Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Phân tích các biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay, cho ví dụ cụ thể” qua đó phân tích các biện pháp nâng cao hiệu quả xây dựng pháp luật trong xây dựng luật đất đai (sửa đổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.82 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................................1
1. Khái quát về hoạt động xây dựng pháp luật.............................................................1
1.1. Khái niệm hoạt động xây dựng pháp luật..........................................................1
1.2. Chủ thể của hoạt động xây dụng pháp luật........................................................1
1.3. Quy trình hoạt động xây dựng pháp luật...........................................................2
2. Các biện pháp tăng nâng cao chất lượng và hiệu quả xây dựng pháp luật của hoạt
động xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay..................................................................3
2.1. Đảm bảo tính nguyên tắc trong khi xây dựng và ban hành văn bản pháp luật. .3
2.2. Dự án luật, pháp lệnh phải thể chế hóa được chủ trương, đường lối của Đảng.4
2.3. Tăng cường thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh bằng các công cụ của xã hội
học pháp luật...............................................................................................................6
2.4. Tăng cường vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động xây
dựng pháp luật.............................................................................................................8
2.5. Hoàn thiện pháp luật về hoạt động xây dựng pháp luật trước yêu cần mở rộng
nền dân chủ xã hội và phát triển bền vững..................................................................8
3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng pháp luật trong quá trình
xây dựng Luật Đất đai (sửa đổi).....................................................................................9
3.1. Tuân thủ các nguyên tắc xây dựng pháp luật trong xây dựng Luật Đất đai (sửa
đổi)..............................................................................................................................9
3.2. Cụ thể hóa chủ trương mới của Đảng trong xây dựng Luật Đất đai (sửa đổi). .10
3.3. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân và tăng cường sử dụng các công cụ xã
hội học pháp luật trong xây dựng Luật Đất đai (sửa đổi).........................................11
KẾT LUẬN.....................................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................14


MỞ ĐẦU
Xây dựng pháp luật là hoạt động của các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm
quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp


luật theo quy định. Theo đó, sản phẩm của quá trình xây dựng pháp luật là các văn bản
quy phạm pháp luật, tạo lập hệ thống văn bản quy phạm điều chỉnh tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Xây dựng pháp luật được vận hành nhờ các chất liệu đa dạng từ
cuộc sống, chịu sự tác động nhiều chiều từ các khía cạnh, yếu tố khác nhau trong xã hội.
Từ các yếu tố chung như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, bối cảnh quốc tế, ý thức
pháp luật, truyền thống lịch sử cho đến các yếu tố trực tiếp như: tổ chức, năng lực, kỹ
năng, kỹ thuật soạn thảo, phạm vi, tính chất, đối tượng điều chỉnh...Trên cơ sở tìm hiểu
các khía cạnh xã hội liên quan tới hoạt động xây dựng pháp luật, em xin triển khai đề tài
: “Phân tích các biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động xây dựng pháp luật ở
nước ta hiện nay, cho ví dụ cụ thể”. Qua đó phân tích các biện pháp nâng cao hiệu quả
xây dựng pháp luật trong xây dựng Luật đất đai (sửa đổi).
NỘI DUNG
1.
1.1.

Khái quát về hoạt động xây dựng pháp luật
Khái niệm hoạt động xây dựng pháp luật
Xây dựng pháp luật là một trong những hình thức hoạt động cơ bản nhất của nhà
nước nhằm tạo ra công cụ, phương tiện hữu hiệu phục vụ công tác quản lý nhà nước,
quản lý xã hội. Theo nghĩa rộng, hoạt động xây dựng pháp luật bao gồm cả các hoạt
động nghiên cứu khoa học nhằm thu thập các luận cứ làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực
tiễn và pháp lý liên quan đến văn bản cần xây dựng, ban hành; tổ chức họi thảo, hội
nghị, lấy ý kiến đóng góp vào dự thảo văn bản luật; theo dõi thực tế áp dụng văn bản
pháp luật trong cuộc sống phục vụ việc sửa đỏi, bổ sung, hoàn thiện văn bản pháp luật
về cả nội dung lẫn hình thức diễn đạt, trình bày.
Hoạt động xây dựng pháp luật là hoạt đọng mang tính sáng tạo, thể hiện q trình
nhận thức ngày cảng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn các quy định pháp luật về lợi ích, đánh giá
đúng đắn tàm quan trọng của các quan hệ xã họi cần pháp luật điều chỉnh. Từ đó xác
định phạm vi và phương pháp điều chỉnh phù hợp của từng loại quan hệ xã hội
1.2.


Chủ thể của hoạt động xây dụng pháp luật
Ở Việt Nam, hoạt động xây dựng pháp luật là hoạt động vừa mang tính giai cấp,
vừa mang tính dân chủ rộng rãi, vừa là hoạt động có tính chất nghề nghiệp. Hoạt động
1


này được tiến hành trên cơ sở kết hoặc ngắn hạn và dài hạn, do các cơ quan có thẩm
quyền đặt ra. Đó cũng là hoạt động được điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật .
Chủ thể tham gia hoạt động xây dựng pháp luật khơng chỉ có các cơ quan nhà
nước, các nhà chức trách có thẩm quyền mà cịn các tổ chức chính trị-xã hội, các đoàn
thể xã hội được giao nhiệm vụ thuộc chức năng quản lý nhà nước. Trong đó, nhân dân
là chủ thể rộng rãi của hoạt động xây dựng pháp luật. Tại Việt Nam, hoạt động xây
dựng pháp luật có nhiệm vụ thể chế hóa đầy đủ, nhất quán và kịp thời các chủ trương,
đường lói của Đảng. Các cơ quan của Đảng cũng tích cực tham gia vào hoạt động xây
dựng pháp luật.
1.3.

Quy trình hoạt động xây dựng pháp luật
Hoạt động xây dựng pháp luật là một quá trình bao gồm nhiều gia đoạn với các
quy trình và hàng loạt các thao tá, thủ tục cần thiết diễn ra trong một khoản thời gian
nhất định do pháp luật quy định chặt chẽ, nhằm biến ý chí của nhà nước thành các quy
phạm pháp luật có tính bắt buộc chung. Cụ thể, hoạt động xây dựng pháp luật chia
thành 04 giai đoạn như sau:
Giai đoạn thứ nhất, nêu sáng kiến pháp luật, đề xuất yêu cầu về sự cần thiết phải
ban hành một bộ luật, đạo luật hoặc sửa đổi một văn bản pháp luật hiện hành. Trước khi
nêu sáng kiến, đề xuất xây dựng pháp luật, cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng các minh
chứng, luận chứng có tính thuyết phục cao về sự cần thiết và tính thực tiễn của chủ đề.
Trên cơ sở các sáng kiến, đề xuất, Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc các cơ quan có
thẩm quyền khác xem xét, lập danh sách và trình để Quốc hội (hoặc các cơ quan có

thẩm quyền khác) thơng qua nghị quyết về kế hoạch xây dựng pháp luật, trong đó có
quyết định về soạn thảo dự án luật liên quan đến yêu cầu đã đề xuất.
Giai đoạn thứ hai, soạn thảo dự án, văn bản pháp luật theo sáng kiến đã được
thông qua. Đây là giai đoạn gồm có nhiều bước, nhiều quy trình nhỏ. Theo nhiệm vụ
được giao, các cá nhân, cơ quan có trách nhiệm soạn thảo văn bản luật sẽ triển khai xây
dựng đề cương dự thảo, soạn thảo văn bản theo đề cương đã thống nhất, tổ chức các
cuộc hội thảo khoa học, tọa đàm, thảo luận, lấy ý kiến các cơ quan chuyên gia và các
tầng lớp nhân dân về văn bản dự thảo đó. Sau đó, tồn văn dự án luật đã được soạn thảo
cùng với các tài liệu, luận chứng cần thiết sẽ được các cơ quan có thẩm quyền xem xét,
quyết định.
Giai đoạn thứ ba, các cơ quan có thẩm quyền xem xét, thảo luận thơng qua dự án
luật. Có thể nói các dự án Luật càng được chuẩn bị kỹ lưỡng, cơng phu, nghiêm túc,
khoa học và có chất lượng cao bao nhiêu thì việc thảo luận, đánh giá, phê chuẩn từ phía
2


cơ quan nhà nước có thẩm quyền càng thuận lợi và nhanh chóng bấy nhiêu. Đây là giai
đoạn quan trọng nhất có tính quyết định q trình xây dựng pháp luật. Kết quả của giai
đoạn này là sự klhai sinh các bộ luật, đạo luật, văn bản quy phạm pháp luật dưới luật
mới hoặc luật sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành.
Giai đoạn thứ tư cũng là giai đoạn cuối cùng của hoạt động xây dựng pháp luật ,
là công bố văn bản pháp luật mới được ban hành. Giai đoạn này cũng đòi hỏi phải tuân
theo những trình tự, thủ tục được pháp luật quy định chặt chẽ. Đối với văn bản luật, thủ
tục công bố văn bản được quy định cụ thể trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật và thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước. Đối với các văn bản dưới luật, thủ tục đơn
giản hơn, nhưng việc công bố cũng có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo tính giáo dục
của pháp luật và nhanh chống phát huy hiệu lực của pháp luật trong thực tế đời sống xã
hội.
2.
Các biện pháp tăng nâng cao chất lượng và hiệu quả xây dựng pháp luật của

hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay
2.1. Đảm bảo tính nguyên tắc trong khi xây dựng và ban hành văn bản pháp luật
Nguyên tắc là hệ thống các quan điểm, tư tưởng xun suốt tồn bộ hoặc một giai
đoạn nhất định địi hỏi các tổ chức và cá nhân phải tuân theo. Về nguyên tắc xây dựng
văn bản pháp luật nói riêng và nguyên tắc trong xây dựng, ban hành văn bản pháp luật
nói chung đã được quy định tại Điều 5 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2015. Theo đó, một số nguyên tắc phải đáp ứng trong q trình xây dựng bao gồm:
Thứ nhất, Bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản
quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật. Tính hợp Hiến địi hỏi văn bản quy phạm
pháp luật đều phải phù hợp với Hiến pháp, đảm bảo tính thống nhất theo trật tự, thứ bậc
và hiệu lực pháp lý của văn bản. Tính hợp pháp được hiểu là đúng với pháp luật, không
trái với pháp luật. Theo nghĩa này, văn bản pháp luật được ban hành phải đúng thẩm
quyền, đúng trình tự, thủ tục luật định, có nội dung phù hợp với quy định của Nhà nước;
đúng thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản. Tính hợp pháp được xem là một trong những
tiêu chuẩn đánh giá chất lượng văn bản pháp luật được ban hành và quyết định sự tồn
tại, hiệu lực pháp lý của văn bản pháp luật.
Thứ hai, Tuân thủ đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật. Thẩm quyền xây dựng văn bản pháp luật được quy định cụ thể
tương ứng với quy trình và các giai đoạn khác nhau.Trên thực tế, việc vi phạm phạm

3


thẩm quyền trong ban hành văn bản pháp luật diễn ra phổ biến 1. Rõ ràng thẩm quyền
ban hành văn bản cần được xem xét chặt chẽ từ giai đoạn soạn thảo, xây dựng dự thảo
để tránh những vi phạm khơng đáng có.
Thứ ba, Bảo đảm tính khả thi, tiết kiệm, hiệu quả, kịp thời, dễ tiếp cận, dễ thực
hiện của văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong
văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm yêu cầu cải cách thủ tục hành chính. Để đánh giá
tính khả thi của một văn bản pháp luật cần phải dựa trên nhiều tiêu chí để xem xét, đánh

giá.
Thứ tư, bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến
nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy
phạm pháp luật. Có thể hiểu, bảo đảm công khai, dân chủ trong quy trình xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật chính là việc cơ quan, người có thẩm quyền trong khn khổ
quy định của pháp luật có trách nhiệm tạo cơ hội, điều kiện cho các cá nhân, tổ chức
được biết, được hiểu, được tiếp cận, được tham gia ý kiến, trao đổi thơng tin về các nội
dung có liên quan trong suốt quá trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật
2.2.

Dự án luật, pháp lệnh phải thể chế hóa được chủ trương, đường lối của Đảng
Trong xã hội có giai cấp, các đảng phái chính trị ln muốn khẳng định và thể
hiện, mở rơng vai trị và sự ảnh hưởng của mình đối với các giai cấp xã hội khác. Vì vậy
văn bản pháp luật ln mang tính chính trị và phản ánh sâu sắc ý chí của giai cấp cầm
quyền . Việc xây dựng văn bản pháp luật nói chung hay nội dung của văn bản pháp luật
nói riêng phải phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, đây là yêu cầu mang tính
khách quan xuất phát từ mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước. Tại
Khoản 1 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, theo đó
Đảng lãnh đạo Nhà nước thơng qua nhiều hình thức, trong đó lãnh đạo Nhà nước thơng
qua chủ trương, đường lối là chủ yếu, trên cơ sở đó Nhà nước thể chế hóa thành các quy
định của pháp luật. Như vậy, pháp luật được coi là phương tiện hữu hiệu chuyển tải toàn
bộ chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn đời sống.
Để cụ thể hóa những chủ trương, định hướng lớn của Đảng, Quốc hội ban hành
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2020. Theo
đó, các cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thể chế hóa, từ khâu hình thành chính sách,
phân tích chính sách đến xác định nhu cầu lập pháp, lập quy, cho ý kiến đối với các dự
1

Nghiên cứu lập pháp số 19(251), Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp


luật, tháng 10/2013

4


án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, trên tinh thần lắng nghe nguyện vọng và ý kiến
đóng góp, phản biện xã hội của các tầng lớp nhân dân. Là người đại diện cho lợi ích của
giai cấp cơng nhân và những người lao động, đại diện cho lợi ích của tồn dân tộc Việt
Nam, chính vì thế, Đảng không những lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng các văn bản về
chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội do Nhà nước lập ra, mà
còn lãnh đạo, chỉ đạo đánh giá và cho ý kiến về các văn bản đó.
Những chủ trương, định hướng lớn của Đảng về vấn đề trên đã và đang được
triển khai thực hiện hiệu quả từ giai đoạn trước đến nay, như Nghị quyết số 48-NQ/TW,
ngày 24-5-2005, của Bộ Chính trị, “Về chiến lược xây dựng và hồn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”; Nghị quyết số 49NQ/TW, ngày 2-6-2005, của Bộ Chính trị, “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020”. Nhìn lại thành tựu hơn 15 năm sau sự ra đời của của 02 Nghị quyết của Đảng
này, hệ thống pháp luật Việt Nam đã ngày càng hoàn thiện, đầy đủ hơn để bắt kịp xu thế
phát triển của thế giới. Cụ thể như trong việc thể chế hóa nội dung thứ nhất và nội dung
thứ hai trong phần Định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nghị
quyết số 48-NQ/TW, ngày 24-5-2005, của Bộ Chính trị, “Về chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”:
Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung, quán triệt, thể chế hóa các chủ trương, đường
lối của Đảng về phân cơng, phối hợp, kiểm sốt quyền lực Nhà nước, bảo vệ công lý,
quyền con người
Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
cùng các đạo luật về tố tụng đã kịp thời thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm
2013 về tòa án, viện kiểm sát nhân dân và các quan điểm về cải cách tư pháp
Pháp luật hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp đã được hoàn thiện theo các mục tiêu,
định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra, như tăng tính hướng
thiện, nhân đạo trong chính sách hình sự. Luật Tố tụng hành chính năm 2010 và 2015

được xây dựng theo hướng mở rộng thẩm quyền xét xử của tịa án đối với các khiếu
kiện hành chính, bảo đảm sự bình đẳng giữa người dân và cơ quan cơng quyền trước tòa
án
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và Luật Thi hành
án hình sự năm 2010 đều hướng tới bảo đảm các bản án, quyết định của tòa án được thi
hành nghiêm minh theo các nguyên tắc, trình tự, thủ tục minh bạch, dân chủ, cơng khai,
phù hợp với tính chất của từng loại án, quy định rõ tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan thi hành án, cơ quan quản lý thi hành án, thể chế hóa những chủ trương mới
5


trong thi hành án, như thay đổi hình thức thi hành án tử hình, xã hội hóa một số khâu thi
hành án dân sự2 .
Tuy vậy, hiện nay thực tiễn trong quá trình xây dựng, ban hành , các cơ quan liên
quan chưa chú trọng thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng mà tập trung vào sự
phù hợp của chính sách trong dự án, dự thảo văn bản với chủ trương, đường lối của
Đảng đó; đối với những chính sách lớn hoặc đối với những dự án, dự thảo văn bản pháp
luật có tác động lớn, phức tạp, nhạy cảm chưa kịp thời xin ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, Ban Cán sự Đảng và các cấp uỷ Đảng.
2.3. Tăng cường thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh bằng các công cụ của xã hội
học pháp luật
Công cụ xã hội học phục vụ hoạt động xây dựng pháp luật bao gồm điều tra xã
hội học và thăm dò dư luận xã hội. Biện pháp này một mặt vừa phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; mặt khác huy động
được các tầng lớp xã hội tích cực tham gia tư vấn, đóng góp ý kiến phản biện xã hội cho
các dự án luật.
Việc tổ chức điều tra xã hội học, thăm dò dư luận xã hội phục vụ công tác thẩm
định các dự án luật cần lưu ý các vấn đề sau:
Thứ nhất, cơ quan có thẩm quyền tổ chức và cơng bố kết quả điều tra xã hội học
pháp luật, thăm dị dư luận xã hội? Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng và cần

được pháp luật quy định cụ thể vì nó có liên quan đến việc thừa nhận kết quả pháp lý
thu được từ cuộc điều tra , thăm dò dư luận xã hội; đồng thời liên quan đến trách nhiệm
pháp lý của cơ quan tiến hành điều tra đối với giá trị, độ tin cậy của kết quả thu được.
Thứ hai, vấn đề sử dụng kết quả điều tra, thăm dò dư luận xã hội. Việc điều tra,
thăm dò dư dư luận xã hội phải phục vụ thiết thực cho công tác xây dựng pháp luật,
công tác lãnh, quản lý xã hội. Kết quả điều tra phải được sử dụng có hiệu quả, tác động
tích cực đến q trình xây dựng và ban hành luật, thực hành dân chủ. Kết quả điều tra
xã hội học , thăm dò dư luận xã hội phục vụ quá trình hoạt động động xây dựng pháp
luật thường thể hiện trên ba phương diện:
Một là, sử dụng kết quả điều tra, thăm dò dư luận xã hội để đánh giá lĩnh vực
quan hệ xã hội đang cần có pháp luật điều chỉnh. Kết quả điều tra, thăm dò dư luận xã
Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Bảo đảm tính cơng khai, minh bạch trong quy trình xây dựng, ban hành
văn bản quy phạm pháp luật tại Việt Nam,
/>ID=132&ContentTypeId=0x01006B434E144EA34B09B66CBCE45AAE3E9100F39E7D4F120745419A785CDD336F07
C0
2

6


hội phải thể hiện được : sự cần thiết phải ban hành luật; mục đích, quan điểm xây dựng
luật, các giải pháp để thực hiện chính sách đã được lựa chọn và lý do của việc lựa chọn;
dự kiến nguồn lực, đảm bảo điều kiện cho việc thi hành chính sách pháp luật sau khi
được Quốc hội thông qua, đánh giá tác động của chính sách trong đề nghị xây dựng
pháp luật,…
Hai là, sử dụng các kết quả thăm dò dư luận xã hội vào việc chuẩn bị nội dung,
thảo luận nội dung và xây dựng nội dung dự án luật. Trong quá trình soạn văn bản, cơ
quan, tổ chức, cá nhân chủ trì soạn thảo tiếp tục tổ chức lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác
động trực tiếp của văn bản và cơ quan tổ chức có liên quan; nêu những vấn đề cần xin ý
kiến phù hợp với đối từng đối tượng lấy ý kiến và xác nhận cụ thể địa chỉ tiếp nhận ý

kiến; đăng tải toàn văn dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trên cổng thơng tin của
Quốc hội, Chính phủ.
Ba là, sử dụng các kết quả thăm dò dư luận xã hội phục vụ quá trình tổ chức thực
hiện các văn bản pháp luật đã ban hành.
Việc tăng cường sử dụng các công cụ xã hội trong xây dựng văn bản pháp luật
cũng là một trong những biện pháp phát huy tính công khai, minh bạch trong nội dung
văn bản pháp luật và quy trình xây dựng pháp luật. Trong thời gian qua, về cơ bản, các
cơ quan chủ trì soạn thảo đã bảo đảm sự cơng khai trong q trình xây dựng, ban hành
văn bản quy phạm pháp luật như việc thực hiện nghiêm túc thủ tục đăng tải dự án, dự
thảo để lấy lý kiến; bảo đảm sự tham gia của chuyên gia, nhà khoa học trong quá trình
soạn thảo; công bố, đăng công báo văn bản quy phạm pháp luật…
Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi
năm 2020, bảo đảm tính cơng khai được coi là một trong những u cầu xuyên suốt
trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó, có các yêu
cầu bắt nuộc như bảo đảm sự tham gia các chuyên gia, nhà khoa học trong quá trình lập
đề nghị, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2015 thì trong quá trình lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ
chức lập đề nghị có thể huy động sự tham gia của các viện nghiên cứu, trường đại học,
hội, hiệp hội, tổ chức khác có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học vào các hoạt
động như: Tổng kết, đánh giá tình hình thi hành pháp luật; rà soát đánh giá các văn bản
quy phạm pháp luật hiện hành; Khảo sát, điều tra xã hội học; đánh giá thực trạng quan
hệ xã hội có liên quan đến các chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật; ….
7


2.4. Tăng cường vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động xây
dựng pháp luật

Để đảm bảo tăng cường vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt
động xây dựng pháp luật, cần phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, đối với các cơ quan, cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trình, soạn
thảo dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật: Cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền trình dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật chịu trách nhiệm về tiến độ quy
trình và chất lượng dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, người do mình trình.
Qúa trình soạn thảo, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật có sự tham gia của nhiều
chủ thể ở từng khâu, từng giai đoạn của quy trình, mỗi chủ thể sẽ có nhiệm vụ và vai trò
khác nhau, vừa riêng biệt, vừa phối hợp. Tuy nhiên, nếu chỉ chú trọng thống kê chỉ tiêu,
số liệu mà không quan tâm đến chất lượng khảo sát, thậm chí là tính khách quan của các
báo cáo thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc xây dựng nội dung pháp luật, thậm chí
là tính khả thi sau khi ban hành.
Thứ hai, đối với các cơ quan thẩm định, thẩm tra; cơ quan tổ chức tham gia góp ý
kiến: Cơ quan thẩm định chịu trách nhiệm cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cơ
quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về kết quả thẩm định
đề nghị xây dựng văn bản quy - án dự thảo pháp luật, dự án, dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật. Cơ quan thẩm tra chịu trách nhiệm trước cơ quan có thẩm quyền ban hành
văn bản quy phạm pháp luật về kết quả thẩm tra dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật. Cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền được đề nghị tham gia góp ý kiến về đề
nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật chịu
trách nhiệm về nội dung và thời hạn tham gia góp ý kiến.
Thứ ba, đối với các cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Quốc hội, Hội
đồng nhân dân và các cơ quan khác, người có thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật
chịu trách nhiệm về chất lượng về văn bản do mình ban hành. Cơ quan, người có thẩm
quyền chịu trách nhiệm về việc chậm ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật,
nghị quyết của Quốc hội,nghị quyết của UBTV Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch
nước.
2.5. Hoàn thiện pháp luật về hoạt động xây dựng pháp luật trước yêu cần mở
rộng nền dân chủ xã hội và phát triển bền vững
Hiến pháp hiện hành của nước ta trao cho công dân quyền tham gia quản lý nhà

nước, quản lý xã hội , tham gia thảo luận các vấn đề trong đại chung của đất nước và
địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu
ý dân. Tuy nhiên,cho đến thời điểm hiện tại, Việt Nam chưa có văn bản pháp luật nào
8


quy định rõ vấn đề nào là vấn đề chung của cả đất nước, của địa phương cần được lấy ý
kiến của nhân dân , thủ tục tiến hành lấy ý kiến như thế nào, cơ quan nào chịu trách
nhiệm lấy ý kiến và giá trị pháp lý của các kết quả thu được ra sao,..Do đó, nhà cần xây
dựng và ban hành các văn bản pháp luật quy định cụ thể về vấn đề này , nhằm mở rộng
hơn phạm vi những vấn đề nhân dân được quyền tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến
theo tinh thần “ Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì
lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”
Đối với Việt Nam hiện nay, trưng cầu ý dân là một trong những cách thức thực
hiện dân chủ trực tiếp , một trong những hình thức cao của việc nhân dân tham gia quản
lý nhà nước, quản lý xã hội. Thông qua q trình này, người dân có điều kiện thể hiện
quan điểm, chính kiến của mình đối với các vấn đề chính trị- xã hội quan trọng, được
quyền bày tỏ ý kiến đồng ý hay không đồng ý với những vấn đề mà họ đượ hỏi. Sau đó,
cơ quan nhà nước có trách nhiệm phải căn cứ vào ý kiến của người dân mà xây dựng,
ban hành các văn bản pháp luật tương ứng. Nhà nước cần sớm ban hành Luật trưng cầu
ý dân nhằm đảm bảo dân quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Đây
phải là đạo luật mang tính tồn diện, bao hàm các quy định về mọi vấn đề liên quan đến
quá trình đề xướng, chuẩn bị, tổ chức tiến hành, xá định kết quả cũng như đánh giá và
sử dụng kết quả trong trưng cầu ý dân. Đối với các vấn đề liên quan đến lợi ích , sự phát
triển của từng địa phương, nhà nước có thể trao cho Hội đồng nhân dân địa phương
quyền đưa ra quyết định những vấn đề của địa phương cần lấy ý kiến nhân dân hoặc tổ
chức thăm dò dư luận xã hội trong phạm vi của địa phương đó.
Việc tiếp cận thơng tin xây dựng pháp luật được thực hiện một cách chủ động
công khai, minh bạch các hoạt động hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật trong
thời gian qua đã được thực thi khá tốt trên thực tế. Các văn bản đã được cơ quan soạn

thảo chủ động trong việc công khai dự thảo văn bản để người dân tham gia đóng góp ý
kiến qua các cuộc hội thảo, tọa đàm, phiếu lấy ý kiến, đăng dự thảo trên Trang thông tin
điện tử. Bên cạnh đó, các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật khi xây dựng được cập
nhật trên các phương tiện thông tin đại chúng để công dân tham gia đóng góp ý kiến.
3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng pháp luật trong quá
trình xây dựng Luật Đất đai (sửa đổi)
3.1. Tuân thủ các nguyên tắc xây dựng pháp luật trong xây dựng Luật Đất đai (sửa
đổi)
Khác với việc xây dựng một văn bản pháp luật mới,sửa đổi, bổ sung văn bản quy
phạm pháp luật là thay đổi một phần nội dung của văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành nhằm làm cho nội dung của văn bản quy phạm pháp luật đó phù hợp với hệ thống
9


pháp luật hiện hành và yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Việc sửa đổi văn bản pháp luật cũng
phải tuân thủ quy định của pháp luật theo các trình tự và thủ tục do luật định, đặc biệt
các nguyên tắc theo Điều 5 Điều 5 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2015. Cụ thể:
- Đảm bảo tính hợp Hiến, hợp pháp: Là một văn bản pháp luật có hiệu lực cao chỉ
sau Hiến pháp, do đó trên cơ sở kế thừa các quy định của Luật Đất đai năm 2013
thì việc xây dựng Luật Đất đai ( sửa đổi ) vẫn phải tuân thủ các quy đinh có tính
ngun tắc, theo đó Điều 53 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đất đai thuộc sở
hữu toàn dân. Sở hữu toàn dân về đất đai được đề cập cụ thể trong Luật đất
đai năm 2013 như sau: 1) Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người
sử dụng đất theo quy định của Luật này”. Đây là cơ sở để xác định các chế định,
chính sách cụ thể thậm chí là tên Điều luật trong q trình xây dựng
- Tuân thủ đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật: Quy trình xây dựng Luật Đất đai ( sửa đổi) phải tuân thủ các quy
định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi năm 2020

- Bảo đảm tính khả thi, tiết kiệm, hiệu quả, kịp thời, dễ tiếp cận, dễ thực hiện của
văn bản quy phạm pháp luật. Việc xây dựng Luật Đất đai (sửa đổi) phải căn cứ
vào các yếu tố như: Nội dung phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội; xuất phát từ
yêu cầu thực tiễn của xã hội, đáp ứng kịp thời nhu cầu quản lý nhà nước; có tính
dự báo và tính ổn định tương đối. Với tính dự báo, các quan hệ xã hội luôn biến
động và phát triển Luật Đất đai sửa đổi phải có khả năng giải quyết được các vấn
đề trong tương lai gần.
- Bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của
cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành Luật Đất đai sửa
đổi
3.2. Cụ thể hóa chủ trương mới của Đảng trong xây dựng Luật Đất đai (sửa đổi)
Trong thời gian qua, qua thực hiện Luật Đất đai năm 2013, công tác quản lý, sử
dụng đất đai đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần quan trọng cho phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt
được, quá trình tổ chức thi hành Luật Đất đai năm 2013 đã bộc lộ những tồn tại, hạn
chế; nguồn lực đất đai chưa được phát huy đầy đủ và bền vững; việc sử dụng đất cịn
lãng phí, hiệu quả thấp; khiếu nại, tố cáo, vi phạm pháp luật về đất đai còn diễn biến
phức tạp; suy thối, ơ nhiễm, sạt lở đất ngày càng nghiêm trọng...Những tồn tại, bất
cập nêu trên có nguyên nhân do hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu phát triển của đất
10


nước; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và các quy hoạch có liên quan chưa đảm bảo
sự thống nhất, đồng bộ;
Luật Đất đai là đạo luật quan trọng, phức tạp, tác động đến mọi mặt của đời sống
kinh tế - xã hội, quốc phịng, an ninh, bảo vệ mơi trường của đất nước; giữ vai trò
trung tâm trong hệ thống pháp luật về đất đai. Do đó, Luật phải thể chế hóa đầy đủ,
kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng; thống nhất trong tổng thể các mối
quan hệ pháp lý khác có liên quan đến đất đai 3. Theo đó việc sửa đổi Luật Đất đai là

cần thiết nhằm khắc phục những tồn tại hạn chế, phát huy nguồn lực đất đai đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương khóa XIII về tiếp tục đổi mới, hồn thiện thể chế, chính sách, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước
phát triển có thu nhập cao. Bên cạnh đó trên cơ sở Tổng kết việc thực hiện Nghị
quyết số 19-NQ/TW năm 2012 của Đảng Về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật
về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại cũng đưa
ra yêu cầu cấp thiết về sửa đổi Luật đất đai năm 2013.
Chủ trương, đường lối của Đảng trong suốt giai đoạn vừa qua đóng vai trị quan
trọng trọng việc định hướng xây dựng Luật đất đai sử đổi, mặt khác đưa tính cấp
thiết phải sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 theo hướng đảm bảo sự nhất quán, ổn định,
kế thừa của hệ thống pháp luật đất đai; thể chế hóa những vấn đề đã chín, đã đủ rõ,
được thực tiễn chứng minh là đúng; sửa đổi, bổ sung các quy định chưa phù hợp đã
được chỉ ra trong quá trình tổng kết thi hành Luật Đất đai. Đảm bảo đồng bộ, thống
nhất, tổng thể, chiến lược, lâu dài của hệ thống pháp luật; hoàn thiện các chế định để
quản lý đất đai theo chức năng là tài nguyên, tài sản, nguồn lực cả về diện tích, chất
lượng và khơng gian sử dụng.
3.3. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân và tăng cường sử dụng các công cụ xã
hội học pháp luật trong xây dựng Luật Đất đai (sửa đổi)
Mới đây, Thực hiện Nghị quyết số 671/NQ-UBTVQH15 ngày 23/12/2022 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo
Luật Đất đai (sửa đổi), Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 170/NQ-CP về ban
hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)
3

Những chính sách mới và nội dung cơ bản của dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), Cổng thơng tin xây
dựng Chính sách và Pháp luật, 10/02/2023


11


Theo đó, trong thời gian gần 2,5 tháng, Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) - bắt đầu từ
ngày 3/1/2023 và kết thúc vào ngày 15/3/2023sẽ được lấy ý kiến người dân cả trong
và ngoài nước với 9 vấn đề trọng tâm. Cụ thể:
Về mục đích, việc lấy ý kiến nhân dân nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số
671/NQ-UBTVQH15, đồng thời huy động trí tuệ, tâm huyết của Nhân dân hoàn
thiện dự án Luật Đất đai (sửa đổi) bảo đảm chất lượng, khoa học, khả thi, đồng bộ,
hiệu quả; phản ánh ý chí, nguyện vọng, vì lợi ích nhân dân và tạo không gian, nguồn
lực cho sự phát triển của đất nước. Đồng thời, thông qua việc lấy ý kiến công khai sẽ
trực tiếp nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức đối với
việc sửa đổi Luật Đất đai và tổ chức thi hành Luật
Đối tượng lấy ý kiến về dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) bao gồm: Các tầng lớp
Nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; các cơ quan nhà
nước ở Trung ương và địa phương; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và
các tổ chức chính trị - xã hội thành viên của Mặt trận, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ
kinh doanh và các tổ chức kinh tế khác; các viện nghiên cứu, trường đại học và
chuyên gia, nhà khoa học,…
Có thể thấy, quá trình lấy ý kiến nhân dân về Luật đất đai sửa đổi đã phần nào thể
hiện được tính dân chủ mở rộng, đề cao vai trị của các tầng lớp nhân dân và thành
phần xã hội. Đây cũng là lần đầu tiên người dân được đóng góp ý kiến một cách đầy
đủ, toàn diện và dễ dàng nhất đối với một dự luật quan trọng sau lần lấy ý kiến nhân
dân trong xây dựng Hiến pháp năm 2013 trước đây.
Bên cạnh đó, việc vận dụng các cơng cụ xã hội học cũng được tận dụng triệt để
thông qua các hình thức đóng góp ý kiến: Theo đó, hình thức đóng góp ý kiến được
thực hiện một cách đa dạng, sát thực tiễn đời sống xã hội, gồm cả trực tiếp lẫn trực
tuyến. Bao gồm: Góp ý trực tiếp bằng văn bản (bản giấy, thư điện tử) áp dụng cho tất
cả các đối tượng lấy ý kiến. Ý kiến góp ý gửi đến cơ quan, tổ chức được phân công

trách nhiệm tại Kế hoạch này hoặc gửi trực tiếp đến Bộ Tài nguyên và Môi trường
theo địa chỉ: Số 10 Tơn Thất Thuyết, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm,
Thành phố Hà Nội hoặc qua hộp thư điện tử: ùng với đó
là hình thức tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm đối với các cơ quan nhà nước; tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; doanh nghiệp, hợp tác xã và các tổ chức
kinh tế khác; các chuyên gia, nhà khoa học. Ý kiến góp ý tại hội nghị, hội thảo, tọa
đàm được cơ quan chủ trì tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm tập hợp, tổng hợp gửi
12


về các cơ quan có trách nhiệm lấy ý kiến nhân dân để xây dựng báo cáo lấy ý kiến
gửi về Bộ Tài nguyên và Môi trường, đồng thời gửi Ủy ban Kinh tế của Quốc hộ.
Người dân còn được khuyến khích góp ý trực tiếp thơng qua website chính thức lấy
ý kiến nhân dân đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) tại địa chỉ:
luatdatdai.monre.gov.vn; Thông qua Cổng thông tin điện tử của Quốc hội, Cổng
thông tin điện tử Chính phủ, Cổng thơng tin điện tử Bộ Tài nguyên và Môi trường,
các phương tiện thông tin đại chúng, các hình thức ứng dụng cơng nghệ thơng tin
Hiện nay từ sau khi ấn định thời gian lấy ý kiến, nhiều địa phương trong cả nước đã
tiến hành ban hành các văn bản về triển khai kế hoạch lấy ý kiến nhân dân theo tinh
thần chỉ đạo của các cơ quan soạn thảo. Cịn q sớm để có thể đánh giá được hiệu
quả thực hiện lấy ý kiến nhân dân trong quá trình xây dựng Luật đất đai sửa đổi, tuy
vậy với việc mở rộng và đề cao vai trò của nhân dân trong quá trình xây dựng Luật,
cùng sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta có quyền kỳ
vọng về nhứng đóng góp tích cực mà việc lấy ý kiến đem lại cho quá trình xây dựng
Luật đất đai sửa đổi trong giai đoạn sắp tới.
KẾT LUẬN
Việc phân tích các biện pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động xây dựng pháp
luật là cơ sở quan trọng đánh giá quá trình triển khai các biện pháp cũng như định
hướng nhằm nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay. Theo đó

việc triển khai các biện pháp này cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cá
nhân, tổ chức, cơ quan có thẩm quyền xuyên suốt các giai đoạn của quy trình lập pháp.
Quan trong hơn, trước yêu cầu mở rộng nền dân chủ và phấn đấu phát triển bền vững,
vai trò và sự tham gia của các tầng lớp nhân dân cũng là một trong những yếu tố tiên
quyết góp phần quyết định chất lượng cũng như sự tồn tại của văn pháp luật sau khi ban
hành.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Xã hội học pháp luật, NXB Tư pháp,
năm 2022
2. Nghiên cứu lập pháp số 19(251), Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt
động ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tháng 10/2013
3. Đậu Anh Tuấn- Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI, Nâng cao tính
minh bạch trong xây dựng pháp luật, CỔNG THƠNG TIN ĐIỆN TỬ CHÍNH
PHỦ- XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT,21/06/2022
4. Ngọc Mai, Nhiều ý kiến về dự thảo sửa đổi Luật Giao thông đường bộ, Báo điện
tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 16/02/2022
5. TS. Dương Thị Tươi, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Bảo đảm chất lượng xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện
nay,18/11/2019
6. Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Bảo đảm tính cơng khai, minh bạch
trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Việt Nam,
/>QPPL/DispForm.aspx?
ID=132&ContentTypeId=0x01006B434E144EA34B09B66CBCE45AAE3E9100
F39E7D4F120745419A785CDD336F07C0
7. Những chính sách mới và nội dung cơ bản của dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi),
Cổng thơng tin xây dựng Chính sách và Pháp luật, 10/02/2023


14



×