Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tín dụng đầu tư phát triển và tập đoàn kinh tế nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.54 KB, 35 trang )

Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
Câu 1: Tìm hiểu về tín dụng đầu tư phát triển nhà nước , liên hệ với thực
tiễn Việt Nam
1. Tổng quan về tín dụng đầu tư phát triển
1.1. Khái niệm
Tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT) nhà nước là hình thức tín dụng nhà nước
nhằm thực hiện mục tiêu cho ĐTPT kinh tế xã hội của đất nước, là quan hệ vay
trả giữa nhà nước và các pháp nhân, thể nhân trong xã hội, được nhà nước quy
định, nhằm mục tiêu thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo định hướng của
nhà nước.
1.2. Đối tượng của tín dụng đầu tư phát triển nhà nước
Đối tượng của tín dụng ĐTPT nhà nước mang đặc trưng về thời gian và
không gian. Nó phụ thuộc vào chính sách phát triển cũng như chiến lược công
nghiệp hóa của mỗi quốc gia. Mỗi quốc gia theo đuổi chính sách công nghiệp
hóa theo hướng thay thế nhập khẩu sẽ xác định đối tượng ưu tiên trong tín dụng
ĐTPT khác với quốc gia theo đuổi chính sách công nghiệp hóa theo hướng xuất
khẩu. Điển hình như các quốc gia theo đuổi chính sách công nghiệp hóa theo
hướng xuất khẩu thì đối tượng của tín dụng ĐTPT là các dự án thuộc các ngành
công nghiệp mũi nhọn, ngành công nghiệp công nghệ cao, các dự án phát triển
cơ sở hạ tầng, các dự án phát triển vùng nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu…
Đối tượng của tín dụng ĐTPT nhà nước mang tính tương đối, nó sẽ thay đổi
khi chiến lược, kế hoạch và hoàn cảnh kinh tế đất nước thay đổi. Một ngành,
một lĩnh vực sau một thời gian được ưu tiên, khuyến khích phát triển đã đủ khả
năng hấp dẫn đầu tư của tư nhân và đầu tư nước ngoài sẽ không còn là đối tượng
được ưu tiên nữa thay vào đó sẽ là các ngành, các lĩnh vực được khuyến khích
phát triển. Do đó, đối tượng của tín dụng ĐTPT nhà nước là không cố định
nhưng xuất phát từ mục đích của nó, đó là ưu tiên nhằm phát triển một số ngành,
lĩnh vực mũi nhọn hoặc kém phát triển để khuyến khích các nguồn vốn khác đầu
1 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
tư vào những ngành, lĩnh vực này, giúp phát huy lợi thế so sánh của đất nước


cũng như tạo sự công bằng trong phát triển giữa các vùng miền.
Việc lựa chọn đối tượng vay vốn tín dụng ĐTPT nhà nước có ý nghĩa quan
trọng trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn này nên cần được tiến hành một
cách khoa học trên cơ sở chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong
một thời kì dài, điều này tạo sự ổn định cho hoạt động đầu tư và đem lại hiệu
quả cao hơn.
1.3. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước
Nguồn vốn tín dụng ĐTPT không chỉ có nguồn vốn ngân sách nhà nước dành
cho ĐTPT mà còn bao gồm nguồn vốn nhàn rỗi của cá nhân, tổ chức trong và
ngoài nước dùng để ĐTPT.
Nhà nước can thiệp vào hoạt động ĐTPT để điều tiết và định hướng đầu tư
theo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Một yếu tố quan trọng đã trở thành lợi
thế trong việc huy động vốn cho tín dụng ĐTPT là nhà nước dùng uy tín của
mình để đảm bảo cho việc hoàn trả vốn, do đó có thể thu hút được các nguồn
ĐTPT trong và ngoài nước với thời gian dài.
1.4. Hình thức của tín dụng đầu tư phát triển nhà nước
a. Trực tiếp
Chính phủ đầu tư trực tiếp hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời
hạn, các điều kiện đảm bảo,…đối với các dự án thuộc lĩnh vực ưu tiên. Ngoài ra,
chính phủ có thể bảo lãnh cho các doanh nghiệp, cá nhân vay vốn của các tổ
chức tín dụng trong và ngoài nước.
b. Gián tiếp
Chính phủ cung cấp các dịch vụ miễn phí hoặc mức phí thấp cho các doanh
nghiệp, cá nhân như các thông tin về thị trường trong và ngoài nước, nghiên cứu
thị trường theo yêu cầu của doanh nghiệp,…
2 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
Hoạt động tín dụng ĐTPT không nhằm mục tiêu thu lợi nhuận nhưng phải
đảm bảo thu hồi đủ vốn và bù đắp chi phí hoạt động. Tín dụng ĐTPT không chỉ
để cao hiệu quả kinh tế, khả năng sinh lời của dự án mà còn xem xét đến những

tác động của dự án đối với việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, những lợi ích mà xã hội thu được từ dự án.
1.5. Tổ chức thực hiện
Nhận thức được vai trò to lớn của sự can thiệp của Chính phủ vào cơ chế tài
chính cũng như tầm quan trọng của tín dụng ĐTPT Nhà nước đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, rất nhiều quốc gia đã thành lập các tổ chức tài
chính phát triển (The development financial institution – DFI) để thực hiện hoạt
động tín dụng ĐTPT Nhà nước và các tổ chức này đã đóng góp nhiều vào sự
phát triển của ngành công nghiệp thông qua việc cung cấp các khoản tín dụng
trung và dài hạn cho các ngành công nghiệp.
Chính sách tín dụng ĐTPT mang tính đặc trưng về thời gian và địa điểm nên
được thực hiện bởi các tổ chức khác nhau và dưới các hình thức khác nhau tùy
thuộc vào chính sách phát triển cũng như điều kiện kinh tế xã hội của các quốc
gia. Các tổ chức thực hiện hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước ở các quốc gia
bao gồm: Ngân hàng công nghiệp, ngân hàng đầu tư, các quỹ hỗ trợ, kho bạc
nhà nước, ngân hàng phát triển( NHPT) … trong đó mô hình NHPT đã ra đời và
phát triển trong gần một thế kỷ qua tại nhiều nước trên thế giới và đã chứng tỏ
được tính ưu việt của nó trong hoạt động tín dụng ĐTPT.
Các tổ chức tài chính phát triển được coi là công cụ đặc biệt quan trọng của
Chính phủ để thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế phù hợp.
Nhiệm vụ của các tổ chức này nhằm cung cấp tín dụng cho các lĩnh vực khuyến
khích đầu tư, lĩnh vực xuất nhập khẩu và lĩnh vực phát triển nông thôn.
Mục đích thành lập tổ chức này là phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế
của đất nước trong từng thời kỳ. Các hoạt động của tổ chức này chủ yếu tập
3 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
trung hỗ trợ vào các lĩnh vực trọng điểm, các ngành then chốt, có vai trò quan
trọng trong tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc dân.
Trong quá trình hoạt động các tổ chức này được phép huy động vốn từ nhiều
nguồn khác nhau, trong đó quan trọng nhất là từ phát hành trái phiếu trong nước

và nước ngoài, khai thác các nguồn nhàn rỗi từ các quỹ bảo hiểm xã hội, tiết
kiệm bưu điện, từ các nguồn vốn hợp pháp khác.
Cơ chế hoạt động của tổ chức này trong thời gian đầu thực hiện có thể có sự
hỗ trợ của Nhà nước để cho vay các dự án đầu tư theo định hướng của chính phủ
với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường. Trong xu thế phát triển chung, tính độc
lập, tính tự chủ về tài chính, tính hiệu quả trong hoạt động nghiệp vụ của tổ chức
thực hiện sẽ ngày càng tăng.
1.6. Vai trò của tín dụng đầu tư phát triển trong nền kinh tế
Tín dụng ĐTPT Nhà nước ra đời nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu
ĐTPT ngày càng lớn của nền kinh tế với sự giới hạn của nguồn lực tài chính
công, nhất là của ngân sách nhà nước (NSNN). Tuy nhiên, cùng với sự phát triển
không ngừng của kinh tế thị trường thì tín dụng ĐTPT Nhà nước ngày càng có
vai trò quan trọng.
Thứ nhất, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế. Tín
dụng ĐTPT là công cụ quan trọng để Nhà nước tài trợ cho các dự án ĐTPT
nhằm xây dựng cơ sở hạn tầng kinh tế xã hội (giao thông, điện lực, thông tin,
thủy lợi, cấp thoát nước …) và phát triển các ngành công nghiệp then chốt (cơ
khí, điện tử- viễn thông, công nghệ sinh học, vật liệu mới… ), do đó góp phần
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mặt khác, việc tập trung nguồn vốn tín dụng ĐTPT cho xây dựng kết cấu hạ
tầng hiện đại và phát triển các ngành công nghiệp then chốt, có khả năng đi tắt
đón đầu cũng là nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, từ đó góp phần đảm bảo sự
phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế.
4 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
Thứ hai, điều tiết vĩ mô các quan hệ cân đối lớn của nền kinh tế và hướng
dẫn hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế. Tín dụng ĐTPT của Nhà nước
được sử dụng như là một công cụ chủ yếu để tài trợ cho các dự án ĐTPT có khả
năng thu hồi vốn trực tiếp. Do đó có thể nói tín dụng ĐTPT như một bàn tay hữu

hình mà Nhà nước phải sử dụng trong quá trình thực hiện chức năng điều tiết vĩ
mô của mình đối với nền kinh tế. Điều đó được thể hiện qua một số khía cạnh
chủ yếu sau:
- Thông qua việc hỗ trợ đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng và các cơ sở
sản xuất, tín dụng ĐTPT góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc
làm.
- Thông qua việc huy động vốn và cho vay đối với các dự án, tín dụng ĐTPT
tác động đến cung – cầu trên thị trường vốn và tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến tỷ lệ
lạm phát và mặt bằng lãi suất của nền kinh tế.
- Thông qua việc đầu tư cho các dự án phục vụ xuất khẩu hoặc đầu tư ra nước
ngoài dưới hình thức hỗ trợ phát triển chính thức ( ODA). Tín dụng ĐTPT còn
góp phần điều chỉnh quan hệ cân đối xuất – nhập khẩu, đồng thời tác động đến
trạng thái cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia, từ đó ảnh hưởng đến tỷ giá
hối đoái.
- Thông qua lãi suất huy động, tín dụng ĐTPT góp phần điều tiết tỷ lệ giữa
tích lũy và tiêu dùng của dân cư, đồng thời thông qua việc quy định đối tượng và
điều kiện được hưởng ưu đãi, tín dụng ĐTPT góp phần định hướng đầu tư của
các chủ thể trong nền kinh tế vào các ngành, các vùng và lĩnh vực mà nhà nước
khuyến khích phát triển
Thứ ba, góp phần giải quyết khó khăn của NSNN trong thực hiện nhiệm vụ
chi ĐTPT, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Sự ra đời của tín
dụng ĐTPT nhà nước đã làm thu hẹp phạm vi các dự án được cấp phát không
hoàn trả từ NSNN. Thay vào đó chủ đầu tư phải sử dụng các nguồn thu từ dự án
để hoàn trả toàn bộ số vốn đã vay nhà nước, và số vốn này lại được sử dụng để
5 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
cho vay đối với các dự án khác. Như vậy nguồn vốn tín dụng ĐTPT đã góp phần
tích cực giải quyết khó khăn của NSNN thông qua việc hỗ trợ thực hiện nhiệm
vụ chi ĐTPT của NSNN. Mặt khác, do phải hoàn trả số vốn vay (cả gốc và lãi)
nên chủ đầu tư phải cân nhắc kỹ lưỡng trong việc lựa chọn các phương án đầu tư

có khả năng sinh lời cao, đồng thời tìm cách giảm những khỏan chi không cần
thiết. Điều đó cũng có nghĩa là việc tài trợ cho các dự án thông qua tín dụng
ĐTPT của nhà nước góp phần hạn chế tình trạng dàn trải, thất thoát, lãng phí
trong đầu tư, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Thứ tư, góp phần nâng cao vị thế của quốc gia, tạo điều kiện mở rộng và
phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại. Đối tượng đầu tư của tín dụng ĐTPT chủ
yếu là các ngành công nghiệp mũi nhọn, do đó, khi nguồn vốn này được sử dụng
hiệu quả sẽ đưa vị thế của quốc gia lên cao. Từ đó, tạo dựng được niềm tin cho
các nhà đầu tư nước ngoài, dẫn đến việc thu hút nguồn vốn ODA, FDI trở nên
dễ dàng hơn.
2. Thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư phát triển tại Việt Nam
2.1. Tổ chức thực hiện
Ở Việt Nam, trong mỗi thời kỳ hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước được
giao cho các tổ chức khác nhau thực hiện.
a. Giai đoạn trước 1990
Theo nghị định 177 – TTg ngày 26/4/1957 của Thủ tướng Chính phủ, Ngân
hàng kiến thiết Việt Nam được thành lập với chức năng cơ bản: cung cấp vốn
kiến thiết cơ bản theo kế hoạch và dự toán Nhà nước duyệt; quản lý toàn bộ vốn
Ngân sách Nhà nước dùng vào kiến thiết cơ bản. Bên cạnh Ngân hàng kiến thiết
Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng thực hiện cấp vốn đầu tư xây
dựng cơ bản. Điều này tạo ra sự chồng chéo, khó tập trung quản lý hoạt động
ĐTPT của Nhà nước.
Trước yêu cầu giải quyết tốt mối quan hệ giữa cấp phát và cho vay vốn Nhà
nước, ngày 24/6/1981, Hội đồng chính phủ đã ra quyết định 259- CP chuyển
6 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
Ngân hàng kiến thiết Việt Nam thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam
trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
b. Giai đoạn 1990 – 1994
Từ năm 1990 Nhà nước cấp vốn cho Ngân hàng đầu tư và Xây dựng để hình

thành nguồn vốn tín dụng đầu tư và ngân hàng có trách nhiệm huy động thêm
nguồn vốn khác để thực hiện cho vay đầu tư. Ngân hàng đầu tư và Xây dựng
Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, thực
hiện thêm chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng, chủ yếu
trong lĩnh vực ĐTPT.
Hoạt động tín dụng ĐTPT trong giai đoạn này vẫn mang tính chất bao cấp,
ưu đãi quá lớn, được thực hiện chủ yếu dưới hình thức cấp phát, không hoàn lại.
Cơ chế thực hiện mang nặng tính hành chính, bao cấp.
c. Giai đoạn 1995 – 1999
Trước nhu cầu nâng cao hiệu quả tín dụng ĐTPT Nhà nước, thu hút các
nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho ĐTPT đồng thời tách bạch dần hoạt động
cho vay chính sách ra khỏi vay thương mại, Chính phủ đã thành lập Tổng cục
ĐTPT, trực thuộc Bộ Tài chính, với nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước về Tài chính ĐTPT, tổ chức việc thực hiện
việc cấp phát vốn Ngân sách Nhà nước đầu tư và vốn tín dụng ưu đãi của Nhà
nước đối với các dự án, mục tiêu, chương trình theo danh mục do Chính phủ
quyết định hàng năm.
Cũng trong thời gian này, Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia được thành lập để huy
động vốn và cho vay đối với các dự án ĐTPT các ngành, nghề, thuộc diện ưu đãi
và các vùng kinh tế khó khăn theo quy định của Chính phủ. Quỹ hỗ trợ đầu tư
quốc gia là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động theo điều lệ do Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt và chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ tài chính.
7 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
Như vậy trong thời gian từ 1995 – 1999, hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước
được nhiều tổ chức thực hiện,đó là: Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam,
Tổng cục ĐTPT, trực thuộc Bộ tài chính, Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia thuộc
Chính phủ và các Ngân hàng thương mại quốc doanh khác. Mỗi đầu mối cho
vay và quản lý nhiều chương trình khác nhau, làm cho nguồn vốn ĐTPT của
Nhà nước bị phân tán, giảm hiệu quả vốn đầu tư,gây khó khăn trong quản lý

vốn.
d. Giai đoạn 2000 – 2006
Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới toàn diện cơ chế quản lý kinh tế và cơ
chế quản lý tín dụng ĐTPT của Nhà nước, nhằm góp phần thực hiện chủ trương
phát huy nội lực, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, nâng cao hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế theo tinh thần, nghị quyết TW 4 và TW 6 lần 1
khóa VIII, tháng 6 năm 1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/1999/NĐ
– CP về tín dụng ĐTPT của Nhà nước, đồng thời thành lập Quỹ hỗ trợ phát
triển( QHTPT) theo Nghị định số 50/1999/NĐ – CP ngày 8/7/1999 để thực hiện
chính sách tín dụng ĐTPT Nhà nước.
QHTPT chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/2000 với những nhiệm vụ:
huy động vốn, tiếp nhận và quản lý các nguồn vốn của Nhà nước để thực hiện
chính sách tín dụng ĐTPT Nhà nước thông qua các hình thức cho vay đầu tư,
bảo lãnh tín dụng đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu,
cho vay theo hiệp định của Chính phủ và thực hiện một số nhiệm vụ khác được
Thủ tướng Chính phủ giao
e. Giai đoạn 2006 – nay
Năm 2006 Việt Nam ra nhập WTO đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế đồng thời mở ra các cơ hội và thách thức lớn. Đứng trước yêu cầu hội
nhập là: thực hiện tốt các cam kết về giảm bao cấp khi ra nhập WTO và nâng
cao hoạt động ĐTPT của nền kinh tế. Ngân hàng phát triển Việt Nam (NHPT)
được thành lập ngày 19/5/2006 theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số
8 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
108/2006/QĐ – TTg trên cơ sở tổ chức lại hệ thống QHTPT để thực hiện chính
sách tín dụng ĐTPT và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
NHPT có tư cách pháp nhân,có vốn điều lệ, có con dấu, được mở tài khoản
tại Ngân hàng Nhà nước, kho bạc Nhà nước, các Ngân hàng thương mại trong
nước và nước ngoài, được tham gia hệ thống thanh toán với các ngân hàng và
cung cấp dịch vụ thanh toán theo quy đinh của Pháp luật. NHPT kế thừa mọi

quyền lợi, trách nhiệm từ QHTPT, nhưng hoạt động chuyên nghiệp hơn, có
quyền lợi và trách nhiệm cao hơn, thể hiện tốt hơn vai trò là công cụ chính sách
của Chính Phủ trong hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước.
2.2 Đối tượng đầu tư
Nghị định 106 năm 2004 đã quy định lại về đối tượng hưởng ưu đãi trong đó
không phân biệt địa bàn đầu tư và thu hẹp các đối tượng được hưởng ưu đãi so
với nghị định 43. Từ gần 40 nhóm đối tượng giảm xuống còn trên 14 nhóm đối
tượng. Các đối tượng vay vốn tín dụng thuộc các ngành công nghiệp nặng bị
thắt chặt thì các ngành công nghiệp chế biến nông – lâm – thủy hải sản lại được
mở rộng diện ưu đãi. Các đối tượng tập trung vào các lĩnh vực, sản phẩm quan
trọng cần khuyến khích của nền kinh tế như dự án trồng rừng nguyên liệu giấy,
bột giấy, dự án sản xuất giống gốc, giống mới; dự án cung cấp nước sạch, các dự
án xây dựng nhà máy thủy điện lớn, dự án sản xuất ô tô chở khách; sản xuất và
lắp ráp đầu máy xe lửa; đầu tư nhà máy đóng tàu biển…
Từ năm 2006 đến nay, để thực hiện tốt các cam kết khi gia nhập WTO, đối
tượng hưởng ưu đãi cũng được quy định lại trong danh mục đối tượng của tín
dụng ĐTPT đi kèm với Nghị định 151. Theo đó danh mục các đối tượng hưởng
ưu đãi tín dụng đầu tư được phân thành năm nhóm vốn:với quy định không phân
biệt địa bàn đầu tư và không phân biệt loại hình doanh nghiệp.Cụ thể bao gồm:
Nhóm I: Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội.
Nhóm II: Nông nghiệp,nông thôn.
9 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
Nhóm III: Công nghiệp.
Nhóm IV: Các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn,
đặc biệt khó khăn, dự án tại vùng đồng bào dân tộc Khơme sinh sống tập trung,
các xã thuộc chương trình 135 và các xã biên giới thuộc chương trình 120, các
xã vùng bãi ngang.
Nhóm V: các dự án cho vay theo Hiệp định của Chính phủ, các dự án đầu tư
ra nước ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Để đầy mạnh chiến lược xuất khẩu phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và tận dụng thời gian trước khi các mặt hàng xuất khẩu bị
cấm hỗ trợ, hoạt động hỗ trợ cho xuất khẩu cũng được tăng cường. Tuy nhiên,
các đối tượng hưởng ưu đãi xuất khẩu cũng bị thu hẹp để phù hợp với các thông
lệ quốc tế khi gia nhập WTO. Các mặt hàng hỗ trợ xuất khẩu cũng được quy
định theo danh mục riêng, cụ thể gồm bốn nhóm hàng chính:
Nhóm I: Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ hải sản.
Nhóm II: Nhóm hàng thủ công mỹ nghệ.
Nhóm III: Nhóm hàng sản phẩm công nghiệp.
Nhóm IV: Máy tính nguyên chiếc,phụ kiện máy tính và phần mềm tin học.
Với sự thay đổi trong quy định về đối tượng hưởng trợ cấp ưu đãi tín dụng
ĐTPT, Nghị định 151 đã tỏ ra phù hợp hơn với bối cảnh kinh tế đất nước và
chiến lược phát triển kinh tế trong giai đoạn hội nhập này.
2.3. Nguồn vốn hoạt động
Nghị định 106 đã quy định cụ thể, rõ ràng hơn về nguồn vốn hoạt động so
với nghị định 43. Nguồn vốn được chia thành: Vốn NSNN và vốn QHTPT huy
động. Trong đó, vốn từ phát hành trái phiếu Chính phủ được giao cho QHTPT
phát hành và thuộc về vốn QHTPT huy động. Đây là sự thay đổi trong chính
sách thể hiện rõ sự đổi mới theo hướng giảm bao cấp, nhằm khai thác tối đa
10 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
nguồn lực xã hội cho sự phát triển và nâng cao hơn nữa tính tự chủ, độc lập của
tổ chức thực hiện hoạt động tín dụng ĐTPT.
Đến nay, nguồn vốn hoạt động ngày càng được mở rộng thêm từ nhiều nguồn
theo hướng giảm bao cấp về vốn ngân sách và tăng nguồn vốn từ huy động các
nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội. Ngoài hình thức huy động phát hành trái phiếu
Chính phủ, NHPT được quyền phát hành trái phiếu Ngân hàng phát triển và kỳ
phiếu, chứng chỉ tiền gửi theo quy định. Ngoài ra, nguồn vốn vay của công ty
dịch vụ tiết kiệm bưu điện, Bảo hiểm xã hội, các tổ chức tài chính, tín dụng
trong và ngoài nước và nguồn vốn uỷ thác cũng đóng góp một lượng vốn tương

đối lớn dành cho nhu cầu ĐTPT.
2.4. Hình thức tín dụng đầu tư phát triển
Cùng với sự điều chỉnh về đối tượng hưởng ưu đãi thì các hình thức tín dụng
ĐTPT cũng được điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Theo đó phân thành hai
mảng hoạt động chính:Tín dụng đầu tư (TDĐT) và tín dụng xuất khẩu (TDXK).
Tín dụng đầu tư vẫn gồm ba hình thức như cũ. Tín dụng xuất khẩu lại được
mở rộng ra thành ba hình thức:cho vay xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu,
bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Để đảm bảo hiệu quả cho hoạt động tín dụng ĐTPT và giảm gánh nặng cho
ngân sách, hình thức cho vay sẽ có những thay đổi cơ chế: như lãi suất cho vay
sẽ tiến sát đến lãi suất thị trường và mở rộng các điều kiện ưu đãi khác như thời
hạn cho vay,điều kiện cho vay.
Sự thay đổi này rất phù hợp với xu hướng chung của các nước, đồng thời
nâng cao hiệu quả trong hoạt động nghiệp vụ của tổ chức thực hiện, tiến tới phát
triển bền vững nguồn tín dụng.
11 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
2.5. Đánh giá hoạt động của ngân hàng phát triển giai đoạn 2006 – nay
2.5.1. Kết quả đạt được
Giai đoạn 2006-2012, kinh tế Việt Nam gặp những biến động mạnh, mặc dù
mới gia nhập WTO nhưng đã trải qua những thăng trầm khi thi lạm phát tăng
cao, khi thì suy giảm tăng trưởng, kinh tế phát triển chủ yếu theo chiều rộng, sức
cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Hệ thống ngân hàng vẫn tăng trưởng về quy mô
song cũng đang bộc lộ những vấn đề về rủi ro, thiếu thanh khoản, thị trường
chứng khoán sụt giảm mạnh. Trong bối cảnh đó, NHPT thực hiện chính sách
TDĐT và TDXK của Nhà nước một cách khá thành công. Với tư cách là công
cụ tài chính của Chính phủ, nguồn vốn tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của
Nhà nước đã góp phần:
Thứ nhất, Tạo dựng được khối tài sản hỗ trợ khá lớn.Đến cuối năm 2011,
NHPT quản lý cho vay gần 2.500 dự án với số vốn theo hợp đồng tín dụng gần

200.000 tỷ đồng, trong đó dự nợ các dự án trong nước chiếm khoảng 50% tổng
dư nợ. Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước tăng trưởng khá nhanh, bình quân gần
17%/năm, đạt gấp hơn 2 lần so với thời điểm 2006. Vốn tín dụng Nhà nước thực
hiện các chương trình kinh tế của Chính phủ: Chương trình kiên cố hóa kênh
mương; Chương trình tôn nền vượt lũ và hạ tầng cụm tuyến dân cư vùng Đồng
bằng Sông Cửu Long… Cùng với đó, tín dụng nhà nước còn cho vay lại trên
400 dự án với số vốn gần 10 tỷ USD, trên 100.000 tỷ đồng vay xuất khẩu; thực
hiện bảo lãnh gần 300 dự án và 1.700 phương án sản xuất kinh doanh với số vốn
lên tới gần 16.000 tỷ đồng; thực hiện hỗ trợ sau đầu tư cho gần 3.000 dự án với
tổng số vốn hỗ trợ theo hợp đồng cho cả dự án gần 4.000 tỷ đồng(tổng số vốn
đầu tư của các dự án được hỗ trợ vào khoảng 160.000 tỷ đồng). Bên cạnh đó,
Tín dụng Nhà nước còn hỗ trợ thực hiện quản lý cấp phát, thanh toán các dự án
Thủy điện Sơn La; cho vay đầu tư quốc lộ 78 sang Capuchia, đường 2E sang
Lào, các dự án đầu tư trồng cây cao su, nhà máy điện tại Lào, Đường ô tô cao
tốc Hà Nội-Hải Phòng
12 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
Thứ hai, Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước đã khẳng định vai trò “vốn
mồi”, thu hút các nguồn vốn ngân hàng thương mại, vốn tư nhân và các nguồn
vốn khác trong xã hội tham gia đầu tư các dự án phát triển. Bằng nguồn vốn này
trong hơn 5 năm qua, đã góp phần thúc đẩy huy động các nguồn lực xã hội được
khoảng 450.000 tỷ đồng để đầu tư gần 2.200 dự án thuộc các lĩnh vực ưu tiên
được Nhà nước khuyến khích. Bên cạnh đó, các hoạt động hỗ trợ gián tiếp của
NHPT như hỗ trợ sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng cũng góp phần tích cực huy
động các nguồn lực xã hội cho ĐTPT, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, giúp các
doanh nghiệp huy động được từ các tổ chức tín dụng với tổng số vốn lên tới
hàng trăm ngàn tỷ đồng trong giai đoạn vừa qua.
Thứ ba, NHPT đã hình thành kênh huy động vốn mới cho tăng trưởng và
phát triển kinh tế và thức đẩy sự phát triển của thị trường tài chính còn non trẻ
của Việt Nam. Trái phiếu do NHPT phát hành là công cụ nợ quan trọng, được

niêm yết trên thị trường chứng khoán, chiếm bình quân 25% tổng giá trị niêm
yết toàn thị trường, góp phần đa dạng hóa các công cụ nợ và tăng lượng hàng
hóa trên thị trường chứng khoán, gia tăng sự tích tụ tài chính, thúc đẩy sự phát
triển của thị trường vốn, đặc biệt vốn dài hạn.
Thứ tư, Tín dụng đầu tư của Nhà nước góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế và xuất khẩu của đất nước. Các chương trình/dự án trọng điểm nổi bật là:
Thủy điện Sơn La và các dự án về ngành điện (bao gồm cả sản xuất và phân
phối điện), Lọc dầu Dung Quất, các nhà máy xi măng, luyện thép, cơ khí trọng
điểm, vệ tinh Vinasat, phân bón DAP Hải Phòng, Đạm Ninh Bình, Đạm Hà Bắc,
Apatit Lào Cai, Đóng tàu biển đã góp phần tăng cường cơ sở vật chất kinh tế
cho nền kinh tế. Với trên 150 dự án nguồn điện, lưới điện (hệ thống đường dây,
trạm biến áp), góp phần đưa công suất phát điện tăng thêm 6.000 MW; xây dựng
mới hơn 1.000 km đường dây 500 KV, gần 3.000 km đường dây 220 KV và 110
KV; hàng trăm trạm biến áp công suất các loại được đưa vào sử dụng đồng bộ
với các dự án nguồn và lưới điện. Đầu tư sản xuất 32 dự án đầu tư nhà máy xi
13 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
măng (khoảng 52 triệu tấn/năm), trên 120 dự án đầu tư cơ sở đóng mới, sửa
chữa tàu biển, mua mới tàu biển, hỗ trợ đầu tư cải tạo, nâng cấp, mở rộng các cơ
sở đóng tàu và đầu tư vào các dự án sản xuất sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu của
ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam, các dự án đầu tư đóng mới toa xe đường
sắt, 16 dự án lớn ngành hóa chất, 80 dự án công nghiệp chế biến Đầu tư từ vốn
tín dụng Nhà nước trong giai đoạn này luôn đồng điệu với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế đã thể hiện tính dẫn dắt và tác động tích cực của nguồn vốn tín dụng Nhà
nước với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Thứ năm, NHPT đã góp phần, phát triển nông nghiệp nông thôn, bảo đảm an
sinh xã hội, phát triển vùng miền và bảo vệ môi trường. Các dự án vay vốn tín
dụng của Nhà nước đầu tư vào một số lĩnh vực như: trồng rừng nguyên liệu và
trồng cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và

chế biến các sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm cây công nghiệp, lâm sản, thuỷ
hải sản và thực phẩm; chế biến thức ăn gia súc và thức ăn nuôi tôm; sản xuất và
chế biến muối công nghiệp và muối ăn; đầu tư thiết bị phục vụ nông nghiệp, cơ
khí nông nghiệp Kết quả cho vay đã góp phần đầu tư xây mới trên 100.000 km
kênh mương, trên hàng trăm ngàn km đường giao thông nông thôn được bê tông
hóa, xây dựng hạ tầng của trên 900 cụm tuyến dân cư ; trồng mới, chăm sóc,
quản lý bảo vệ gần 300.000 ha rừng; trồng cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả
khoảng gần 50.000 ha. Ngoài ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế-xã
hội địa phương, các dự án Trồng cao su của Binh đoàn 15, các dự án viễn thông
công nghệ cao, các dự án trồng rừng và cây công nghiệp tuyến biên giới Việt
Nam-Lào-Cam Pu chia còn có ý nghĩa về đảm bảo an ninh quốc phòng của đất
nước. Các dự án an sinh xã hội (trường học, bệnh viện, xử lý rác thải, cấp nước
sạch…) với gần 180 dự án trọng điểm đã góp phần tích cực vào tăng trưởng
kinh tế, cải thiện sức khỏe của nhân dân và môi trường sống.
14 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
2.5.2. Hạn chế
Những đóng góp về tài sản của nguồn vốn tín dụng Nhà nước được đánh giá
là rất lớn. Tuy nhiên, nếu đặt tổng giá trị tài sản, dư nợ, kim ngạch hỗ trợ… từ
nguồn tín dụng Nhà nước bên cạnh tổng tài sản của cả nền kinh tế thì chắc chắn
con số khiêm tốn này chưa thể nói hết được ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng
của nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước.
Việc so sánh tín dụng chính sách của Ngân hàng Phát triển với tín dụng
thương mại có thể dẫn đến cách hiểu chưa toàn diện, tổng thể về bản chất của
nguồn vốn đặc thù này. Đây chính là những tồn tại trong việc chưa thể chế hóa
được sự tồn tại tất yếu của NHPT trong xóa cơ chế quản lý tập trung quan liêu
bao cấp. Thông qua nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước mà chúng ta đã
không phải trải qua liệu pháp xốc trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp, sang hoạt động theo cơ chế thị trường, không phải
chứng kiến những cảnh đổ vỡ hàng loạt, những căng thẳng xã hội khi chuyển

đổi nền kinh tế, để nền kinh tế thích nghi dần với những cơ chế hoạt động,
những điều kiện mới của thị trường.
Chưa nhấn mạnh đến vai trò điều tiết chính sách của tín dụng đầu tư và tín
dụng xuất khẩu trong việc thực hiện các chính sách tài khóa của Chính phủ trong
từng thời kỳ. Đặc biệt là chính sách đầu tư, nên những kết quả đạt được chừng
nào đó bị “lu mờ” bởi các dự án đầu tư mang tính thương mại cao hoặc các dự
án đầu tư hoàn toàn sử dụng từ vốn ĐTPT của NSNN hàng năm.
Hơn nữa, việc thực hiện vai trò bù đắp khoảng trống thị trường không cho
phép những kết quả hoạt động của NHPT so sánh với bất kỳ nguồn vốn vay
thương mại nào bởi tính không đồng nhất của đơn vị so sánh, cũng như chúng ta
so sánh trong toán học, rằng 2 con gà lớn hơn 1 con trâu vậy. Việc đánh giá kết
quả và hiệu quả hoạt động của NHPT phải căn cứ trên những cơ sở dữ liệu đầu
vào và cơ sở dữ liệu đầu ra.
15 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
Nếu coi NHPT như là hộp đen thì có thể khẳng định nó hoạt động tốt khi kết
quả hoạt động đáp ứng yêu cầu đặt ra, nếu đầu vào (theo chỉ định của Nhà nước)
thông qua hộp đen đó trở thành đầu ra đạt được yêu cầu của thị trường và quản
lý của Nhà nước. Chẳng hạn, mong muốn chỉ cần 1.000 tỷ đồng chi phí đầu vào
mà đầu ra phải đảm bảo cho được 40.000 tỷ đồng; đầu vào là các khoản vay
được đánh giá là nhóm 4, nhóm 5 nhưng đầu ra phải là nợ nhóm 3, 2 hoặc 1; đầu
vào là nợ xấu 100% và đầu ra phải là nợ xấu 30%; đầu vào là sự vô định và đầu
ra phải là định hướng cụ thể, rõ ràng…Có như vậy thì việc nhận diện kết quả và
hiệu quả hoạt động của NHPT mới có ý nghĩa về so sánh. Bên cạnh đó, vai trò
tham mưu trong các chính sách sẽ được lượng hóa và thể hiện thông qua kết quả
hoạt động cụ thể, của từng định hướng, giải pháp của hệ thống chính sách tín
dụng của Nhà nước.
3. Một số giải pháp kiến nghị
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của mô hình tài trợ phát triển của
Nhà nước trong tiến trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế theo

hướng thị trường có sự quản lý của Nhà nước, cần thiết phải xây dựng được cơ
sở lý luận và thực tiễn để NHPT hoạt động hiệu quả và thực hiện tốt được sứ
mạng của mình.
Thứ nhất, Cần khẳng định và nhận thức đúng về sự phát triển tất yếu của
nền kinh tế đang phát triển. Nền kinh tế đang phát triển có tính đặc thù, đặc biệt
nền kinh tế nước ta còn yếu kém so với các nước công nghiệp phát triển thì nhu
cầu về đầu tư là rất lớn, đặc biệt là đầu tư vào các lĩnh vực hạ tầng kinh tế - kỹ
thuật. Đầu tư và lĩnh vực hạ tầng có đặc tính là khả năng sinh lời trực tiếp khá
thấp so với các dự án đầu tư thương mại khác, tuy nhiên, đây chính là cơ sở hạ
tầng tạo động lực và thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế khác. Thí dụ: sau khi đầu tư
xong con đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai thì chắc chắn sẽ mở ra rất nhiều có
hội cho các dự án đầu tư vùng núi phía Bắc, tính khả thi của các dự án này sẽ
tăng lên khi chi phí vận chuyển, thời gian đi lại được giảm đáng kể; hoặc khi dự
16 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
án nhà máy thủy điện Sơn La vào hoạt động thì điều kiện về phụ tải có điều kiện
tăng nhanh hơn, chính là động lực cho các dự án thương mại phát huy hiệu quả
cao hơn. Cùng với đó, tiềm lực kinh tế của các thành phần kinh tế còn chưa
mạnh nên chắc chắn đòi hỏi phải có những định chế tài chính đứng ra để đảm
đương việc đầu tư này, thí dụ: Nhật, Đức…sau chiến tranh thế giới thứ 2 thì đều
hình thành định chế tài trợ phát triển nhằm mục đích hỗ trợ tái thiết đất nước.
Đến khi nhu cầu tái thiết đất nước không còn thì tổ chức tài trợ phát triển sẽ
được chuyển sang hình thức thương mại, cổ phần hóa như Nhật, Singapor,
Pháp…
Thứ hai, Cần nhận thức rõ ràng và đầy đủ về vai trò góp phần bù đắp
khoảng trống của cơ chế thị trường của NHPT. Cơ chế thị trường, với bàn tay
vô hình đã tạo nên sức hút các nhà đầu tư vào các lĩnh vực, dự án có khả năng
sinh lời cao theo phương châm tối đa hóa lợi ích, lợi nhuận. Do đó, các nhà đầu
tư, với nguồn lực có hạn của mình sẽ lựa chọn các dự án có tỷ suất sinh lời cao.
Cũng cần lưu ý rằng do Nhà nước đang hạn chế nắm giữ cổ phần của các ngân

hàng thương mại quốc doanh, tỷ trọng vốn Nhà nước trong ngành ngân hàng
đang nhỏ đi từ 87% (năm 2005) xuống còn 34% (năm 2010) nên việc can thiệp
trực tiếp vào công cuộc kinh doanh của các ngân hàng thương mại đang trở nên
khó hơn.
Khi tiềm lực kinh tế mạnh lên, các cơ hội đầu tư giảm dần theo quy luật tỷ
suất lợi nhuận bình quân giảm dần, các cơ hội đầu tư đem lại tỷ suất lợi nhuận
cao ít hơn sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư tìm kiếm các cơ hội đầu tư có tỷ suất sinh
lợi thấp hơn. Điều này đã xảy ra với Nhật Bản trong thời gian hơn 1 thập kỷ qua,
tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển thì các cơ hội đang tư sẽ xuất hiện
nhiều hơn chứ chưa hề ít đi khi mà đầu tư công tăng lên và phát huy hiệu quả,
hoặc có những tiến bộ đáng kể trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cách mạng
khoa học kỹ thuật.
17 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
Thứ ba, Phải xác định, rằng Ngân hàng phát triển là định chế điều tiết chính
sách tài chính-tiền tệ của Chính phủ. Do định chế tài trợ phát triển như NHPT
không cần dự trữ bắt buộc, chính phủ bảo đảm khả năng thanh toán, chủ yếu huy
động vốn dài hạn và tài trợ cho các dự án đầu tư trung và dài hạn nên khả năng
tạo tiền thông qua tổ chức này là không lớn và hoạt động của tổ chức này không
ảnh hưởng nhiều đến chính sách tiền tệ nếu so sánh với chính sách tài khóa quốc
gia. Cũng chính vì thế mà khi điều chỉnh chính sách lãi suất, thông thường
không ảnh hưởng đến chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước. Tuy nhiên, sự
mở rộng hay thu hẹp của tín dụng đầu tư của Nhà nước lại ảnh hưởng rất lớn
đến sự mở rộng hay thắt chặt của chính sách đầu tư và chính sách tài khóa, ảnh
hưởng tực tiếp đến thu chi NSNN, đầu tư công và nợ công. Do đó, cần định
hướng chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước theo hướng thiên về chính sách
tài khóa nhiều hơn là chính sách lãi suất - tín dụng.
Thứ tư, Chú trọng nghiên cứu để khẳng định chỉ tiêu đánh giá kết quả, hiệu
quả hoạt động của NHPT theo hướng Ngân hàng phát triển cho vay các khoản
đầu tư dưới chuẩn, chủ yếu là những dự án đầu tư có độ rủi ro cao nhưng lợi

nhuận dự kiến lại không cao và biến các khoản đầu tư này thành các khoản nợ
theo chuẩn và trên chuẩn. Ngân hàng thương mại sẽ đầu tư vì mục tiêu lợi nhuận
và đương nhiên vẫn phải tuân thủ các quy định về quản trị rủi ro của ngân hàng
nhà nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các ngân hàng thương mại được tự
do lựa chọn cho vay các dự án đầu tư thuộc đối tượng mà pháp luật không cấm
thì đương nhiên để bảo toàn vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động thì các ngân hàng
thương mại sẽ lựa chọn cho vay đối với các dự án đầu tư trên chuẩn. Trường hợp
NHPT cũng cho vay các dự án thuộc đối tượng này thì vô hình chung đã tạo nên
sự cạnh tranh đối với các ngân hàng thương mại, và đương nhiên không thuộc
mong muốn của bàn tay hữu hình. Nguồn lực của nhà nước không thể đủ để có
thể đầu tư những dự án mà khu vực tư nhân đã có thể làm được rồi. Cùng với
việc buộc phải cho vay đối với các đối tượng dưới chuẩn thì NHPT phải có trách
nhiệm quản trị, hỗ trợ bằng các biện pháp sao cho các khoản nợ dưới chuẩn này
18 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
sẽ được cải thiện và trở thành các khoản nợ theo chuẩn. Nếu không làm được
điều này thì NHPT chỉ đơn thuần là tổ chức tài chính thực hiện cấp tiền vay và
thu nợ nay chứ hoàn toàn không thực hiện được mục tiêu hỗ trợ các dự án,
doanh nghiệp thuộc đối tượng cần hỗ trợ này.
Thứ năm, Hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng NHPT
thành ngân hàng chuyên nghiệp và là công cụ tài chính hữu hiệu để điều tiết
nền kinh tế vĩ mô. Với nhận thức và các phương pháp nhận diện, đánh giá hiệu
quả hoạt động của NHPT không chỉ với tư cách là một định chế tín dụng mà còn
cả với tư cách là một công cụ tài chính hữu hiệu của Chính phủ trong việc thực
hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước, NHPT phải được xây
dựng để trở thành một ngân hàng chuyên nghiệp, hoạt động như một ngân hàng
hiệu quả nhằm biến nguồn lực có hạn của Chính phủ thành sự tăng trưởng kinh
tế-xã hội với cấp số nhân. NHPT chỉ thực hiện tài trợ và hoạt động trong những
lĩnh vực mà khu vực tư nhân không thể hoặc không muốn tham gia nhưng lại có
ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự phát triển hiệu quả và bền vững của nền

kinh tế - xã hội đất nước. Những lĩnh vực hoạt động này không những không
cạnh tranh với các ngân hàng thương mại mà ngược lại góp phần thúc đẩy, hỗ
trợ hoạt động hiệu quả, lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Đây là những lĩnh
vực xây dựng kết cầu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, những dự án không có khả năng
thu hồi vốn trực tiếp nhưng có hiệu quả gián tiếp cao, tạo nền tảng cho sự phát
triển kinh tế như những ngành kinh tế trọng điểm, công nghiệp phụ trợ, những
ngành then chốt, mang tính đột phá, những lĩnh vực công nghệ cao, rủi ro lớn…
Cùng với đó, đầu tư của Nhà nước vào những ngành nghề, dự án này đều không
gặp phải rào cản từ phía WTO. Đây là công vụ tài chính hữu hiệu cho hoạt động
hiệu quả của “bàn tay hữu hình”.
Như vậy, nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế và đặc biệt
trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường.
19 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
Mô hình quản lý tín dụng đầu tư của Nhà nước có tính đặc thù và hoàn toàn
không có sự giống hệt nhau ở tất cả các nước, các quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới. Vai trò của nguồn vốn này sẽ còn có ý nghĩa, còn tồn tại chừng nào các
nước, các quốc gia trên thế giới của chúng ta chưa thật sự thành thế giới phẳng
và sự điều tiết nền kinh tế của Nhà nước còn tồn tại; có chăng sự hỗ trợ này sẽ
được thực hiện dưới các dạng, theo các mức độ hoặc đối tượng khác nhau mà
thôi.
Câu 2: Phân tích vai trò của hoạt động đầu tư trong các tập đoàn kinh tế
nhà nước, liên hệ với Việt Nam?
1. Tổng quan chung về tập đoàn kinh tế
1.1. Khái niệm
Theo bách khoa toàn thư Wikipedia tiếng Anh thì tập đoàn kinh tế được định
nghĩa là: "Tập đoàn (Tiếng anh: Conglomerate) là sự liên kết của hai hay nhiều
tổng công ty có lĩnh vực kinh doanh khác khác nhau tạo thành một cấu trúc
công ty có quy mô quản lý lớn và phức tạp. Ý nghĩa tập đoàn có thể hình dung

như một công ty mẹ và một số (hay nhiều) công ty con cùng bắt tay kinh doanh.
Tập đoàn là một công ty đa ngành, có quy mô rất lớn và thường kinh doanh đa
quốc gia”
Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 thì tập đoàn kinh tế được xếp
là một thành phần trong nhóm công ty, cụ thể như sau: "Nhóm công ty là tập
hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công
nghệ thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác. Thành phần của nhóm công ty
gồm có:Công ty mẹ, công ty con; Tập đoàn kinh tế; Các hình thức khác."
Theo Viện nghiên cứu Quản lí Kinh tế Trung ương CIEM thì: "Khái niệm tập
đoàn kinh tế (TĐKT) được hiểu là một tổ hợp lớn các doanh nghiệp có tư cách
pháp nhân hoạt động trong một hay nhiều ngành khác nhau, có quan hệ về vốn,
tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết khác xuất
phát từ lợi ích của các bên tham gia. Trong mô hình này, "công ty mẹ" nắm
20 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của "công ty con" về tài chính và chiến lược
phát triển.
1.2. Quá trình hình thành các tập đoàn kinh tế
Từ cuối thế kỷ XIX, ở các nước tư bản Tây Âu và Bắc Mỹ với những tiến bộ
về khoa học và kĩ thuật dẫn đến sự thay đổi cơ cấu sản xuất, mở rộng quy mô,
đưa đến quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. Bên cạnh đó quá trình cạnh tranh
lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, từ đó đưa đến việc hình thành các tổ chức độc
quyền. Đến đầu thế kỷ XX, các tổ chức độc quyền đã xuất hiện ở nhiều nước tư
bản phát triển với các hình thức như Cartel, Syndycat, Trust, Consortium. Hình
thức của các tổ chức độc quyền này là cơ sở cũng như là mô hình của các TĐKT
ngày nay. Trải qua quá trình hình thành và phát triển ở mỗi nước có những tên
gọi khác nhau về TĐKT.
Ví dụ như: Ở Châu Á, trong khi người Nhật Bản gọi là “Zaibatsu” (tên này
được sử dụng trước chiến tranh thế giới thứ hai), là Keiretsu (tên này được sử
dụng sau chiến tranh thế giới thứ hai), còn người Hàn Quốc gọi là “Cheabol”,

Trung Quốc gọi là “tập đoàn doanh nghiệp”.
1.3. Phương thức hình thành
Qua nghiên cứu, TĐKT được hình thành chủ yếu bằng hai con đường:
- Theo con đường phát triển truyền thống có nghĩa là doanh nghiệp (DN)
phát triển tuần tự, tự phát triển, tự tích tụ, tập trung vốn và đầu tư chi phối các
DN khác hoặc bằng cách sáp nhập, thôn tính, mua cổ phần, góp vốn ở các DN
khác để trở thành TĐKT. Phương thức này thường thấy ở các nước Hàn Quốc,
Thái Lan, Nhật Bản.
- Trên cơ sở một công ty nhà nước có quy mô lớn hoặc tổng công ty nhà
nước (TCTNN) có sẵn các mối quan hệ mật thiết bên trong và cơ cấu tổ chức
theo hướng tập đoàn. Theo con đường này thì phải trải qua một số khâu nhằm cơ
cấu lại công ty hoặc TCT, tạo điều kiện cho các DN đầu tư, chi phối lẫn nhau,
21 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
hình thành liên kết chặt chẽ về kinh tế với sự hỗ trợ của các quy định pháp lý, cơ
chế chính sách của nhà nước. Điển hình là Trung Quốc.
1.4. Nguyên tắc hình thành
Các TĐKT trên thế giới cho thấy được việc sự hình thành TĐKT được dựa
trên nguyên tắc hiệu quả, tự nguyện và theo quy luật thị trường. Do đó việc hình
thành TĐKT cần tuân thủ những nguyên tắc:
- Có sự kết hợp chặt chẽ trong một tổ chức kinh tế có nghĩa là các công ty
thành viên kết hợp trong một tổ chức thống nhất và mang tính độc lập về tài
chính, sản xuất và thương mại.
- Phù hợp với chính sách sản xuất và chiến lược phát triển kinh tế của nhà
nước. Việc hình thành TĐKT phải có tác động tích cực tới điều chỉnh cơ cấu sản
xuất và cơ cấu sản phẩm.
- Khuyến khích cạnh tranh, hạn chế độc quyền. Đảm bảo cạnh tranh lành
mạnh, nghiêm cấm các hoạt động lũng đoạn thị trường hoặc phong toả khu vực.
- Phải có sự phân định rạch ròi giữa công ty mẹ và các công ty thành viên về
chức năng quản lý kinh doanh với chức năng quản lý hành chính.

- Thực hiện nguyên tắc đầu tư tự nguyện, với sợi dây liên kết giữa các DN
chủ yếu là vốn, đồng thời phải tuân theo quy luật kinh tế, không thể lắp ghép
bằng mệnh lệnh hành chính.
1.5. Điều kiện hình thành
TĐKT được hình thành trong những điều kiện nhất định, đó là các điều kiện
bên trong và bên ngoài. Để TĐKT hoạt động có hiệu quả thì việc hình thành tập
đoàn cần đảm bảo các điều kiện sau:
- Sản xuất phải đạt đến một trình độ xã hội hoá nhất định dẫn đến đòi hỏi
khách quan phải lựa chọn hình thức tổ chức tập đoàn có quy mô lớn, nhiều vốn
có độ tập trung sản xuất cao.
22 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
- Nền kinh tế thị trường phải đạt đến một trình độ nhất định và thiết lập được
một cơ cấu thị trường tương đối hoàn thiện.
- Chính phủ phải ban hành tương đối đầy đủ các quy định và chính sách liên
quan đến hình thành và phát triển tập đoàn.
- Cần đáp ứng các điều kiện bên trong của tập đoàn gồm quy mô vốn đăng ký
của công ty mẹ, tổng vốn đăng ký của cả tập đoàn, số lượng DN thành viên tối
thiểu, tư cách pháp nhân của các DN thành viên.
- Điều kiện về con người: hiệu quả của tập đoàn phụ thuộc rất lớn vào trình
độ, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý.
- Ngoài ra còn phải có các điều kiện sau đó là về trình độ khoa học, công
nghệ, bộ máy quản lý,… đây cũng là điều kiện quan trọng khi xem xét khi hình
thành tập đoàn kinh tế.
1.6. Vai trò của các tập đoàn kinh tế
Tập đoàn kinh tế (TĐKT) là sản phẩm của nền kinh tế thị trường phát triển
cao. Đồng thời, quá trình phát triển cao của nền kinh tế thị trường thúc đẩy trở
lại sự phát triển kinh tế và trở thành tác nhân chủ yếu đẩy nhanh quá trình toàn
cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia. Do tập đoàn có quy mô
lớn và nắm giữ lợi thế quan trọng. Do đó TĐKT có vai trò to lớn đối với nền

kinh tế quốc gia và cả nền kinh tế thế giới, được thể hiện:
- TĐKT thúc đẩy tăng trưởng kinh tế do có khả năng huy động, tập trung và
sử dụng rộng rãi, có hiệu quả các nguồn lực vật chất, lao động và vốn trong xã
hội vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra sự hỗ trợ trong việc cải tổ cơ cấu
sản xuất, hình thành những công ty hiện đại, quy mô lớn có tiềm lực kinh tế lớn,
cho phép phát huy lợi thế quy mô; khai thác triệt để thương hiệu, hệ thống dịch
vụ đầu vào, đầu ra và dịch vụ chung của cả tập đoàn. Đồng thời nhờ mối liên kết
chặt chẽ giữa các công ty sẽ tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh
tranh của từng công ty thành viên.
23 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
- TĐKT góp phần mở rộng phân công lao động và hợp tác quốc tế, đẩy nhanh
quá trình TCHKT. Vì nó triệt để khai thác các lợi thế so sánh quốc gia trong
quan hệ kinh tế. Tận dụng những ưu thế của nhau, giảm thiểu chi phí, từ đó tăng
thêm lợi nhuận.
- TĐKT có ý nghĩa quan trọng đối với các nước mới công nghiệp hoá, là giải
pháp để bảo vệ sản xuất trong nước, cạnh tranh lại với các công ty đa quốc gia,
TĐKT lớn,… của các nước trên thế giới.
- TĐKT ra đời trước hết là để đối phó với áp lực cạnh tranh ngày càng gay
gắt (có sự xuất hiện độc quyền) nhằm khắc phục khả năng hạn chế về vốn của
từng công ty cá biệt, giành lợi thế về quy mô trước các đối thủ để có thể thao
túng được thị trường.
- TĐKT có tác dụng lớn trong việc đẩy mạnh nghiên cứu, triển khai ứng
dụng khoa học, công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh của các công ty thành
viên.
- Sự phối hợp và thống nhất giữa các công ty thành viên trong TĐKT tạo
điều kiện thuận lợi trong việc chuyển giao công nghệ với chi phí thấp nhất, giảm
lãng phí về vốn, tập trung được nguồn lực vào thực hiện những mục tiêu chiến
lược có lợi cho tất cả các công ty thành viên và cho toàn tập đoàn.
- TĐKT có ảnh hưởng rất lớn đến việc cung cấp, trao đổi thông tin và những

kinh nghiệm quan trọng trong tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học, công
nghệ giữa các công ty thành viên.
- TĐKT trở thành công cụ điều tiết kinh tế và hợp tác kinh tế quốc tế của
nhiều quốc gia, nhằm nhanh chóng rút ngắn khoảng cách phát triển so với các
nước đi trước, điển hình là Nhật Bản những năm 50 – 70 và Hàn Quốc những
năm 70 – 80 của thế kỷ trước.
24 CH22K
Kinh tế đầu tư GVHD: TS. Trần Thị Mai Hương
2. Thực trạng hoạt động đầu tư tại các tập đoàn kinh tế nhà nước tại Việt
Nam
2.1. Xu thế tất yếu của việc hình thành
Xu hướng thành lập TĐKT là hệ quả tất yếu của chính sách đa dạng hoá nền
kinh tế ở Việt Nam, tạo lập ở mức cao nhất quyền tự chủ trong liên kết sản xuất
kinh doanh cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Chúng ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh hội
nhập kinh tế; dưới tác động của toàn cầu hoá về kinh tế và áp lực cạnh tranh
ngày càng gay gắt không chỉ từ trong nước và cả nước ngoài. Vì vậy việc tổ
chức, sắp xếp các công ty có quy mô nhỏ lẻ, hoạt động manh mún và kém hiệu
quả thành những doanh nghiệp lớn có đủ tiềm năng cạnh tranh với các DN nước
ngoài,…
Mặt khác với việc Việt Nam chính thức là thành viên của WTO vừa cho
chúng ta cơ hội để mở rộng hợp tác sâu rộng vào nền kinh tế thế giới để phát
triển ngày càng mạnh mẽ, đồng thời cũng chịu không ít khó khăn từ việc cạnh
tranh khốc liệt của các TĐKT lớn mạnh của nước ngoài. Vì thế việc thành lập
TĐKT là hết sức cần thiết.
2.2. Loại hình TĐKT ở Việt Nam:
2.2.1. Tập đoàn kinh tế nhà nước
a. Đặc điểm
TĐKT nhà nước được định nghĩa là nhóm các công ty liên kết chủ yếu dưới
hình thức công ty mẹ – công ty con, có từ 2 cấp doanh nghiệp trở lên, gắn bó lâu

dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh
khác. Trong đó, doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ giữ vai
trò chi phối hoặc ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đối với các doanh nghiệp
thành viên. Tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân, không có vốn và tài
sản chung. Vốn điều lệ của công ty mẹ của tập đoàn do 100% nhà nước đầu tư.
TĐKT nhà nước có những đặc trưng cơ bản sau:
25 CH22K

×