháp
giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
- Ý nghĩa thực tiễn: Việc quy định và áp dụng biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp cũng có ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn. Trước hết, giữ
người trong trường hợp khẩn cấp là điều kiện hết sức cần thiết không thể thiếu
nhằm đảm bảo cho các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan có
thẩm quyền khác nhằm đạt hiệu quả, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải
quyết được những nhiệm vụ đặt ra trong các giai đoạn tố tụng một cách chính

xác, nhanh chóng, trong đó cơ bản nhất là phát hiện kịp thời, xử lý đúng người,
đúng tội, áp dụng đúng pháp luật. Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là biện

3


pháp ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người phạm tội bỏ trốn hoặc có hành vi gây
khó khăn cho việc giải quyết vụ án. [14]
II. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về giữ người trong
trường hợp khẩn cấp
1. Căn cứ áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
1.1. Căn cứ áp dụng chung
Việc áp dụng hay không áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với từng trường
hợp cụ thể phải có căn cứ. Việc quy định các biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật
tố tụng hình sự tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng áp dụng để ngăn chặn tội phạm, giảm bớt những thiệt hại có thể
xảy ra cho xã hội. Căn cứ chung áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong đó bao
gồm cả biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp được quy định tại khoản
1 Điều 109 BLTTHS 2015:
“1. Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị
buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm
tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người
trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo
đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.”
Theo đó, biện pháp ngăn chặn được áp dụng khi có các căn cứ sau: thứ
nhất là để kịp thời ngăn chặn tội phạm; thứ hai là, khi có căn cứ chứng tỏ người
bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử; thứ ba là, khi có
căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ sẽ tiếp tục phạm tội; thứ tư là, bảo đảm thi
hành án.

1.2. Căn cứ cụ thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp
khẩn cấp
Ngoài những quy định về cơ sở pháp lý áp dụng biện pháp ngăn chặn nói
chung, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã quy định căn cứ áp dụng cụ thể cho từng
4


biện pháp ngăn chặn riêng. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 110 BLTTHS 2015,
căn cứ áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp được xác định
như sau:
- Trường hợp khẩn cấp thứ nhất: có đủ căn cứ để xác định người đó
đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Chuẩn bị tội phạm là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện
hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia
nhóm tội phạm. Ngồi một số trường hợp Bộ luật hình sự quy định trường hợp
chuẩn bị phạm tội về tội ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng phải chịu
trách nhiệm hình sự, khoản 2 Điều 14 BLHS 2015 đã quy định cụ thể những
trường hợp chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng phải chịu trách nhiệm hình sự. Nếu có đủ căn cứ xác định một người thực
hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thuộc
trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự thì có thẩm quyền tiến hành tố tụng
mới được ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
Căn cứ quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 110 BLTTHS 2015 và Điều 14
BLHS 2015, nếu có căn cứ xác định một người đang chuẩn bị thực hiện tội
phạm. Và tội phạm mà họ chuẩn bị thực hiện phải là tội phạm rất nghiêm trọng,
có mức cao nhất của khung hình phạt từ trên 07 năm đến 15 năm tù hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng, có mức cao nhất của khung hình phạt từ trên 15
năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Quy định này nhằm mục đích ngăn chặn kịp
thời các hành vi phạm tội trong trường hợp có đủ cơ sở để khẳng định một người
đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng

nên cần bắt ngay, để ngăn chặn kịp thời việc người đó gây thiệt hại cho xã hội.
Hành vi chuẩn bị phạm tội nói trên mặc dù chưa trực tiếp xâm hại lợi ích của
Nhà nước và cơng dân nhưng nó đã đặt các lợi ích ấy vào tình trạng bị đe dọa rất
nghiêm trọng. Vì vậy, yêu cầu đặt ra hết sức cấp bách, cần ngăn chặn ngay,
không để tội phạm xảy ra. Các tội phạm được liệt kê sau đây được áp dụng biện
pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp:
5


Điều 108 (tội phản bội tổ quốc); Điều 110 (tội gián điệp); Điều 111 (tội
xâm phạm an ninh lãnh thổ); Điều 112 (tội bạo loạn); Điều 113 (tội khủng bố
nhằm chống chính quyền nhân dân); Điều 114 (tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ
thuật của nước CHXHCNVN); Điều 117 (tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên
truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCNVN); Điều
119 (tội chống phá trại giam); Điều 120 (tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người
khác trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngồi nhằm chống chính quyền
nhân dân); Điều 121 (tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngồi nhằm
chống chính quyền nhân dân); Điều 123 (tội giết người); Điều 134 (tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 168 (tội cướp
tài sản); Điều 169 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản); Điều 299 (tội khủng
bố); Điều 300 (tội tài trợ khủng bố); Điều 301 (tội bắt cóc con tin); Điều 302 (tội
cướp biển); Điều 303 (tội phá hủy cơng trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về
an ninh quốc gia); Điều 324 (tội rửa tiền).
- Trường hợp khẩn cấp thứ hai: Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị
hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận
đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người
đó trốn.
“Người cùng thực hiện tội phạm” là một bổ sung mới, cần thiết của
BLTTHS năm 2015 vì người này cũng hồn tồn có khả năng “chính mắt nhìn
thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm”. Đây là trường hợp tội

phạm đã xảy ra nhưng người phạm tội không bị bắt ngay (khơng bị bắt quả
tang). Để có thể giữ người trong trường hợp này thì phải xác định trường hợp cụ
thể thỏa mãn đồng thời cả hai điều kiện: Thứ nhất, người cùng thực hiện tội
phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy
và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm. Nếu đồng phạm trong vụ án
mà khơng có mặt tại nơi tội phạm diễn ra hoặc khơng chính mắt nhìn thấy thì
xác nhận của họ cũng không là căn cứ để giữ người. Thứ hai, xét thấy cần ngăn
chặn ngay việc người đã thực hiện tội phạm trốn (người đó đang có hành động
6


bỏ trốn, đang chuẩn bị trốn hoặc có những dấu hiệu bỏ trốn). Để xác định cần
ngăn chặn ngay việc người đó trốn, cần đánh giá một cách tồn diện về các mặt
như: về nhân thân, đối tượng (khơng có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân xấu, có
nhiều tiền án, tiền sự; là đối tượng chưa xác định được căn cước, lý lịch rõ
ràng…); về tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội và loại phạm tội được
thực hiện (thực tiễn cho thấy người phạm tội thường trốn như tội trộm cắp, lừa
đảo, cướp, giết người, mua bán trái phép chất ma túy…); về hành vi thực tế: có
căn cứ xác định người này đang chuẩn bị hành lý, liên hệ phương tiện đi lại, có
mặt ở bến tàu, bến xe, sân bay.
- Trường hợp khẩn cấp thứ ba: Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc
tại chỗ hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội
phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng
cứ.
Để có thể giữ người trong trường hợp trên thì phải xác định trường hợp cụ
thể thỏa mãn đồng thời hai điều kiện: Thứ nhất, có dấu vết của tội phạm ở người
hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực
hiện tội phạm. Thứ hai, xét thấy cần ngăn chặn ngay việc nghi thực hiện tội
phạm trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Có dấu vết của tội phạm được tìm thấy có
thể là dấu vết để lại trên thân thể khi người đó thực hiện tội phạm như dấu vết

máu của người bị hại, vết thương do người bị hại gây ra…cũng có thể là cơng
cụ, phương tiện, đối tượng của tội phạm. Thu thập dấu vết của tội phạm phải
được tiến hành thông qua các biện pháp tố tụng được quy định trong BLTTHS;
Hoặc trường hợp phát hiện có dấu vể đồ vật như công cụ, phương tiện bị trộm
tại nơi ở, nơi làm việc hay trên người của người bị nghi thực hiện tội phạm. Xét
thấy cần ngăn chặn việc bỏ trốn khỏi nơi ở, trốn ra nước ngồi, xóa dấu vết tội
phạm, đang cất giấu hoặc phá hủy công cụ, phương tiện phạm tội, đang tẩu tán
hoặc tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có thì cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng
ngay biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp. [1]

7


2. Thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 110 BLTTHS 2015 thì những người sau
đây có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp: Thủ trưởng, Phó thủ
trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và
tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa
khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phịng,
Đồn trưởng Đồn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên
phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và
pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đồn trưởng Đồn đặc nhiệm phịng, chống
tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư
vùng; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay,
bến cảng.
Người thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp là Điều tra viên,
Cán bộ điều tra thuộc Cơ quan điều tra hoặc cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra. [1]
BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm thẩm quyền ra lệnh giữ người trong

trường hợp khẩn cấp so với thẩm quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp
của BLTTHS năm 2003 một số người đứng đầu các đơn vị hữu quan thuộc Bộ
đội biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư. Đây cũng là sự bổ sung hợp
lý xuất phát từ vai trò quan trọng của các chủ thể này trong thực tiễn đấu tranh
phòng chống tội phạm, đáp ứng yêu cầu của hoạt động giữ người trong trường
hợp khẩn cấp.
3. Thủ tục áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 110 BLTTHS 2015, việc áp dụng biện
pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải có lệnh. Lệnh giữ người trong
trường hợp khẩn cấp của người có thẩm quyền phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của
người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người, số, ngày, tháng, năm, địa điểm ra lệnh giữ
người; họ tên, chức vụ, chữ ký của người ra lệnh giữ người và đóng dấu. Khi giữ
người trong trường hợp khẩn cấp, người thi hành lệnh giữ người phải đọc lệnh;
8


giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị giữ và phải lập biên bản về việc
giữ; giao lệnh cho người bị giữ.
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp thể hiện tính chất đặc biệt cấp bách
của việc ngăn chặn tội phạm. Tính cấp bách đó được thể hiện ở việc nếu khơng
bắt tội phạm có thể xảy ra gây tổn thất nghiêm trọng cho nhà nước, xã hội, xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản và các lợi ích hợp pháp của cơng dân
hoặc cản trở việc điều tra, trốn tránh pháp luật. Tuy nhiên để ngăn ngừa mọi
hành vi lạm dụng, bắt bừa, bắt ẩu xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân, các cơ quan có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Khoản 2
Điều 110 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cần phải tuân thủ đầy đủ các quy
định của pháp luật. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp
khẩn cấp thì cơ quan điều tra cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số các
hoạt động điều tra phải thực hiện việc lấy lời khai ngay, phải khẩn trương, xem
xét, ban hành các quyết định tạm giữ, lệnh bắt người bị giữ hoặc là trả tự do

ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải được
gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm
theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn. Viện kiểm sát phải
kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Trong trường
hợp cần thiết, Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trước khi xem
xét, quyết định không phê chuẩn thù người đã ra lệnh giữ người khẩn cấp phải
trả tự do ngay cho người bị giữ. [6]
III. Điểm mới, hạn chế và giải pháp hoàn thiện về quy định của
BLTTHS năm 2015 về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
1. Điểm mới của quy định của BLTTHS năm 2015 về biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp.
"Giữ người trong trường hợp khẩn cấp" là một trong những biện pháp
ngăn chặn được quy định chi tiết tại Điều 110 Bộ luật tố tụng hình sự (sau đây
gọi tắt là BLTTHS) năm 2015 và thay thế cho biện pháp "Bắt người trong
trường hợp khẩn cấp" quy định tại Điều 81 BLTTHS năm 2003. Có thể khẳng
9


định, những điểm mới của biện pháp "Giữ người trong trường hợp khẩn cấp" đã
phản ánh rõ nét sự tiến bộ về mặt nhận thức cũng như kỹ thuật lập pháp của các
nhà làm luật cụ thể:
- BLTTHS năm 2015 vẫn tiếp tục kế thừa các quy định về căn cứ áp dụng
biện pháp "Bắt người trong trường hợp khẩn cấp". Đồng thời, xuất phát từ thực
tiễn đấu tranh và phòng chống tội phạm, BLTTHS năm 2015 cũng bổ sung thêm
sự xác nhận của "người cùng thực hiện tội phạm", phát hiện dấu vết tội phạm tại
"nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm" là
những căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Bên cạnh đó, nhằm khắc
phục quy định mang tính chất định tính, chưa cụ thể về căn cứ bắt khẩn cấp
trong trường hợp một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng tại BLTTHS năm 2003 "Khi có căn cứ để cho rằng…",

điểm a khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015 đã quy định khi giữ người trong
trường hợp khẩn cấp phải bảo đảm "Có đủ căn cứ để xác định người đó đang
chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng". Như vậy, trong trường hợp này khi muốn giữ người trong trường hợp
khẩn cấp thì cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập được đầy đủ căn cứ để xác
định người đó có các hành vi đang chuẩn bị thực hiện tội phạm và điều quan
trọng là đó có phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng được quy định tại Điều 14 của Bộ luật hình sự năm 2015 hay khơng. [8]
- Ngồi chủ thể có thẩm quyền áp dụng là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra các cấp; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã
rời khỏi sân bay, bến cảng - là những nhóm chủ thể đã được quy định tại
BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 cũng bổ sung thêm nhiều chủ thể.
- So với trường hợp "Bắt người trong trường hợp khẩn cấp" thì thời gian
phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt đã được rút ngắn lại
còn 12 giờ (trước đây là 24 giờ). Đồng thời, điều luật cũng đã mở rộng hơn thẩm
quyền cho Cơ quan điều tra khi cho phép Cơ quan điều tra có thể trả tự do ngay
10


cho người bị giữ mà khơng cần phải có sự đồng ý của Viện kiểm sát khi xét thấy
khơng có căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
Những thay đổi quan trọng về căn cứ, thẩm quyền và trình tự, thủ tục áp
dụng như đã phân tích nêu trên có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, đặc biệt là trong việc
áp dụng của các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết các vụ án
hình sự. Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh rằng, việc sử dụng biện pháp ngăn
chặn này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người và kết quả giải quyết
vụ án sau này nên các cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét thận trọng nhằm áp
dụng chính xác, chỉ áp dụng khi thật cần thiết, tránh lạm dụng.
2. Hạn chế của quy định của BLTTHS năm 2015 về biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp.

Thứ nhất, Điều 14 của BLHS năm 2015 về “Chuẩn bị phạm tội”, quy định
chưa đầy đủ các trường hợp chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự, cụ
thể: Tại khoản 3 của các Điều 109 (Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân
dân), Điều 115 (Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội),
Điều 116 (Tội phá hoại chính sách đồn kết); Cả ba điều luật trên, đều quy định
người chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng lại khơng được
quy định trong khoản 2 của Điều 14.Việc quy định không đầy đủ như vậy,
khơng chỉ gây khó khăn trong áp dụng biện pháp ngăn chặn mà còn trong cả
việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, việc BLHS và BLTTHS năm 2015 quy định người chuẩn bị phạm
tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự và chỉ có thể bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp” đối với một số tội phạm nhất định,
được quy định tại Điều 14 BLHS là chưa đảm bảo yêu cầu đấu tranh, phòng
ngừa và răn đe tội phạm. Trong đó, mục đích chính của biện pháp “Giữ người
trong trường hợp khẩn cấp đối với người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng và
đặc biệt nghiêm trọng” là kịp thời ngăn chặn việc họ có thể gây ra các hậu quả
nguy hại rất lớn cho xã hội, đặc biệt ở các tội phạm có tính chất nguy hiểm cao
cho xã hội như: Tội Hiếp dâm; Mua bán người; Cưỡng đoạt tài sản; Cướp giật
11


tài sản; Mua bán trái phép chất ma túy; Tội Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ
thuật quân sự và các tội phạm tham nhũng... đều là các loại tội phạm mà người
phạm tội có thể liên kết để hoạt động ổ nhóm, có tổ chức, có tính chất chun
nghiệp để gây ra hậu quy nguy hại rất lớn cho xã hội, thì lại khơng phải chịu
trách nhiệm hình sự và khơng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Giữ người trong
trường hợp khẩn cấp”, để có thể kịp thời ngăn chặn trước khi họ gây ra hậu quả
cho xã hội. [11]
Thứ ba, về mặt lập pháp, tên gọi của Điều 110 chỉ ghi là “Giữ người trong

trường hợp khẩn cấp” chưa bao hàm hết nội dung điều luật mà chỉ là một phần
của điều luật vì nội dung điều luật quy định cả về biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp và biện pháp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Theo quy định tại Điều 109 BLTTHS năm 2015, giữ người trong trường hợp
khẩn cấp là một biện pháp ngăn chặn độc lập bên cạnh các biện pháp ngăn chặn
khác như bắt, tạm giữ, tạm giam. Mặc dù có thể giải thích rằng, theo thủ tục, sau
khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì cơ quan tiến hành tố tụng trong thời
gian 12 giờ phải ra các quyết định, một trong số đó là lệnh bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp. Nghĩa là việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là chuỗi hành vi liền kề, nối tiếp nhau,
phải quy định trong cùng điều luật. Tuy nhiên, khi tìm biện pháp bắt người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp sẽ khó khăn nếu khơng biết nó được quy định
trong 1 Điều luật có tên là: “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp”.
Thứ tư, theo quy định tại Điều 110 BLTTHS năm 2015, thẩm quyền áp
dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp ngoài Cơ quan điều tra, Cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cịn có chủ thể
là “người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển rời sân bay, bến cảng”.
Đối chiếu với quy định tại Điều 109 về khái niệm biện pháp ngăn chặn thì chủ
thể được áp dụng các biện pháp ngăn chặn chỉ có thể là cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng: “Đề kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ
12


người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp
tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để
bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hồn xuất cảnh”. [12] Từ đó, tạo nên sự
hạn chế, không thống nhất trong quy định của pháp luật.
Thứ năm, Về thời hạn được tính đối với người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp hiện nay cũng còn nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau. Đối với
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, thời gian bắt, giữ được ghi trong biên
bản giữ người, lệnh giữ người, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
và quyết định tạm giữ có cùng thời gian hay khơng? Tính từ khi giữ người trong
trường hợp khẩn cấp đến khi ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp là không quá 12 giờ, đảm bảo theo quy định của pháp
luật. Tuy nhiên, từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp đến khi ra quyết
định tạm giữ là gần 3 giờ và từ khi ra quyết định tạm giữ đến khi ra lệnh bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là 09 giờ thì có đảm bảo theo quy định
pháp luật không? Thời gian tạm giữ được trừ vào thời gian tạm giam, nhưng thời
gian bị giữ khi chưa có quyết định tạm giữ thì như thế nào? Nếu khơng được
tính vào thời hạn tạm giữ để được trừ vào thời hạn tạm giam thì ảnh hưởng đến
quyền của người bị tạm giữ. Đây là vấn đề vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
luật; bởi lẽ, thời điểm giữ người trong trường hợp khẩn cấp phát sinh trước khi
có quyết định tạm giữ. [10]
3. Giải pháp hoàn thiện về quy định của BLTTHS năm 2015 về biện
pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
Thứ nhất, để bảo đảm nguyên tắc của BLTTHS và BLHS là mọi hành vi
phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng và
nghiêm trị những người phạm tội có tổ chức, chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng, thì cần thiết phải mở rộng các trường hợp phải chịu trách
nhiệm hình sự khi chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt
13


nghiêm trọng. Qua đó, tạo cơ sở để mở rộng việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
“Giữ người trong trường hợp khẩn cấp” đối với các loại tội phạm có khả năng
gây nguy hại rất lớn và đặc biệt lớn cho xã hội, góp phần đấu tranh phịng,
chống tội phạm đạt hiệu quả cao. [11]
Thứ hai, có thể xử lý theo hai hướng: Một là, tách Điều 110 thành hai điều

luật độc lập, một điều quy định về biện pháp ngăn chặn: giữ người trong trường
hợp khẩn cấp; một điều quy định về: bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp. Hai là, bổ sung tên Điều 110 để bao hàm nội dung của điều luật. Cụ thể,
Điều 110 có thể có tên: Giữ người và bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp. Để bảo đảm tính ổn định của Bộ luật, em đồng ý với cách sửa đổi thứ hai
nêu trên.
Thứ ba, để đảm bảo sự thống nhất giữa quy định tại Điều 109 với các biện
pháp ngăn chặn cụ thể, em đề xuất sửa đổi Điều 109 như sau: “Để kịp thời ngăn
chặn tội phạm… Cơ quan, người có thẩm quyền trong phạm vi thẩm quyền của
mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp…”
Thứ tư, Về thời hạn quyết định tạm giữ đối với người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp phải được tính từ khi lập biên bản giữ người trong trường hợp
khẩn cấp, có như thế mới đảm bảo quyền của người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp. Bởi vì, từ khi bị giữ họ đã bị hạn chế một số quyền công dân như: Tự
do đi lại, phát ngôn…; đồng thời, nếu trường hợp Viện kiểm sát không phê
chuẩn quyết định bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của Cơ quan điều
tra và sau này không có căn cứ xử lý hình sự người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, trường người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp yêu cầu bồi thường, mới có
cơ sở xác định trách nhiệm cũng như căn cứ để bồi thường [10].

14


C. Kết luận
Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thể hiện tính chất đặc biệt, cấp
bách của việc ngăn chặn tội phạm, đồng thời góp phần ngăn ngừa không cho các
đối tượng bị nghi thực hiện tội phạm gây khó khăn cho các hoạt động tố tụng.
Thơng qua việc tìm hiểu và nghiên cứu về biện pháp ngăn chặn giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, em thấy rằng những quy định trong BTTHS 2015 đã có rất
nhiều điểm mới và ngày càng hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, những quy định ở

BLTTHS 2015 vẫn chưa thực sự đầy đủ và việc áp dụng vẫn cịn nhiều khó
khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn giữ
người trong trường hợp khẩn cấp sẽ tước bỏ, hoặc hạn chế một số quyền con
người, quyền cơ bản của công dân như quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
quyền tự do đi lại... nhưng đồng thời, cũng phải đề cao quyền con người, đảm
bảo quyền con người, quyền cơng dân. Vì thế, cần nhiều sửa đổi, đánh giá, bổ
sung để có thể áp dụng thật hiệu quả vào thực tiễn.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Mạnh Hùng, Giáo trình Luật tố tụng Hình sự Việt Nam, Trường
đại học Kiểm sát Hà Nội, Nxb chính trị quốc gia sự thật.
2. Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
3. Phạm Mạnh Hùng, Bình luận khoa học tố tụng hình sự 2015, Nxb Lao
Động.
4. Hiến pháp 2013
5. Bộ luật tố tụng hình sự 2003
6. Phạm Thị Liên (2021), Biện pháp ngăn chặn: Giữ người trong trường
hợp khẩn cấp được quy định như thế nào trong luật tố tụng hình sự, truy cập lần
cuối ngày 31/10/2021, từ < />7. Nguyễn Văn Phi (2021), Quy định về giữ người trong trường hợp khẩn
cấp 2021, truy cập lần cuối ngày 31/10/2021, từ < />#Nhung_nguoi_co_quyen_ra_lenh_giu_nguoi_trong_truong_hop_khan_cap>.
8. Nguyễn Tú (2017), Một số lưu ý về biện pháp ngăn chặn giữ người
trong trường hợp khẩn cáp trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015, truy cập lần cuối
ngày

31/10/2021,

từ


<

.
16


9. Hồng Đình Dũng (2020), Một số bất cập về biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, Tạp chí tòa án, truy cập lần cuối ngày 31/10/2021, từ <
> .
10. Nguyễn Quốc Hân, “Những vướng mắc khi áp dụng quy định về giữ
người trong trường hợp khẩn cấp và thủ tục bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp”, Tạp chí Kiểm sát số 15/2018.
11. “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp” theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015, truy cập lần cuối ngày 31/10/2021, từ <
/>newsid=41046&cat1ID=3&Cat2id=23> .
12. Đặng Văn Thực (2021), Biện pháp giữ người, bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, truy cập lần cuối ngày 31/10/2021, từ <
/>13. Nguyễn Việt Hà ( 2019), Vướng mắc trong việc áp dụng quy định về
giữ người trong trường hợp khẩn cấp, truy cập lần cuối ngày 31/10/2021, từ <
/>vuong-mac-trong-viec-ap-dung-quy-dinh-ve-giu-nguoi-trong--truong-hop-khancap> .
14. Quang Khoa Toản, BIỆN PHÁP GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP
KHẨN CẤP TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, Luận văn thạc sĩ,
Học Viện Khoa học xã hội, Hà Nội, tháng 7/2020.

17




×