Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

QUY ĐỊNH VỀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG THEO PHÁP LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM HIỆN HÀNH – THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.25 KB, 20 trang )

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MƠN: LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
ĐỀ BÀI: QUY ĐỊNH VỀ TIÊU CHÍ ĐÁNH
GIÁ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG THEO PHÁP
LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH – THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN
Họ và tên : NGUYỄN QUỐC HƯNG
Lớp: K7A
MSSV: 193801010267


MỤC LỤC
A. Mở đầu............................................................................................. 1
B. Nội dung .......................................................................................... 2
I. Lý luận chung ................................................................................ 2
1. Khái niệm Quyền sở hữu công nghiệp .................................... 2
2. Khái niệm và phân loại nhãn hiệu ........................................... 2
3. Nhãn hiệu nổi tiếng .................................................................... 3
II. Thực trạng đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng theo tiêu chí pháp
luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành ......................................... 5
1. Quy định của pháp luật Việt Nam về tiêu chí đánh giá nhãn
hiệu nổi tiếng .................................................................................. 5
2. Khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các tiêu chí đánh
giá nhãn hiệu nổi tiếng .................................................................. 8
III. Kiến nghị hoàn thiện tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng 12
C. Kết luận ......................................................................................... 15


A. Mở đầu
Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu


dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại,
chỉ dẫn địa lí, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống
cạnh tranh không lành mạnh. Đối tượng của quyền sở hữu cơng nghiệp bao gồm nhóm
đối tượng có tính sáng tạo và nhóm đối tượng có tính thương mại. Trong đó, nhãn hiệu
là đối tượng nổi bật trong nhóm đối tượng có tính thương mại với vị trí là dấu hiệu
dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Nhãn hiệu
nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng ln đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế, trở thành một loại vũ khí, một tài sản và là ưu thế vô cùng lớn trong cuộc cạnh
tranh giữa các chủ thể kinh doanh. Sự thành công của các thương hiệu nổi tiếng như
Coca Cola, KFC, Toyota, Apple,… ở khắp các quốc gia trên thế giới mà các thương
hiệu này đặt chân đến đã phần nào chứng minh được tầm quan trọng to lớn của nhãn
hiệu nổi tiếng. Ở Việt Nam, bên cạnh sự xuất hiện của các nhãn hiệu nổi tiếng, các
nhãn hiệu Made in VietNam cũng ngày càng mở rộng uy tín, phát triển mạnh mẽ,
vươn tầm thế giới như Vin, Vinamilk, Vincafe,…. Đối với các doanh nghiệp, việc
được công nhận và bảo hộ về nhãn hiệu nổi tiếng là vơ cùng quan trọng. Từ đó, khẳng
định uy tín, chất lượng cao của doanh nghiệp đồng thời xây dựng nên một môi trường
kinh doanh cạnh tranh lành mạnh. Tuy đã có những quy định về bảo hộ đối với nhãn
hiệu nổi tiếng nhưng trên thực tế, Việt Nam có rất nhiều bất cập vì các yếu tố xác định
nhãn hiệu nổi tiếng chưa rõ ràng. Việc bảo hộ ở Việt Nam vẫn chưa thực sự chặt chẽ,
gây nên nhiều khó khăn trong thực tế áp dụng khiến cho hiệu quả bảo hộ chưa cao.
Đặc biệt, các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng tuy được đưa ra rất nhiều nhưng
mới dừng lại ở mức liệt kê, chưa có sự giải thích, hướng dẫn đầy đủ. Vì thế em quyết
định chọn đề tài “ Quy định về tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật sở
hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành – Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện “ để làm đề tài
tiểu luận kết thúc học phần của mình.

1


B. Nội dung

I. Lý luận chung
1. Khái niệm Quyền sở hữu công nghiệp
Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại,
chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống
cạnh tranh không lành mạnh [1].
2. Khái niệm và phân loại nhãn hiệu
2.1. Khái niệm
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá
nhân khác nhau. Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đồng thời đáp ứng hai điều kiện:
Thứ nhất, dấu hiệu sử dụng làm nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn thấy được, có thể
là dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ảnh ba chiều hoặc kết hợp
các yếu tố trên, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc.
Thứ hai, dấu hiệu đó có khả năng phân biệt hàng hố, dịch vụ của chủ sở hữu
nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác
Căn cứ theo Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009: Nhãn hiệu
phải đăng ký và được Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng bảo hộ là Giấy chứng nhận
đăng ký nhãn hiệu. Chủ sở hữu có tồn quyền đối với nhãn hiệu đang được bảo hộ
[11].
2.2. Phân loại
Nhãn hiệu gồm hai loại cơ bản là nhãn hiệu dùng cho hàng hóa và nhãn hiệu
dùng cho dịch vụ.
Nhãn hiệu dùng cho hàng hóa: Dùng để phân biệt hàng hóa của các cá nhân, tổ
chức kinh doanh khác nhau nhằm mục đích cho biết ai là người sản xuất ra những loại
hàng hóa đó chứ khơng phải hàng hóa đó là gì. Các nhãn hiệu mang tính chất mơ tả, có
sự liên quan hoặc là tên gọi của sản phẩm thì nhãn hiệu đó sẽ khơng có khả năng đăng
ký.
Nhãn hiệu dùng cho dịch vụ: Nhãn hiệu dịch vụ thường được gắn trên các
bảng hiệu dịch vụ để người có nhu cầu hưởng thụ dịch vụ đó có thể dễ dàng nhận biết.
2



Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ, trên cơ sở hai loại nhãn hiệu chính là
nhãn hiệu dùng cho hàng hóa và nhãn hiệu dành cho dịch vụ thì có thể chia ra các loại
nhãn hiệu cụ thể như: nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu liên kết và
nhãn hiệu nổi tiếng.
Nhãn hiệu tập thể: là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các
thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của các cá
nhân, tổ chức kinh doanh khác không phải là thành viên của tổ chức đó ( khoản 17
Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ). Đặc trưng của nhãn hiệu tập thể là nhiều chủ thể có quyền
sử dụng nó nhưng cần lưu ý là khi một tập thể sử dụng nhãn hiệu nhân danh tập thể thì
nhãn hiệu đó không được coi là nhãn hiệu tập thể nữa mà mà nhãn hiệu bình thường vì
nó do một chủ thể sử dụng.
Nhãn hiệu chứng nhận: là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép cá
nhân, tổ chức khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của cá nhân, tổ chức đó để chứng
nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách
thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an tồn hoặc các đặc tính khác của
hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Ví dụ như tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000 được
cơng nhận trên tồn thế giới là loại nhãn hiệu chứng nhận.
Nhãn hiệu liên kết: là các nhãn hiệu do cùng một chủ thể đăng ký, trùng hoặc
tương tự nhau dùng cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự nhau hoặc có liên
quan đến nhau. Nhãn hiệu liên kết tạo sự yên tâm cho người sử dụng sản phẩm, dịch
vụ bởi nó có mối liên kết với các sản phẩm, dịch vụ họ đã sử dụng trước đây. Ví dụ:
Các dịng sản phẩm của Honda về xe máy Wave bao gồm: Wave, Wave RX, Wave
SX… Nhưng tên nhãn hiệu này được gọi là nhãn hiệu liên kết vì nó đáp ứng được ba
điều kiện: Do cùng chủ thể là hãng Hoanda đăng ký, các sản phẩm này đều có tính
năng cơ bản tương tự nhau và cùng nằm trong chuỗi sản phẩm về xe Wave.
Nhãn hiệu nổi tiếng: nhãn hiệu này khác với nhãn hiệu thông thường là ở danh
tiếng của nhãn hiệu đó trong bộ phận cơng chúng. Quy định nhãn hiệu nổi tiếng được
xác lập thông qua thủ tục công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứ khơng

qua thủ tục nộp đơn đăng ký nhãn hiệu như các loại nhãn hiệu thông thường khác [12].
3. Nhãn hiệu nổi tiếng
3.1. Khái niệm
3


Theo khoản 20 Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi, bổ sung 2009,
nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên tồn lãnh
thổ Việt Nam. Ví dụ: Honda, Coca-cola, Microsoft...
3.2. Đặc điểm
Qua định nghĩa đã nêu ở trên thì nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng có nhiều điểm
khác biệt so với nhãn hiệu thông thường. Và sự khác biệt đó được thể hiện thơng qua
những đặc trưng cơ bản của nó:
Là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi. Hay nói cách khác, khi
nhắc đến hàng hóa, dịch vụ nào đó thì người tiêu dùng sẽ nghĩ ngay đến nhãn hiệu đó.
Là nhãn hiệu có căn cứ xác lập quyền, có tiêu chí đánh giá, có cơ chế bảo hộ
riêng, khác hoàn toàn so với nhãn hiệu thông thường.
Là kết tinh của nhiều yếu tố trong suốt một q trình lâu dài. Những yếu tố đó
có thể là uy tín, chất lượng sản phẩm, cung cách phục vụ,…
Là một ưu thế kinh doanh của chủ sở hữu nhãn hiệu. Vì khi được khách hàng
biết đến một cách rộng rãi, được khách hàng tin tưởng thì cơng ty đã có một lợi thế
cạnh tranh rất lớn đối với những nhãn hiệu cùng loại.
Là một tài sản vơ hình có giá trị rất lớn đối với doanh nghiệp [14].
3.3. Thời hạn bảo hộ
Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ vơ thời
hạn tình từ ngày nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng ghi trong quyết định công nhận
nhãn hiệu nổi tiếng. Tuy nhiên cũng không loại trừ trường hợp một nhãn hiệu nổi tiếng
khơng được bảo hộ nữa, đó là khi nhãn hiệu khơng cịn nổi tiến nữa, hay nói cách khác
là khi các tiêu chí làm nhãn hiệu đó trở thành nổi tiếng khơng cịn trên thực tế hoặc
nhãn hiệu đã trở thành tên gọi chung của một loại sản phẩm dịch vụ nhất định [12].

3.4. Quyền của chủ nhãn hiệu nổi tiếng
Chủ nhãn hiệu nổi tiếng có quyền yêu cầu hủy bỏ hiệu lực các giấy chứng
nhận đăng ký nhãn hiệu hoặc đăng ký quốc tế đối với các nhãn hiệu trùng hoặc tương
tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của mình trong hai trường hợp: Sử dụng nhãn hiệu đó
4


cho các hồng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự, sử dụng cho các hàng hóa, dịch vụ
khơng tương tự, gây ra các hậu quả như: có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu
dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ, có khả năng làm giảm danh tiếng, uy tín, khả
năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng.
Chủ nhãn hiệu có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng
biện pháp chống lại hành vi như: sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu
nổi tiếng, sử dụng dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu đó cho hàng
hóa, dịch vụ không cùng loại, không tương tự và không liên quan tới hàng hóa, dịch vụ
mang nhãn hiệu nổi tiếng nếu việc sử dụng đó có khả năng gây nhẫm lẫn về nguồn đốc
hoặc gây ấn tượng xấu, sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng và dấu hiệu với
chủ thể có nhãn hiệu được cơng nhận là nổi tiếng [1].
II. Thực trạng đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng theo tiêu chí pháp luật sở hữu
trí tuệ Việt Nam hiện hành
1. Quy định của pháp luật Việt Nam về tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng
Mặc dù đã được biết đến từ rất lâu, song cho đến nay quy định về thương hiệu
nổi tiếng vẫn còn rất khác nhau trong các điều ước quốc tế cũng như trong pháp luật
các nước. Công ước Paris năm 1883 lần đầu tiên đề cập đến nhãn hiệu nổi tiếng tại
Điều 6bis với nội dung chính là:
Quy định nghĩa vụ bắt buộc của các quốc gia thành viên trong việc từ chối hay
hủy bỏ mọi sự đăng ký cũng như ngăn cấm mọi sự sử dụng của nhãn hiệu hàng hóa mà
nó được coi là sự sao chép, một sự bắt chước, một bản dịch hoặc có thể gây nhầm lẫn
với một nhãn hiệu nổi tiếng;
Quy định về khoảng thời gian cho phép chủ sở hữu nhãn hiệu yêu cầu các cơ

quan có thẩm quyền hủy bỏ sự đăng ký đối với những nhãn hiệu xâm phạm.
Tuy nhiên, Công ước lại không hề đưa ra một định nghĩa chính thức và rõ
ràng. Chỉ có một căn cứ duy nhất để xác định một nhãn hiệu hàng hóa trở nên nổi
tiếng, đó là sự chấp nhận hay thừa nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của quốc
gia nơi nhãn hiệu được đăng ký hay sử dụng. Điều đó khiến cho mỡi quốc gia thành
viên phải tự xây dựng các quy định riêng về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. (investone)
Thuật ngữ “nhãn hiệu nổi tiếng” là một khái niệm pháp lý còn khá mới trong
hệ thống pháp luật Việt Nam. Thuật ngữ này được chính thức quy định đầu tiên tại
5


Điều 6 Nghị định 63/CP277 rằng một nhãn hiệu có thể sẽ khơng được đăng ký nếu
nhãn hiệu đó giống hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu khác đã
được thừa nhận là nhãn hiệu nổi tiếng phù hợp với quy định tại Điều 6bis của Công
ước Paris. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là Nghị định đã khơng có bất kỳ quy định nào cụ
thể hơn để giải thích một cách rõ ràng thế nào là “nhãn hiệu nổi tiếng” ở Việt Nam.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc cơ quan có thẩm quyền sẽ phải tham chiếu đến
khái niệm về nhãn hiệu nổi tiếng do Cơng ước Paris quy định (mặc dù chính bản thân
Cơng ước cũng không đưa ra bất kỳ định nghĩa nào về nhãn hiệu nổi tiếng) cũng như
tham khảo cách thức áp dụng của các quốc gia khác.
Đến năm 2001, Nghị định số 06/2001/NĐ – CP của Chính phủ đã sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 63/CP về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo đó bổ
sung một khoản mục mới tại Điều 2 Nghị định 63/CP, quy định khái niệm nhãn hiệu
nổi tiếng như sau: “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu hàng hoá được sử dụng liên tục
cho sản phẩm, dịch vụ có uy tín khiến cho nhãn hiệu đó được biết đến một cách rộng
rãi.” Đây là một bước tiến có vai trị vô cùng to lớn khi lần đầu tiên khái niệm này
được thể chế hóa trực tiếp qua luật pháp tuy nhiên lại chưa đủ hiệu quả để các bên có
thẩm quyền áp dụng trên thực tế vì những lý do khác nhau như: Thứ nhất, nhãn hiệu
được biết đến một cách rộng rãi nhưng rộng rãi đến mức nào, hay nói cách khác, luật
đã khơng xác định phạm vi nổi tiếng. Thứ hai, luật đề ra định nghĩa nhưng lại khơng

xác định các tiêu chí để phân định nhãn hiệu là nổi tiếng hay khơng. Chính vì vậy,
nghị định này có hiệu lực từ năm 2001 nhưng hầu như khơng có giá trị áp dụng và hết
hiệu lực ngày 21/10/2006
Năm 2005, sự ra đời của Luật sở hữu trí tuệ có thể được coi như là một bước
đột phá trong quá trình phát triển của hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ nói chung và bảo hộ nhãn hiệu nói riêng ở Việt Nam. Trong Luật sở hữu trí tuệ
2005 (bổ sung, sửa đổi năm 2009) cũng như các văn bản hướng dẫn, khái niệm nhãn
hiệu nổi tiếng tiếp tục được đề cập đến trong các điều khoản cụ thể bao gồm Điều
4(20) về giải thích thuật ngữ, Điều 6(1) (a) về nguyên tắc bảo hộ khơng cần đăng ký,
Điều 74(2) (i) về tính phân biệt của nhãn hiệu và Điều 75 về các tiêu chí đánh giá nhãn
hiệu nổi tiếng. Theo quy định Điều 4(20) – Luật SHTT 2005 (bổ sung, sửa đổi năm
2009), nhãn hiệu nổi tiếng được hiểu là “nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng
6


rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Định nghĩa này có vẻ đơn giản và dễ hiểu. Với định
nghĩa này, có thể hiểu rằng một nhãn hiệu nổi tiếng ở Việt Nam không cần phải được
biết đến rộng rãi trên tồn cầu và ngược lại. Nói cách khác, một nhãn hiệu nổi tiếng
trên thế giới vẫn có thể khơng được cơng nhận là nổi tiếng ở Việt Nam nếu nó không
thỏa mãn yêu cầu được biết đến rộng rãi ở Việt Nam [17].
Điều 75 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009 đã đưa ra 8 tiêu chí
đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng cụ thể như sau:
1. Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thơng qua việc
mua bán, sử dụng hàng hố, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo;
2. Phạm vi lãnh thổ mà hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành;
3. Doanh số từ việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc
số lượng hàng hoá đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp;
4. Thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu;
5. Uy tín rộng rãi của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu;
6. Lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu;

7. Số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng;
8. Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư
của nhãn hiệu.
Dựa vào các tiêu chí đánh giá trên, nếu tổ chức hoặc cá nhân muốn ghi nhận
nhãn hiệu của mình là nhãn hiệu nổi tiếng thì có thể thu thập các chứng cứ, tài liệu để
chứng minh nhãn của mình đáp ứng đủ các tiêu chí và chủ sở hữu sẽ phải nộp yêu cầu
xem xét ghi nhận với Cục Sở hữu trí tuệ.
Lưu ý: Để được cơng nhận là nhãn hiệu nổi tiếng, tổ chức, cá nhân phải có
nghĩa vụ cung cấp các tài liệu để chứng minh nhãn hiệu đang sử dụng là nhãn hiệu nổi
tiếng. Căn cứ khoản 1 Điều 35 Thông tư 16/2016/TT-BKHCN, tài liệu chứng minh
nhãn hiệu nổi tiếng bao gồm: Thuyết minh về nguồn gốc, lịch sử, thời gian sử dụng
liên tục nhãn hiệu; Số lượng quốc gia nhãn hiệu đã được đăng ký hoặc được thừa nhận
là nhãn hiệu nổi tiếng; Danh mục các loại hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu;… [13].
7


Đây có thể xem là một bước tiến dài trong việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng của
pháp luật nước ta. Mặc dù có những sự khác biệt giữa các hệ thống pháp luật, song
chúng ta vẫn có thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng.
2. Khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu
nổi tiếng
Như vậy, có thể thấy rắng quy định ở Điều 75 Luật sở hữu trí tuệ là một quy
định vơ cùng mới mẻ, tiến bộ, tuy nhiên, đây mới chỉ là những quy định mở, yêu cầu
các tổ chức, cá nhân thu thập các chứng cứ, bằng chứng liên quan đến quá trình sử
dụng nhãn hiệu để các cơ quan chức năng xem xét, đánh giá, thậm chí có các tiêu chí
khác cũng có thể được sử dụng. Đồng thời, cũng cịn rất nhiều vướng mắc trong quy
định của pháp luật để các cơ quan có thẩm quyển đánh giá và các tổ chức, cá nhân có
cơ hội vận dụng.
Thứ nhất, đó là các quy định mang tính chất định lượng và việc chứng minh
các tiêu chí khơng được hướng dẫn một cách cụ thể, rõ ràng gây khó khăn trong việc

áp dụng trên thực tế. Có thể thấy rằng tồn bộ các tiêu chí được quy định chủ yếu
mang tính thơng tin, chung chung và định tính theo đó trên thực tế, các tiêu chí này
khó có thể được áp dụng một cách hiệu quả. Rõ ràng, các tiêu chí này cần phải được
bổ sung cụ thể hơn, tối thiểu là định lượng được mỡi tiêu chí. Vì vậy, tiêu chí đó nên
được tịa án và các cơ quan có thẩm quyền vận dụng một cách linh hoạt tùy theo thực
tế của từng vụ việc. Trong một số trường hợp đặc biệt, cơ quan có thẩm quyền có thể
áp dụng các tiêu chí khác dựa trên chứng cứ và lập luận do người nộp đơn đưa ra.
Các quy định mang tính định lượng như số lượng các quốc gia, số lượng người
tiêu dùng… Vấn đề đặt ra ở đây là khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét có
một nhãn hiệu có phải là nổi tiếng hay khơng thì các tổ chức, cá nhân cùng phải cung
cấp số lượng bao nhiêu quốc gia mà mình đã đăng ký, 30,50 hay 70, vấn đề tương tự
cũng đặt ra đối với một số người tiêu dùng. Nếu ở các quốc gia khác theo hệ thống
pháp luật Anh Mỹ thì những quy định này thường được áp dụng dựa vào án lệ nhưng
do đặc thù hệ thống pháp luật Việt Nam không xem án lệ như một nguồn gốc của luật.
Vậy cần thông tư điều chỉnh về vấn đề này để dễ dàng áp dụng pháp luật trong thực
tiễn.

8


Pháp luật cũng khơng nói rõ đối với nhãn hiệu nổi tiếng thì phạm vi người tiêu
dùng được xác định như thế nào. Là người tiêu dùng gắn liền với việc sử dụng nhãn
hiệu, sản phẩm mang nhãn hiệu đó hay tất cả những người tiêu dùng, tất cả mọi lĩnh
vực, ngành nghề trên lãnh thổ Việt Nam thì cũng khơng nói rõ.
Thứ hai, có sự mâu thuẫn trong quy định của pháp luật giữa quy định về định
nghĩa nhãn hiệu nổi tiếng ở Khoản 20 Điều 4 và tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng ở
điểm 6 điều 75 Luật sở hữu trí tuệ 2005. Cụ thể, ở Điều 4 chỉ yêu cầu nhãn hiệu nổi
tiếng chỉ cần được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam trong
khi tiếu chí cơng nhận lại nêu số lượng quốc gia công nhận bảo hộ, số lượng quốc gia
coi nó là nhãn hiệu nổi tiếng,…Những tiêu chí này đánh giá sự nổi tiếng ở phạm vi thế

giới. Vì vậy, giữa quy định về khái niệm và quy định về tiêu chí đánh giá nhãn hiệu
nổi tiếng có sự khơng khớp nhau.
Thứ ba, trong các tiêu chí, pháp luật khơng quy định rõ có cần thỏa mãn tất cả
các tiêu chí hay khơng ? hay chỉ cần đáp ứng một số trong số 8 tiêu chí được nêu ra ở
Điều 75 này, hay là ngoài các tiêu chí pháp luật liệt kê tại điều 75 thì cịn xem xét đến
các yếu tố khác, các tiêu chí khác, nếu nó có liên quan hay khơng thì Điều 75 cũng
không xác định rõ mà chỉ liệt kê ra những tiêu chí được xem là nhãn hiệu nổi tiếng chứ
khơng quy định rõ. Từ đó gây ra việc khó khăn trong vận dụng đánh giá trên thực tiễn
cho cả cơ quan có thẩm quyền và tổ chức, cá nhân.
Thứ tư, có thể thấy, có rất nhiều văn bản pháp luật quy định về khái niệm
cũng như tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam, mặc dù các văn bản ra
đời sau có nhiều tiến bộ, mang tính ứng dụng trong thực tiễn hơn các văn bản trước
nhưng khơng thể tránh khỏi tình trạng chồng chéo, khơng thống nhất, điều này cũng
góp phần ảnh hưởng đến việc xác lập quyền sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam.
Vụ án mẫu: Tranh chấp nhãn hiệu “X X-MEN, hình” và “X-MEN”
Ngày 27/6/2003, Công ty Hàng Gia dụng QT thông qua Văn phòng luật sư
Phạm và Liên danh đã nộp Đơn số 4-2003-05427 yêu cầu cấp GCN ĐKNHHH bảo hộ
nhãn hiệu “X X-MEN, hình” cho các sản phẩm hố mỹ phẩm gia dụng thuộc Nhóm 03
và các sản phẩm làm bằng da như: túi xách, dây thắt lưng thuộc Nhóm 18. Ngày
04/10/2004, Cục SHTT ra Thông báo kết quả thẩm định nội dung số 27830/NHHH,
9


theo đó nhãn hiệu “X X-MEN, hình” theo đơn nêu trên khơng được chấp nhận bảo hộ
đối với Nhóm 18 vì tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu “X-MEN” theo
GCNĐKNHHH số 11455, cấp ngày 07/04/1994 bảo hộ các sản phẩm thuộc các Nhóm
09, 16, 25, 28 dưới tên Marvel. Người nộp đơn chấp nhận loại bỏ Nhóm 18 khỏi đơn
đăng ký. Ngày 08/6/2005, Cục SHTT đã ra Quyết định số A5811/QĐ-ĐK cấp GCN
ĐKNHHH số 63481 cho Cty Hàng Gia dụng QT bảo hộ nhãn hiệu “X X-MEN, hình”
[bảo hộ tổng thể, không bảo hộ riêng “X”] cho các sản phẩm thuộc Nhóm 03.

Ngày 08/8/2006 Marvel nộp đơn đề nghị Cục SHTT huỷ bỏ hiệu lực GCN
ĐKNHHH số 63481 “X X-MEN, hình” với lý do khơng đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ vì
trùng với tên nhân vật và các hình ảnh X-Men sử dụng trong các tác phẩm truyện
tranh, phim truyện, và với nhãn hiệu “X-MEN” nổi tiếng của Marvel, cho rằng Cty
hàng gia dụng QT đăng ký và sử dụng nhãn hiệu tương tự nói trên nhằm lợi dụng sự
nổi tiếng của các nhân vật, hình ảnh và nhãn hiệu “X-MEN” của Marvel và gây nhầm
lẫn cho người tiêu dùng. Cục SHTT cho rằng lập luận của Marvel không có cơ sở và
đã ra Cơng văn số 1345/SHTT-TTKN ngày 17/8/2007 bác bỏ yêu cầu của Marvel.
Ngày 25/10/2007 Marvel nộp đơn khiếu nại công văn này của Cục SHTT. Giữ quan
điểm của mình, ngày 22/01/2008 Cục SHTTra Quyết định số 93/QĐ-SHTT không
chấp nhận khiếu nại của Marvel. Ngày 19/ 02/ 2008 Marvel nộp đơn tới Bộ Khoa học
và Công nghệ khiếu nại Quyết định số 93/ QĐ-SHTT của Cục SHTT. Ngày 11/ 7/
2008 Bộ KH-CN đã ra Quyết định số 1428/ QĐ-BKHCN bác bỏ đơn khiếu nại của
Marvel. Cục SHTT và Bộ KH-CN đã dựa trên các căn cứ sau để bác bỏ yêu cầu của
Marvel: Theo Điều 6.1.h, Nghị định 63/CP[1] ngày 24/10/1996và văn bản của Cục
Bản quyền tác giả thì tên nhân vật trong tác phẩm khơng được bảo hộ; Nhãn hiệu “X
X-MEN, hình” bảo hộ theo GCN ĐKNH số 63481 gồm chữ “X” cách điệu và “XMEN” viết hoa đặt trong hình trịn khơng trùng hoặc tương tự với hình ảnh nhân vật
X-Men –là những người đột biến gien với những khả năng siêu phàm trong các tác
phẩm của Marvel. “X-MEN, hình” là nhãn hiệu hàng hóa khơng phải là tác phẩm, do
đó khơng thể áp dụng quy định về xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh
để xem xét, đánh giá việc bảo hộ nhãn hiệu; Marvel không chứng minh được nhãn
hiệu “X-MEN” nổi tiếng tại Việt Nam.Mặt khác, nhãn hiệu “X-MEN” của Marvel
đăng ký cho các sản phẩm văn hóa, gia dụng (video, băng hình, đồ chơi, quần áo, sách
truyện... thuộc các Nhóm 09, 16, 25, 28 chứ khơng phải là các “sản phẩm hóa mỹ
10


phẩm gia dụng” thuộc Nhóm 03 của nhãn hiệu “X-MEN, hình” của Cty hàng gia dụng
QT nên người tiêu dùng tại Việt Nam khó có khả năng liên tưởng hoặc bị nhầm lẫn về
nguồn gốc của các sản phẩm mang nhãn hiệu và nhân vật X-MEN của Marvel.

Bởi vậy, Tòa cho rằng khơng có cơ sở để chấp nhận u cầu khởi kiện củạ
Marvel. Do các bên không kháng cáo, Bản án sơ thẩm đã có hiệu lực [18].
Bình luận: “X-Men” là tên chỉ một nhóm người “có khả năng khác thường và
mỡi người đều có tên gọi khác nhau”; Nguyên đơn đã không tạo ra một nhân vật cụ
thể mang tên “X-Men”, do vậyviệc đăng ký nhãn hiệu “X X-MEN, hình” khơng xâm
phạm tên nhân vật “X-Men” như Ngun đơn cáo buộc. Trong khi đó, hình ảnh “XMEN” của Bị đơn là Người đàn ơng đích thực, khác với hình tượng của các nhân vật
X-Men do Nguyên đơn xây dựng. Tòa đã bác bỏ cáo buộc của Nguyên đơn dựa trên sự
tổng hợp nhiều yếu tố chứ không chỉ căn cứ vào một văn bản của Cục Bản quyền tác
giả để phát xét.
Nhận định nêu trên của Tòa ở một chừng mực nịa đó cịn cụ thể và sâu sắc
hơn khái niệm về nhãn hiệu nổi tiếng tại Khoản 20 Điều 4 của Luật SHTT “Nhãn hiệu
nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt
Nam”.Và phù hợp với các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng tại Điều 75 Luật
SHTT. Nguyên đơn cáo buộc Cục SHTT cấp GCNĐKNHHH số 63481 là xâm phạm
quyền của Nguyên đơn với tên nhân vật “X-MEN”,trong khi đó Điều 6.1.h Nghi định
63/CP quy định nhãn hiệu được bảo hộ nếu“khơng trùng với một hình tượng, nhân vật
đã thuộc quyền tác giả của người khác trừ trường hợp được người đó cho phép”.Như
vậy nếu đơn thuần chỉ có tên nhân vật thì chưa hội tụ đủ các yếu tố của Điều 6.1.h để
có thể bác bỏ việc Cục SHTT cấp GCNĐKNH. Hơn nữa, “X-Men” trong tác phẩm của
Nguyên đơn cũng chưa hẳn là tên một nhân vật cụ thể.Nguyên đơn không làm rõ được
sự tương tự về hình tượng giữa dấu hiệu được bảo hộ theo GCNĐKNHHH số 63481
và nhân vật trong tác phẩm của Nguyên đơn (trong đó sự trùng lặp của yếu tố chữ “XMen” là một thành phần ) nên tính thuyết phục không cao. Chứng cứ về nhãn hiệu nổi
tiếng của Ngun đơn khơng được phân tích kỹ lưỡng, đặc biệt là việc đơn đăng ký
nhãn hiệu X-MEN” tại Hoa Kỳ (Đơn số 78061366, nộp ngày 01/05/2001 tại USPTO,
đã bị coi là rút bỏ) là một luận điểm quan trong để Tịa dựa vào đó bác u cầu của
Ngun đơn.
11


III. Kiến nghị hồn thiện tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng

Thứ nhất, 8 tiêu chí theo Điều 75 Luật SHTT về cơ bản được luật hóa bằng cách
tham chiếu đến 6 yếu tố thuộc Bản khuyến nghị của WIPO năm 1999. Tuy nhiên, cách
quy định chia nhỏ một số yếu tố thành một hoặc vài tiêu chí theo Điều 75 Luật SHTT
là không cần thiết, và mặt khác cũng dễ gây nhầm lẫn cho quá trình áp dụng pháp luật
cũng như gây khó khăn cho việc hướng dẫn các chủ nhãn hiệu cung cấp chứng cứ.
Chẳng hạn như để xem xét tiêu chí số 1 & 3 quy định rằng “số lượng người tiêu dùng
liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua việc mua bán, sử dụng hàng hố, dịch vụ
mang nhãn hiệu hoặc thơng qua quảng cáo” và “doanh số từ việc bán hàng hoá hoặc
cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hoá đã được bán ra, lượng dịch
vụ đã được cung cấp”, theo quan điểm của em, chỉ cần thông qua bằng chứng doanh
thu, lợi nhuận, thị phần là có thể đánh giá được mức độ biết đến hoặc công nhận nhãn
hiệu bởi cơng chúng mà hồn tồn khơng cần phải tách làm 2 tiêu chí như hiện tại. Nói
cách khác, cũng chỉ cần gộp cả 2 tiêu chí lại chúng ta sẽ nhận được yếu tố số 1 của
Bản khuyến nghị của WIPO năm 1999 có tính chất và u cầu tương đương “mức độ
biết hoặc công nhận nhãn hiệu bởi bộ phận cơng chúng có liên quan”.
Thứ hai, vấn đề về yếu tố uy tín. Khơng có từ/cụm từ nào trong 6 yếu tố của Bản
khuyến nghị của WIPO năm 1999 trực tiếp đề cập đến “uy tín” trong khi tiêu chí số 5
của Điều 75 Luật SHTT lại yêu cầu tiêu chí này phải được chứng minh trực tiếp. Tất
nhiên tính chất danh tiếng hay uy tín rõ ràng và khơng cịn tranh cãi là tính chất quan
trọng mang tính quyết định mà phải được đánh giá thận trọng trước khi quyết định một
nhãn hiệu có được coi là nổi tiếng hay không. Tuy nhiên, chủ nhãn hiệu sẽ không thể
cung cấp được bằng chứng chứng minh nào để giúp cơ quan hữu quan thấy ngay lập
tức và trực tiếp uy tín của nhãn hiệu từ chính bằng chứng đó, kể cả dù có thơng qua
xem xét bằng chứng xác thực nhãn hiệu đang xem xét là rất uy tín, nổi tiếng bởi các cơ
quan tổ chức khác bao gồm cả báo chí. Đây cũng chính là lý do mà Trung Quốc đã
loại bỏ cụm từ danh tiếng (reputation), cũng có nghĩa tương tự như uy tín (goodwill),
ngay ở yếu tố đầu tiên trong 5 yếu tố cần xem xét đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng. Vấn đề
ở đây là tính chất uy tín/danh tiếng của nhãn hiệu, vốn có bản chất vơ hình, nằm sâu
bên trong tập hợp nhiều thông tin và bằng chứng khác nhau được cung cấp mà chỉ có
thể cảm nhận được hoặc đánh giá được bằng cách suy luận từ việc đánh giá tổng hợp

toàn bộ các yếu tố cần phải đánh giá chứ khơng phải là tìm cách đánh giá nó một cách
12


trực tiếp. Khẳng định nhận thức về khía cạnh này, quan điểm đồng thuận của Đại hội
đồng WIPO và Hội đồng Cơng ước Paris đều nhất trí rằng khi quyết định liệu một
nhãn hiệu có nổi tiếng hay khơng, cơ quan chức năng phải tính đến mọi yếu tố mà từ
đó có thể suy luận rằng nhãn hiệu đang xem xét là nổi tiếng. Vì vậy, yếu tố này là
khơng cần thiết, gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền [17].
Thứ ba, cần tiến hành sửa đổi Khoản 20 Điều 4 đề không mâu thuẫn với Khoản
1 điều 75. cụ thể tính chất biết đến ở định nghĩa phải được hiểu là biết đến bởi công
chúng đại chúng nhưng tính chất biết đến cần chứng minh ở Điều 75.1 lại chỉ yêu cầu
đối với bộ phận công chúng liên quan. Theo đó, Điều 4.20 nên được sửa lại thành: “
Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu có danh tiếng được biết đến rộng rãi bởi bộ phận
cơng chúng có liên quan tại Việt Nam.”
Thứ tư, Nhà nước cần xây dựng một hệ thống pháp luật nhãn hiệu mang tính
thống nhất, đồng bộ, hiệu quả. Luật về nhãn hiệu hàng hóa ra đời sẽ góp phần quan
trọng đáp ứng những yêu cầu trên. Hầu hết các nước đều ban hành văn bản pháp luật
riêng về sở hữu trí tuệ, trong đó khi điều chỉnh nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng có dẫn
chiếu tới Cơng ước Paris, Hiệp định TRIPS và các văn bản pháp luật quốc tế khác bên
cạnh những quy định riêng, cụ thể, phù hợp cho mình [16].
Thứ năm, pháp luật Việt Nam cần xây dựng những quy định cụ thể, mang tính
định lượng hơn nhằm xác định tiêu chí “ nhãn hiệu nổi tiếng” và “nhãn hiệu đã được
sử dụng và thừa nhận rộng rãi “. Những quy định này phải hướng dẫn và giải thích cụ
thể, chi tiết hơn về cách thức mà các tiêu chí được hiểu và áp dụng. Bên cạnh đó có thể
xây dựng và ban hành mục nhãn hiệu nổi tiếng. Nó sẽ là nguồn tham khảo quan trọng
bên cạnh các tiêu chí khác mà cơ quan có thẩm quyền có thể xem xét trong quá trình
giải quyết vụ việc cụ thể.
Thứ sáu, pháp luật cần làm rõ vấn đề pháp lý liên quan đến việc liệu một nhãn
hiệu nổi tiếng có được bảo hộ ở Việt nam nếu nó chưa được sử dụng hoặc biết đến ở

Việt Nam. Đây là một vấn đề rất quan trọng bởi việc quyết định loại hình bảo hộ hiện
có cho một nhãn hiệu “ nổi tiếng” sẽ có thể liên quan đến việc xử lý tranh chấp trong
những năm tới đây. Theo quan điểm của em dựa trên quy định của Công ước Paris,
Việt Nam cần chấp nhận bảo hộ một nhãn hiệu đã nổi tiếng ở một thành viên của Công
ước Paris mà không cần yêu cầu phải được sử dụng ở Việt Nam. Ít nhất các quyền của
13


chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng theo Công ước Paris được ưu tiên áp dụng so với Luật
Sở hữu trí tuệ của Việt Nam bởi vì Luật của Việt nam tuyên bố một cách rõ ràng rằng
quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là một thành viên có giá trị cao hơn
các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam.
Thứ bảy, cần có quy định giải thích làm rõ các thuật ngữ xuất hiện trong hệ
thống các tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng. Ví dụ như khái niệm “uy tín” là một
khái niệm trừu tượng và khó áp dụng. Hay về phạm vi người tiêu dùng, là người tiêu
dùng gắn liền với việc sử dụng nhãn hiệu, sản phẩm mang nhãn hiệu đó hay tất cả
những người tiêu dùng, tất cả mọi lĩnh vực, ngành nghề trên lãnh thổ Việt Nam thì
cũng khơng nói rõ.
Thứ tám, nên bổ sung quy định về nguyên tắc áp dụng các tiêu chí. Dựa trên đó,
các cơ quan có thẩm quyền sẽ có thêm cơ sở để áp dụng một các hợp lý, tuân theo
những ngun tắc cụ thể nhất định.
Thứ chín, có sự định hướng trong việc đưa ra các tài liệu, chứng cứ chứng minh
cho nhãn hiệu nổi tiếng. Giúp cho các tổ chức, cá nhân có thể phát huy hiệu quả tính
chủ động của mình, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ mười, về thẩm quyền áp dụng các tiêu chí đánh giá để cơng nhận nhãn hiệu
nổi tiếng. Rất cần thiết phải có văn bản hướng dẫn chi tiết về thẩm quyền để giải quyết
một cách hiệu quả nhất.

14



C. Kết luận
Như vậy, có thể thấy rằng vấn đề về nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng và nhãn hiệu
nói chung là một vấn đề thực tiễn, có vai trị vô cùng quan trọng trong xu thế phát triển
hiện đại. Tuy pháp luật Việt Nam đã đưa ra những tiêu chí dựa trên sự tham khảo, học
tập, tuân thủ quy định của quốc tế chung, luôn thay đổi, tiến bộ, phù hợp với xu thế
thời đại. Tuy nhiên vẫn còn có rất nhiều những vướng mắc, phức tạp từ sự mâu thuẫn
trong quy định đến việc các tiêu chí cịn mang tính định lượng, chung chung gây khó
khăn phức tạp cho cơ quan có thẩm quyền áp dụng và cả những cá nhân, tổ chức có
nguyện vọng được cơng nhận về nhãn hiệu của mình. Từ đó, bản thân em đã đưa ra
những kiến nghị của mình về việc chỉnh sửa các tiêu chí cho phù hợp và áp dụng một
cách hiệu quả nhất. Do tầm hiểu biết còn nhiều hạn chế, khơng thể tránh khỏi những
sai sót, mong q thầy cơ góp ý để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin
chân thành cảm ơn.

15


Tài liệu tham khảo
1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, Nxb
Cơng an nhân dân, Hà Nội, 2013.
2. Công ước Paris năm 1883 về Bảo hộ Quyền sở hữu công nghiệp.
3. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
(TRIPS) năm 1994
4. Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2005). Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009), ban hành ngày ngày 29 tháng 11 năm 2005.
5. Chính Phủ (1996). Nghị định số 63/CP Quy định chi tiết về sở hữu công
nghiệp, ban hành ngày 24 tháng 10 năm 1996.
6. Chính Phủ (2001). Nghị định số 06/2001/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 63/CP ngày 24 tháng 10 năm 1996 của Chính phủ quy định chi tiết

về Sở hữu công nghiệp, ban hành ngày ngày 01 tháng 2 năm 2001.
7. Chính Phủ (2006). Nghị định 105/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và Quản lý
nhà nước về sở hữu trí tuệ, ban hành ngày 22 tháng 9 năm 2006.
8. Chính Phủ (2010). Nghị định 119/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của chính phủ Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về Bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ và Quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, ban hành Hà Nội, ban hành ngày 30
tháng 12 năm 2010.
9. Bộ Khoa học và Công nghệ (2007). Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN hướng
dẫn thi hành nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sở hữu trí tuệ về Sở hữu
công nghiệp, ban hành ngày 14 tháng 02 năm 2007.
10. Bộ Khoa học và Công nghệ (2016). Thông tư 16/2016/TT-BKHCN sửa đổi,
bổ sung một số điều của thông tư số 01/2007/TT-BKHCN ngày 14 tháng 02 năm 2007
16


hướng dẫn thi hành nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của
chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật sở hữu trí tuệ
về sở hữu cơng nghiệp, được sửa đổi, bổ sung theo thông tư số 13/2010/TT-BKHCN
ngày 30 tháng 7 năm 2010, thông tư số 18/2011/TTBKHCN ngày 22 tháng 7 năm
2011 và thông tư số 05/2013/TT-BKHCN ngày 20 tháng 02 năm 2013, ban hành ngày
30 tháng 6 năm 2016.
11. Nguyễn Thị Mai (2021), Nhãn hiệu là gì ? Tại sao cần đăng ký bảo hộ nhãn
hiệu độc quyền, truy cập lần cuối ngày 25/7/2021, từ < />12. Tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng , truy cập lần cuối ngày 25/7/2021, từ <
/>%A3n_hi%E1%BB%87u_n%E1%BB%95i_ti%E1%BA%BFng>.
13. Hữu Đức (2020), Nhãn hiệu nổi tiếng là gì? Tiêu chí cơng nhận nhãn hiệu
nổi tiếng? , truy cập lần cuối ngày 25/7/2021, từ < />14. Nhãn hiệu nổi tiếng là gì?, truy cập lần cuối ngày 25/7/2021, từ <
/>15. Lê Tấn Quý (2020) , PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ CÁC NHÃN HIỆU NỔI

TIẾNG, Trường Đại học Luật, Đại học Huế.
16. Nguyễn Thị Hồng Bích (2012), Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật
liên minh Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ử
Việt Nam, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
17. Tiến sĩ PHAN NGỌC TÂM, Luật sư LÊ QUANG VINH (2017), BẢO HỘ
NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM –THỰC TRẠNG VÀ GIẢI
PHÁP HỒN THIỆN, BỘ KHOA HỌC VÀ CƠNGNGHỆ VIỆT NAM.
18. Hồ sơ: Tranh chấp nhãn hiệu “X X-MEN, hình” và “X-MEN” (2021), truy
cập lần cuối ngày 26/7/2021, từ < />17


18



×