Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Giải pháp khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 44 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA HTTTKT - THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
BÀI THẢO LUẬN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI: Giải pháp khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời
sống xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Bộ môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Đào Thu Hà
Lớp học phần: 231_HCMI0121_15
Nhóm thực hiện: Nhóm 2

Hà Nội - 2023


Danh sách thành viên nhóm 2
STT

Mã sinh

Họ và tên và tên

viên
1

22D19003


Cơng việcc

Nhóm

Giảngng

đánh

viên đánh

giá

giá

Nguyễn Thành Đạtn Thành Đạtt

3
2

22D19003

Đặng Đình Đơngng Đình Đơng

4
3

22D19003

Ninh Văn Đứcc


5
4

22D19003

Nguyễn Thành Đạtn Hồng Giang

7
5

22D19004

Lê Thị Ngọc Hà Ngọc Hàc Hà

1
6

22D19004

Trần Thu Hàn Thu Hà

3
7

22D19004

Đỗ Thị Hảo Thị Ngọc Hà Hảoo

5
8


22D19004

Lê Xuân Hạt

6
9

22D19004

Mai Thị Ngọc Hà Thúy Hiềnn

7
10

22D19004

Lương Đức Hiểnng Đứcc Hiểnn

8
11

22D19005

Lê Nhật Hoàngt Hoàng

6
12

22D19005


Phan Minh Hoàng

7
13

22D19002

Tạt Thị Ngọc Hà Thu Huệ

9
14

22D19006

Đoàn Thu Huyềnn
1


0
15

22D19006

Nguyễn Thành Đạtn Thị Ngọc Hà Ngọc Hàc

2

Huyềnn


MỤC LỤ

2


PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................3
1.

Cơ sở hình thành đề tài.....................................................................................3

2.

Bối cảnh nghiên cứu.........................................................................................3

PHẦN 2: NỘI DUNG.................................................................................................5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN...............................................................................5
1.

Thế giới quan tôn giáo....................................................................................5
1.1.

Khái niệm, bản chất, nguồn gốc và tính chất của tơn giáo........................5

1.2. Ngun tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội………................................................................................................................10
2.

Thế giới quan của chủ nghĩa Mác – Lênin..................................................12

2.1. Định nghĩa, cấu trúc và nguồn gốc thế giới quan của chủ nghĩa MácLênin……...................................................................................................................12

2.2.

Vai trò của thế giới quan.........................................................................13

2.3. Sự đối lập giữa thế giới quan tôn giáo và thế giới quan chủ nghĩa
Mác……….................................................................................................................15
CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN:......................................................................18
1. Tơn giáo ở Việt Nam và chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà nước hiện nay18
1.1 Tôn giáo ở Việt Nam....................................................................................18
1.2. Chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà nước hiện nay....................................19
2. Ảnh hưởng của tôn giáo tới đời sống xã hội ở Việt Nam...............................21
2.1. Những ảnh hưởng tích cực mà tôn giáo mang lại.......................................21
2.2. Những ảnh hưởng tiêu cực mà Tôn giáo gây ra tác động đến đời sống xã
hội Việt Nam............................................................................................................... 29
3. Đề xuất giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo
trong đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay.................................................................35
PHẦN 3: KẾT LUẬN:.............................................................................................40

3


PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU
1. Cơ sở hình thành đề tài
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề đổi mới tư duy luôn thu hút sự quan tâm của nhiều
đối tượng. Với sứ mệnh sự nghiệp đổi mới đất nước, Nhà nước ta trước hết tập trung đổi
mới tư tuy. Một trong những vấn đề đó là vấn đề về tơn giáo và cơng tác tôn giáo.
Nhằm để hiểu rõ hơn về vấn đề tơn giáo ở Việt Nam đang diễn ra, nhóm 2 chúng em dưới
sự hướng dẫn của giảng viên Đào Thu Hà đã thực hiện đề tài nghiên cứu “Mặc dù thế giới

quan của tôn giáo đối lập với thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng hiện nay, tơn
giáo vẫn có ảnh hưởng khá lớn trong đời sống xã hội Việt Nam. Từ lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về tôn giáo, hãy đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những ảnh hưởng tiêu
cực của tôn giáo trong đời sống xã hội ở Việt Nam hiện nay.”

2. Bối cảnh nghiên cứu
Trong đời sống tinh thần của con người, tơn giáo ln đóng một vai trị nhất định.
Tơn giáo là sự tự do tín ngưỡng của mỗi công dân. Vấn đề tôn giáo từ lâu đã là một trong
những vấn đề nhạy cảm đối với Việt Nam cũng như các nước trên toàn thế giới. Trong đời
sống tinh thần của con người, tơn giáo ln đóng một vai trị nhất định. Tơn giáo là sự tự
do tín ngưỡng của mỗi công dân. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tơn giáo độc lập với chính
trị. Nhà nước quy định và bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo bao gồm
quyền tự do theo hoặc khơng theo một tín ngưỡng, tơn giáo nào, bảo đảm cho sinh hoạt tơn
giáo mang tính chất tơn giáo thuần t, khơng gắn với chính trị.
Tính chính trị của tơn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác
nhau về lợi ích và các giai cấp bóc lột thống tri lợi dụng tơn giáo phục vụ cho mục đích của
mình. Những cuộc chiến tranh tôn giáo trong lịch sử và hiện tại đều xuất phát từ những ý
đồ của những thế lực khác nhau trong xã hội, lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính
trị của mình. Vấn đề tơn giáo từ lâu đã là một trong những vấn đề nhạy cảm đối với Việt
Nam cũng như các nước trên toàn thế giới. Trong lịch sử Việt Nam, vấn đề tôn giáo đã
4


từng bị lợi dụng cho mục đích chính trị, chống phá cách mạng Việt Nam và ngày nay vẫn
còn một số thành phần tìm cách lợi dụng tơn giáo để chống lại Nhà Nước Xã Hội Chủ
Nghĩa nước ta. Chính vì thế mà mỗi người dân chúng ta cần phải có những sự hiểu biết
thấu đáo và chính xác về tôn giáo để không bị kẻ gian lợi dụng sự tín ngưỡng tơn giáo vào
những mục đích xấu.

5



PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.

Thế giới quan tơn giáo

1.1.

Khái niệm, bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo

1.1.1. Khái niệm tôn giáo
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh
hư ảo hiện thực khách quan. Thơng qua sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên và xã hội
trở thành siêu nhiên, thần bí. Ph. Ăngghen cho rằng: “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là
sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi
phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế
đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”.
Ở một cách tiếp cận khác, tôn giáo là một thực thể xã hội - các tôn giáo cụ thể (ví
dụ: Cơng giáo, Tin Lành, Phật giáo...), với các tiêu chí cơ bản sau: có niềm tin sâu sắc vào
đấng siêu nhiên, đấng tối cao, thần linh để tôn thờ (niềm tin tơn giáo); có hệ thơng giáo
thuyết (giáo lý, giáo luật, lễ nghi) phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan, đạo đức, lễ nghi
của tơn giáo; có hệ thơng cơ sở thờ tự; có tổ chức nhân sự, quản lý điều hành việc đạo
(người hoạt động tôn giáo chun nghiệp hay khơng chun nghiệp); có hệ thống tín đồ
đơng đảo, những người tự nguyện tin theo một tơn giáo nào đó và được tơn giáo đó thừa
nhận.
1.1.2. Bản chất của tôn giáo
Chỉ rõ bản chất của tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Tôn giáo là một
hiện tượng xã hội - văn hóa do con người sáng tạo ra. Con người sáng tạo ra tôn giáo vì

mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng, suy nghĩ của họ. Nhưng,
sáng tạo ra tôn giáo, con người lại bị lệ thuộc vào tơn giáo, tuyệt đối hóa và phục tùng tơn
giáo vơ điều kiện. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng cho rằng, sản xuất vật chất và các quan hệ
kinh tế, xét đên cùng là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các hình thái ý thức
xã hội, trong đó có tơn giáo. Do đó, mọi quan niệm về tôn giáo, các tổ chức, thiết chế tôn
giáo đều được sinh ra từ những hoạt động sản xuất, từ những điêu kiện sống nhất định
trong xã hội và thay đổi theo những thay đổi của cơ sở kinh tế. về phương diện thế giới
quan, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có sự khác biệt với thế giới quan duy vật
6


biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặc dù có sự khác biệt về thế giới quan,
nhưng những người cộng sản với lập trường mácxít khơng bao giờ có thái độ xem thường
hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân; ngược lại, ln tơn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc khóng theo tôn giáo của nhân dân. Trong những điều
kiện cụ thể của xã hội, những người cộng sản và những người có tín ngưỡng tơn giáo có
thể cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn ở thê giới hiện thực. Xã hội ấy chính là xã
hội mà quần chúng tín đồ cũng từng mơ ước và phản ánh nó qua một số tơn giáo.
Tơn giáo và tín ngưỡng khơng đồng nhất, nhưng có giao thoa nhất định. Tín ngưỡng
là hệ thống những niềm tin, sự ngưỡng mộ, cũng như cách thức thể hiện niềm tin của con
người trước các sự vật, hiện tượng, lực lượng có tính thần thánh, linh thiêng để cầu mong
sự che chở, giúp đỡ. Có nhiều loại hình tín ngưỡng khác nhau như: tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên; tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc; tín ngưỡng thờ Mẫu...
Mê tín là niềm tin mê muội, viển vông, không dựa trên một cơ sở khoa học nào. Nói
cách khác là niềm tin về mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện, sự vật, hiện tượng trên
thực tế khơng có mối liên hệ cụ thể, rõ ràng, khách quan, tất yếuChủ nghĩa Mác - Lênin
cho rằng, tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hư ảo hiện thực khách quan.
Thông qua sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên và xã hội trở thành siêu nhiên, thần bí.
Ph. Ăngghen cho rằng: “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong
đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của

họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực
lượng siêu trần thế”.
Ở một cách tiếp cận khác, tôn giáo là một thực thể xã hội - các tơn giáo cụ thể (ví
dụ: Cơng giáo, Tin Lành, Phật giáo...), với các tiêu chí cơ bản sau: có niềm tin sâu sắc vào
đấng siêu nhiên, đấng tối cao, thần linh để tôn thờ (niềm tin tơn giáo); có hệ thơng giáo
thuyết (giáo lý, giáo luật, lễ nghi) phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan, đạo đức, lễ nghi
của tơn giáo; có hệ thơng cơ sở thờ tự; có tổ chức nhân sự, quản lý điều hành việc đạo
(người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp hay khơng chun nghiệp); có hệ thống tín đồ
đơng đảo, những người tự nguyện tin theo một tôn giáo nào đó và được tơn giáo đó thừa
nhận.

7


Chỉ rõ bản chất của tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Tôn giáo là một
hiện tượng xã hội - văn hóa do con người sáng tạo ra. Con người sáng tạo ra tơn giáo vì
mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng, suy nghĩ của họ. Nhưng,
sáng tạo ra tôn giáo, con người lại bị lệ thuộc vào tôn giáo, tuyệt đối hóa và phục tùng tơn
giáo vơ điều kiện. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng cho rằng, sản xuất vật chất và các quan hệ
kinh tế, xét đên cùng là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các hình thái ý thức
xã hội, trong đó có tơn giáo. Do đó, mọi quan niệm về tơn giáo, các tổ chức, thiết chế tôn
giáo đều được sinh ra từ những hoạt động sản xuất, từ những điêu kiện sống nhất định
trong xã hội và thay đổi theo những thay đổi của cơ sở kinh tế. về phương diện thế giới
quan, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có sự khác biệt với thế giới quan duy vật
biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặc dù có sự khác biệt về thế giới quan,
nhưng những người cộng sản với lập trường mácxít khơng bao giờ có thái độ xem thường
hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân; ngược lại, ln tơn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc khóng theo tôn giáo của nhân dân. Trong những điều
kiện cụ thể của xã hội, những người cộng sản và những người có tín ngưỡng tơn giáo có
thể cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn ở thê giới hiện thực. Xã hội ấy chính là xã

hội mà quần chúng tín đồ cũng từng mơ ước và phản ánh nó qua một số tơn giáo.
Tơn giáo và tín ngưỡng khơng đồng nhất, nhưng có giao thoa nhất định. Tín ngưỡng
là hệ thống những niềm tin, sự ngưỡng mộ, cũng như cách thức thể hiện niềm tin của con
người trước các sự vật, hiện tượng, lực lượng có tính thần thánh, linh thiêng để cầu mong
sự che chở, giúp đỡ. Có nhiều loại hình tín ngưỡng khác nhau như: tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên; tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc; tín ngưỡng thờ Mẫu..
Mê tín là niềm tin mê muội, viển vông, không dựa trên một cơ sở khoa học nào. Nói
cách khác là niềm tin về mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện, sự vật, hiện tượng trên
thực tế khơng có mối liên hệ cụ thể, rõ ràng, khách quan, nhưng được bao phủ bởi các yếu
tố siêu nhiên, thần thánh, hư ảo. Dị đoan là sự suy đoán, hành động một cách tùy tiện, sai
lệch những điều bình thường, chuẩn mực trong cuộc sống.

8


Mê tín dị đoan là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên, thần thánh
đến mức độ mê muội, cuồng tín, dẫn đến những hành vi cực đoan, sai lệch quá mức, trái
với các giả trị văn hóa, đạo đức, pháp luật, gây tổn hại cho cá nhân, xã hội và cộng đồng.
1.1.3. Nguồn gốc của tôn giáo
Nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - xã hội: Trong xã hội công xã nguyên thủy, do lực
lượng sản xuất chưa phát triển, trước thiên nhiên hùng vĩ tác động và chi phôi khiến cho
con người cảm thấy yếu đuối và bất lực, khơng giải thích được, nên con người đã gán cho
tự nhiên những sức mạnh, quyền lực thần bí.
Khi xã hội xuất hiện các giai cấp đối kháng, có áp bức bất cơng, do khơng giải thích
được nguồn gốc của sự phân hóa giai cấp và áp bức bóc lột bất cơng, tội ác, v.v., cộng với
lo sợ trước sự thống trị của các lực lượng xã hội, con người trơng chờ vào sự giải phóng
của một lực lượng siêu nhiên ngoài trần thế.
Nguồn gốc nhận thức: Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của con
người về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình là có giới hạn. Khi mà khoảng cách giữa
“biết” và “chưa biết” vẫn tồn tại, khi những điều mà khoa học chưa giải thích được, thì

điều đó thường được giải thích thơng qua lăng kính các tơn giáo. Ngay cả những vấn đề đã
được khoa học chứng minh, nhưng do trình độ dân trí thấp, chưa thể nhận thức đầy đủ, thì
đây vẫn là điều kiện, là mảnh đất cho tôn giáo ra đời, tồn tại và phát triển. Thực chất nguồn
gốc nhận thức của tơn giáo chính là sự tuyệt đối hóa, sự cường điệu mặt chủ thể của nhận
thức con người, biến cái nội dung khách quan thành cái siêu nhiên, thần thánh.
Nguồn gốc tâm lý: Sự sợ hãi trước những hiện tượng tự nhiên, xã hội, hay trong
những lúc ôm đau, bệnh tật; ngay cả những may, rủi bất ngờ xảy ra, hoặc tâm lý muốn
được bình n khi làm một việc lớn (ví dụ: ma chay, cưới xin, làm nhà, khởi đầu sự nghiệp
kinh doanh...), con người cũng dễ tìm đến với tơn giáo. Thậm chí cả những tình cảm tích
cực như tình u, lịng biết ơn, lịng kính trọng đối với những người có cơng với nước, với
dân cũng dễ dẫn con người đến với tơn giáo (ví dụ: thờ các anh hùng dân tộc, thờ các thành
hoàng làng...).

9


1.1.4. Tính chất của tơn giáo
Tính lịch sử của tơn giáo: Tơn giáo là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, nghĩa
là nó có sự hình thành, tồn tại và phát triển và có khả năng biến đổi trong những giai đoạn
lịch sử nhất định để thích nghi với nhiều chế độ chính trị - xã hội. Khi các điều kiện kinh tế
- xã hội, lịch sử thay đổi, tơn giáo cũng có sự thay đổi theo. Trong q trình vận động của
các tơn giáo, chính các điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử cụ thể đã làm cho các tôn giáo bị
phân liệt, chia tách thành nhiều tôn giáo, hệ phái khác nhau.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đến một giai đoạn lịch sử nào đó, khi
khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất các
hiện tượng tự nhiên và xã hội thì tơn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã
hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi người.
Tính quần chúng của tơn giáo: Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến ở tất cả
các dân tộc, quốc gia, châu lục. Tính quần chúng của tơn giáo khơng chỉ biểu hiện ở số
lượng tín đồ rất đơng đảo (gần 3/4 dân số thế giới); mà còn thể hiện ở chỗ, các tơn giáo là

nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Dù tôn giáo hướng
con người vào niềm tin hạnh phúc hư ảo của thế giới bên kia, song nó ln ln phản ánh
khát vọng của những người lao động về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái. Mặt khác,
nhiều tơn giáo có tính nhân văn, nhân đạo và hướng thiện, vì vậy, được nhiều người ở các
tầng lớp khác nhau trong xã hội, đặc biệt là quần chúng lao động tin theo.
Tính chính trị của tơn giáo: Khi xã hội chưa có giai cấp, tơn giáo chỉ phản ánh nhận
thức hồn nhiên, ngây thơ của con người về bản thân và thế giới xung quanh mình, tơn giáo
chưa mang tính chính trị. Tính chất chính trị của tơn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân
chia giai cấp, có sự khác biệt, sự đối kháng về lợi ích giai cấp. Trước hết, do tôn giáo là sản
phẩm của những điều kiện kinh tế - xã hội, phản ánh lợi ích, nguyện vọng của các giai cấp
khác nhau trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, nên tôn giáo mang tính chính
trị. Mặt khác, khi các giai cấp bóc lột, thống trị sử dụng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích giai

10


cấp mình, chống lại các giai cấp lao động và tiến bộ xã hội, tơn giáo mang tính chính trị
tiêu cực, phản tiến bộ.
Vì vậy, cần nhận rõ rằng, đa số quần chúng tín đồ đến với tơn giáo nhằm thoả mãn
nhu cầu tinh thần; song, trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các thế lực chính trị - xã hội lợi
dụng thực hiện mục đích ngồi tơn giáo của họ.

1.2.

Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn cịn tồn tại, tuy đã có sự

biến đổi trên nhiều mặt, vì vậy, khi giải quyết vấn đề tôn giáo cần đẳm bảo các nguyên tắc
sau:
- Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân.

Tín ngưỡng, tơn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng tối cao, đấng thiêng
liêng nào đó mà họ tơn thờ, thuộc lĩnh vực ý thức tư tưởng. Do đó, tự do tín ngưỡng và tự
do khơng tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng của nhân dân. Việc theo đạo, đổi đạo, hay
không theo đạo là thuộc quyền tự do lựa chọn của mỗi người dân, không một cá nhân, tổ
chức nào, kể cả các chức sắc tôn giáo, tổ chức giáo hội... được quyền can thiệp vào sự lựa
chọn này. Mọi hành vi cấm đoán, ngăn cản tự do theo đạo, đổi đạo, bỏ đạo hay đe dọa, bắt
buộc người dân phải theo đạo đều xâm phạm đến quyền tự do tư tưởng của họ.
Tơn trọng tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể hiện bản
chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không can thiệp và
không cho bất cứ ai can thiệp, xâm phạm đến quyền tự do tín ngưỡng, quyền lựa chọn theo
hay khơng theo tơn giáo của nhân dân. Các tôn giáo và hoạt động tôn giáo bình thường, các
cơ sở thờ tự, các phương tiện phục vụ nhằm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng của người dân
được nhà nước xã hội chủ nghĩa tôn trọng và bảo hộ.

- Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tơn giáo phải gắn liền với q trình
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Nguyên tắc này khẳng định, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ hướng vào giải quyết những
ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng nhân dân mà không chủ trương can
11


thiệp vào công việc nội bộ của câc tôn giáo. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, muốn thay
đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xoá bỏ ảo
tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải xoá bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Điều
cần thiết trước hết là phải xác lập được một thế giới hiện thực khơng có áp bức, bất cơng,
nghèo đói và thất học... cũng như những tệ nạn nảy sinh trong xã hội. Đó là một q trình
lâu dài, và khơng thể thực hiện được nếu tách rời việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới.

- Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng của tơn giáo trong q trình giải quyết vấn

đề tơn giáo.
Trong xã hội cơng xã ngun thủy, tín ngưỡng, tơn giáo chỉ biểu hiện thuần tuý về
tư tưởng. Nhưng khi xã hội đã xuất hiện giai cấp thì dấu ấn giai cấp - chính trị ít nhiều đều
in rõ trong các tơn giáo. Từ đó, hai mặt chính trị và tư tưởng thường thể hiện và có mơì
quan hệ với nhau trong vấn đề tơn giáo và bản thân mỗi tơn giáo.

Mặt chính trị phản ánh mối quan hệ giữa tiến bộ với phản tiến bộ, phản ánh mâu
thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp, mâu thuẫn giữa những thế
lực lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động.
Mặt tư tưởng biểu hiện sự khác nhau về niêm tin, mức độ tin giữa những người có tín
ngưỡng, tơn giáo và những người không theo tôn giáo, cũng như nhũng người có tín
ngưỡng, tơn giáo khác nhau, phản ánh mâu thuẫn khơng mang tính đối kháng.
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo thực chất là
phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn giáo và
trong vấn đề tôn giáo. Sự phân biệt này trong thực tế không đơn giản, bởi lẽ, trong đời
sống xã hội, hiện tượng nhiều khi phản ánh sai lệch bản chất, mà vấn đề chính trị và tư
tưởng trong tôn giáo thường đan xen vào nhau. Mặt khác, trong xã hội có đổi kháng giai
cấp, tơn giáo thường bị yếu tố chính trị chi phối rất sâu sắc nên khó nhận biết vấn đề chính
trị hay tư tưởng thuần túy trong tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm

12


tránh khuynh hướng cực đoan trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến
tín ngưỡng, tơn giáo.

- Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tơn giáo.
Tơn giáo khơng phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại nó luôn luôn vận
động và biến đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội - lịch sử cụ
thể. Mỗi tơn giáo đều có lịch sử hình thành, có q trình tồn tại và phát triển nhất định, ở

những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trị, tác động của từng tơn giáo đối với đời sông xã hội
không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về những lĩnh
vực của đời sơng xã hội ln có sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể
khi xem xét, đánh giá và ứng xử đốì với những vấn đề có liên quan đến tơn giáo và đối vối
từng tôn giáo cụ thể.

2. Thế giới quan của chủ nghĩa Mác – Lênin
2.1.

Định nghĩa, cấu trúc và nguồn gốc thế giới quan của chủ nghĩa Mác- Lênin

2.1.1. Định nghĩa
Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình cảm,
niềm tin, lý tưởng xác định về thế giới và vị trí của con người (bao hàm cả cá nhân, xã hội
và nhân loại) trong thế giới đó. Thế giới quan quy định nguyên tắc, thái độ, giá trị tring
định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.

2.1.2. Nguồn gốc
Thế giới quan ra đời từ thực tiễn cuộc sống, là kết quả trực tiếp của quá trình nhận
thức, nhưng suy đến cùng, thế giới quan là kết quả của cả hoạt động thực tiễn với hoạt
động nhận thức, của mối quan hệ giữa khách thể nhận thức với chủ thể nhận thức.
2.1.3. Cấu trúc
Thế giới quan bao gồm những thành phần cấu thành dưới đây:
13


- Tri thức: Đây là thành phần chủ yếu và trực tiếp
- Niêm tin: Được hình thành từ tri thức, qua quá trình rèn luyện, kiểm nghiệm trong
thực tiễn.
- Lý tưởng: Là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan.

2.1.4. Phân loại thế giới quan
Dựa vào những kết quả nghiên cứu của Mác và Lênin thì thế giới quan là gì được
chia thành ba loại hình.
Thứ nhất, thế giới quan tơn giáo
- Trong loại hình này, hai thành phần chủ yếu tạo nên thế giới quan tôn giáo đó là
niềm tin và tơn giáo. Hay nói cách khác là tín ngưỡng. Và trong đó, tín ngưỡng giữ vị trí
bên trên lý trí, những cái ảo bên trên cái thực, cái thần lại vượt lên trên con người
Thứ hai, thế giới quan huyền thoại
- Thế giới quan huyền thoại là một cách thức nhìn nhận thế giới xung quanh của
người nguyên thủy trước đây. Trong đó, họ coi trọng những cảm xúc và sự tưởng tượng,
thần thánh hóa hịa quyện với những lý trí, hiện thực khi đánh giá và đưa ra quan điểm của
mình về thế giới xung quanh.
Thứ ba, thế giới quan triết học
- Thế giới quan triết học có nguồn gốc hình thành trong một xã hội có trình độ phát
triển cao hơn và hiện đại hơn so với hai loại hình cịn lại.
- Tư duy của con người về thế giới quan đã có những phát triển hơn theo hướng tích
cực và văn minh. Con người xây dựng lên những hệ thống về khái niệm, phạm trù, lý luận
và quy luật trong thế giới quan triết học. Theo đó, con người đã tư duy có logic hơn bằng
cách chứng minh những quan điểm của mình trước mọi sự vật, hiện tượng.

2.2.

Vai trò của thế giới quan
Vai trị của thế giới quan là gì là vơ cùng quan trọng đối với sự phát triển của con

người và toàn xã hội.
14


- Thế giới quan không chỉ giúp con người trở nên có định hướng hơn, tư duy một

cách logic hơn mà cịn giúp sự phát triển của xã hội có tiến trình cụ thể và theo hướng ngày
càng hiện đại, văn minh.
- Sự định hướng trên được hiện diện trong mọi mặt, từ hoạt động nhận thức thế giới
khách quan đến cuộc sống thực tiễn của con người.

Nhìn nhận hiện thực khách quan
- Thế giới quan giúp con người có thể nhìn nhận lại chính mình và nhìn nhận được
thế giới xung quanh. Từ đó xác định được những mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn
cách thức hoạt động để có thể đạt được mục đích, ý nghĩa đó.
- Khi thế giới quan đúng đắn thì nhân sinh quan cũng sẽ trở nên tích cực, trình độ
phát triển của thế giới sẽ trở nên mạnh mẽ hơn.

15


2.3.

Sự đối lập giữa thế giới quan tôn giáo và thế giới quan chủ nghĩa Mác
Sự đối lập giữa thế giới quan tôn giáo và thế giới quan chủ nghĩa Mác thể hiện ở

nhiều khía cạnh, bao gồm nguồn gốc của tri thức và quyền uy, mục tiêu cuộc sống, quan
điểm về cuộc sống sau đời, quan điểm về tài sản và sở hữu, …
Những sự đối lập này thể hiện cách mà thế giới quan tôn giáo và thế giới quan chủ
nghĩa Mác nhìn nhận và đối phó với cuộc sống, giá trị, và tồn tại con người. Mặc dù có sự
chênh lệch rõ ràng giữa hai thế giới quan này, họ đều có sự ảnh hưởng lớn đối với lịch sử
và văn hóa của con người. Cụ thể như sau:

2.3.1. Về nguồn gốc của tri thức và quyền uy:
Thế giới quan tôn giáo: Tri thức và quyền uy thường xuất phát từ tôn thần hoặc thần
linh. Tôn giáo coi sự thánh thiêng và tôn thần là nguồn gốc của kiến thức và quyền lực.

Lãnh đạo tôn giáo, như linh mục, thầy trị, hoặc giáo sư tơn giáo, thường có vai trị quan
trọng trong việc giải quyết các vấn đề tâm linh và đạo đức.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác không chấp nhận tri thức và quyền
uy từ sự thánh thiêng. Thay vào đó, nó coi sự thay đổi xã hội và quyền lực xã hội dựa trên
mối quan hệ kinh tế và xã hội. Các nhà lãnh đạo trong chủ nghĩa Mác thường là những
người tồn tại trong môi trường xã hội cụ thể và thúc đẩy sự thay đổi xã hội dựa trên lợi ích
của tầng lớp công nhân.

2.3.2. Mục tiêu cuộc sống
Thế giới quan tôn giáo: Mục tiêu của cuộc sống trong thế giới quan tơn giáo thường
là tìm kiếm ý nghĩa tâm linh và sự cứu rỗi. Cuộc sống trần tục thường được coi là một phần
của sứ mệnh tôn thần và mục tiêu cuối cùng là đạt được cuộc sống sau đời tốt đẹp.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Mục tiêu cuộc sống trong chủ nghĩa Mác là cải thiện
điều kiện sống của tầng lớp công nhân và xây dựng một xã hội cộng sản bình đẳng. Cuộc
sống trần tục và công việc lao động trở nên quan trọng để thúc đẩy sự phát triển xã hội và
đảm bảo công bằng.
16


2.3.3. Quan điểm về cuộc sống sau đời
Thế giới quan tôn giáo: Cuộc sống sau đời thường được coi là quan trọng và làm
định hình hành vi và đạo đức trong cuộc sống này. Hành vi tốt trong cuộc sống này có thể
dẫn đến sự cứu rỗi trong cuộc sống sau đời.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác không quan tâm đến cuộc sống sau
đời và tập trung vào cải thiện cuộc sống xã hội trong hiện tại. Họ xem xã hội cần được cải
thiện trong cuộc sống này thay vì chờ đợi cuộc sống sau đời.

2.3.4. Quan điểm về tài sản và sở hữu
Thế giới quan tôn giáo: Tôn giáo thường không đặt vấn đề lớn về tài sản và sở hữu
cá nhân. Tuy nhiên, một số tơn giáo có thể có hệ thống tài sản và quản lý sở hữu riêng.

Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác coi tài sản và sở hữu cá nhân là
nguyên nhân gây ra sự mâu thuẫn xã hội và tạo ra tầng lớp tư sản. Chủ nghĩa Mác đề xuất
loại bỏ sự sở hữu cá nhân trong hệ thống xã hội cộng sản để đạt được công bằng xã hội.

2.3.5. Nguồn gốc của đạo đức và giá trị
Thế giới quan tơn giáo: Tơn giáo thường định hình đạo đức và giá trị của con người
dựa trên các nguyên tắc và quy tắc tôn thần. Các giá trị như lịng khoan dung, tình thương
và trung thực thường được coi trọng trong ngữ cảnh tôn giáo.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác coi giá trị và đạo đức xã hội như một
phản ánh của cơ cấu xã hội và kinh tế. Họ tập trung vào công bằng xã hội và sự cải thiện
của cuộc sống con người dựa trên thay đổi trong hệ thống sản xuất và phân phối.

2.3.6. Quan điểm về sự tồn tại của cá nhân và cộng đồng
Thế giới quan tôn giáo: Tôn giáo thường tôn trọng và coi trọng sự tồn tại cá nhân và
mối quan hệ cá nhân với thượng đế. Mỗi người có một mối quan hệ riêng với tơn thần và
cuộc sống sau đời.
17


Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác tập trung vào cộng đồng và tầng lớp
xã hội. Họ thúc đẩy sự tập hợp của công nhân và cảm nhận rằng thay đổi xã hội chỉ có thể
đạt được thơng qua hành động tập thể của mọi người.

2.3.7. Thực hành và lễ kính
Thế giới quan tơn giáo: Tơn giáo thường đi kèm với các lễ kính và nghi lễ tơn giáo,
như lễ hội, lễ cầu nguyện và lễ kính tượng thần. Những hoạt động này giúp duy trì và phát
triển đạo đức tôn giáo và đạo đức cá nhân.
Thế giới quan chủ nghĩa Mác: Chủ nghĩa Mác tập trung vào hành động cụ thể để
thay đổi xã hội. Thay vì lễ kính, họ thúc đẩy các hành động đối chất như cuộc biểu tình,
cách mạng xã hội và cải thiện điều kiện làm việc của công nhân.


18


CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN:

1. Tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà nước hiện nay
1.1 Tôn giáo ở Việt Nam
Về mặt dân cư, Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em. Mỗi
dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín ngưỡng, tơn giáo riêng
của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng dân gian như thờ cúng ơng bà tổ tiên,
thờ Thành hồng, thờ những người có cơng với cộng đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh,
nhất là tục thờ Mẫu của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số với
hình thức tín ngưỡng ngun thuỷ (cịn gọi là tín ngưỡng sơ khai) như Tơ tem giáo, Bái vật
giáo, Sa man giáo.
Ở Việt Nam, do đặc điểm lịch sử liên tục bị xâm lược từ bên ngồi nên việc Lão
giáo, Nho giáo - những tơn giáo có nguồn gốc ở phía Bắc thâm nhập; Cơng giáo - một tôn
giáo gắn với văn minh Châu Âu vào truyền đạo và sau này đạo Tin lành đã khai thác điều
kiện chiến tranh ở miền Nam để truyền giáo thu hút người theo đạo là điều dễ hiểu.
Việt Nam là một quốc gia bao gồm những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đơng
như Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo; có nguồn gốc từ phương Tây như Thiên chúa giáo, Tin
lành; có tơn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao Đài, Phật giáo Hồ Hảo; có tơn giáo
hồn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội), có những hình thức
tơn giáo sơ khai. Bên cạnh đó có những tơn giáo đã phát triển và hoạt động ổn định xong
cũng có những tơn giáo chưa ổn định, đang trong q trình tìm kiếm đường hướng mới cho
phù hợp.
Về mặt văn hóa, tín ngưỡng, tơn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số ở ba khu vực
nói trên có những nét riêng, độc đáo tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa dạng. Hầu hết các
dân tộc thiểu số vẫn giữ tín ngưỡng nguyên thủy thờ đa thần với quan niệm vạn vật hữu
linh và thờ cúng theo phong tục tập quán truyền thống. Sau này, theo thời gian các tôn giáo

dần dần thâm nhập vào những vùng đồng bào các dân tộc thiểu số hình thành các cộng
đồng tơn giáo, cụ thể:

19



×