Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Mâu thuẫn biện chứng và những biểu hiện của nó trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.65 KB, 20 trang )

Đề tài 4: Mâu thuẫn biện chứng và những biểu hiện của nó trong q
trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay.


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
B. NỘI DUNG .............................................................................................2
I. Cở sở lý luận .................................................................................... 2
1. Khái niệm mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng .......................2
2. Nội dung quy luật ....................................................................2
3. Ý nghĩa phương pháp luận ......................................................6
II. Vận dụng .........................................................................................7
1. Tác động hai chiều của nền kinh tế thị trường ....................... 7
1.1. Mặt tích cực ................................................................. 7
1.2. Mặt tiêu cực ................................................................. 7
2. Thực trạng phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN ở nước ta ........................................................................ 8
2.1. Thành tựu ..................................................................... 8
2.2. Hạn chế .........................................................................9
3. Giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN ở nước ta ....................................................................... 10
C. KẾT LUẬN .......................................................................................... 17
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................18
(LƯU Ý: KHÔNG ĐÁNH SỐ MỤC LỤC THEO TRANG Ở ĐÂY PHẢI
ĐÁNH THEO TRANG TƯƠNG ỨNG VỚI ĐỀ MỤC VIẾT TRONG VỞ
TIỂU LUẬN)


A. MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hiện đại, khi nền kinh tế thế giới đang chuyển động


với sự bùng nổ của thị trường và quy hoạch kinh tế đang ngày càng trở
nên quan trọng, việc hiểu và phân tích mâu thuẫn biện chứng là khối kiến
thức cực kỳ quan trọng trong việc định hình và phát triển mơ hình kinh tế
xã hội chủ nghĩa. Trong tiểu luận này, chúng ta sẽ đàm luận về khái niệm
mâu thuẫn b’iện chứng và những biểu hiện của nó trong q trình xây
dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt
Nam ngày nay. Việc tìm hiểu về mâu thuẫn biện chứng không chỉ giúp
chúng ta hiểu rõ những thách thức và khó khăn mà cịn mở ra những cơ
hội và giải pháp sáng tạo để thúc đẩy sự phát triển bền vững và bao quát.
Chủ đề về mâu thuẫn biện chứng khơng chỉ là một khía cạnh lý
thuyết quan trọng trong triết học, mà còn là một hiện thực phức tạp mà
chúng ta có thể quan sát và phân tích trong q trình xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mâu thuẫn biện
chứng không chỉ thể hiện trong sự đấu tranh giữa lợi ích của các giai cấp
xã hội mà cịn tồn tại ở mức độ tổ chức và hành vi của hệ thống kinh tế.
Tiểu luận sẽ đi sâu vào phân tích các diễn biến mâu thuẫn biện chứng này,
đồng thời đưa ra cái nhìn về vai trị quyết định và ý nghĩa của mâu thuẫn
biện chứng trong việc hình thành mơ hình kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa tại Việt Nam.

1


B. NỘI DUNG
I. Cở sở lý luận
1. Khái niệm mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng
Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái
quát những thuộc tính, những khuynh hướng ngược chiều nhau tồn tại
trong cùng một sự vật hiện tượng, tạo nên sự vật hiện tượng đó. Do đó,
cân phải phân biệt rằng bất kỳ hi mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu

thuẫn. Bời vì trong các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan không
phải chỉ tồn tại hai mặt đối lập. Trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật
hiện tượng có thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập. Chỉ có những mặt đối
lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật như một chỉnh thể, nhưng
có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ, phủ định và
chuyển hoá lẫn nhau (Sự chuyển hoá này tạo thành nguồn gốc động lực,
đồng thời quy định bản chất, khuynh hướng phát triển của sự vật) thì có
hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập mâu thuẫn.
Trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn biện chứng là khái
niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu
tranh; vừa địi hỏi, vừa loại trừ, vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối
lập. Yếu tố tạo thành mâu thuẫn biện chứng là các mặt đối lập, các bộ
phận, các thuộc tính... có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, nhưng
cùng tồn tại khách quan trong mỗi sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội
và tư duy. Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau,
vừa đấu tranh lẫn nhau tạo nên trạng thái ổn định tương đối của sự vật,
hiện tượng.
2. Nội dung quy luật
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập thể hiện bản chất, là
hạt nhân của phép biện chứng duy vật, bởi quy luật đề cập tới vấn đề cơ
bản và quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật - vấn đề nguyên
2


nhận, động lực của sự vận động, phát triển. Theo V.I. Lênin, "có thể định
nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt
đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng,...".
Nội dung của quy luật này cũng được làm sáng tỏ thông qua việc làm rõ
các khái niệm, phạm trù liên quan.
Trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng

để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu tranh; vừa
địi hỏi, vừa loại trừ, vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Yếu
tố tạo thành mâu thuẫn biện chứng là các mặt đối lập, các bộ phận, các
thuộc tính... có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau, nhưng cùng tồn
tại khách quan trong mỗi sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu
tranh lẫn nhau tạo nên trạng thái ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng.
Thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa
chúng và được thể hiện ở việc: Thứ nhất, các mặt đối lập cần đến nhau,
nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại, không có mặt này thì
khơng có mặt kia; Thứ hai, các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân
bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới đang hình thành với cái cũ
chưa mất hẳn; thứ ba, giữa các mặt đối lập có sự tương đồng, đồng nhất
do trong các mặt đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau. Do sự đồng
nhất này mà trong nhiều trường hợp, khi mâu thuẫn xuất hiện và tác động
ở điều kiện phù hợp, các mặt đối lập chuyển hóa vào nhau. Đồng nhất
không tách rời với sự khác nhau, với sự đối lập, bởi mỗi sự vật, hiện
tượng vừa là bản thân nó, vừa là sự vật, hiện tượng đối lập với nó nên
trong đồng nhất đã bao hàm sự khác nhau, đối lập.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua
lại theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng và sự tác động đó
cũng khơng tách rời sự khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng
trong một mâu thuẫn. So với đấu tranh giữa các mặt đối lập thì thống nhất
3


giữa chúng có tính tạm thời, tương đối, có điều kiện, nghĩa là sự thống
nhất đó chỉ tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện
tượng; cịn đấu tranh có tính tuyệt đối, nghĩa là đấu tranh phá vỡ sự ổn
định tương đối của chúng dẫn đến sự chuyển hóa về chất của chúng. Tính

tuyệt đối của đấu tranh gắn với sự tự thân vận động, phát triển diễn ra
không ngừng của sự vật, hiện tượng. Về vấn đề này, khi chú ý nhiều hơn
đến tính tuyệt đối của "đấu tranh", V.I. Lênin đã viết: "Sự phát triển là
một cuộc "đấu tranh" giữa các mặt đối lập".
Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới và vô cùng
đa dạng. Sự đa dạng đó phụ thuộc vào đặc điểm của các mặt đối lập, vào
điều kiện mà trong đó sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập triển khai,
vào trình độ tổ chức của sự vật, hiện tượng mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Mỗi loại mâu thuẫn có đặc điểm riêng và có vại trị khác nhau đối với sự
tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Căn cứ vào sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng, có mâu
thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản tác động
trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng; quy định bản chất, sự
phát triển của chúng từ khi hình thành đến lúc tiêu vong.
Mâu thuẫn khơng cơ bản đặc trưng cho một phương diện nào đó, chỉ quy
định sự vận động, phát triển của một hay một số mặt của sự vật, hiện
tượng và chịu sự chi phối của mâu thuẫn cơ bản.
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự
vật, hiện tượng trong mỗi giai đoạn nhất định, có thể phân chia thành mâu
thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. Mâu thuấn chủ yếu luôn nổi lên
hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng, có tác dụng
quy định đối với các mâu thuẫn khác trong cùng giai đoạn đó của q
trình phát triển. Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu sẽ tạo điều kiện để giải
quyết các mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn, cịn sự phát triển, chuyển hóa
của sự vật, hiện tượng từ hình thức này sang hình thức khác phụ thuộc
4


vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu. Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn
khơng đóng vai trị quyết định trong sự vận động, phát triển của sự vật,

hiện tượng. Tuy vậy, ranh giới giữa mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ
yếu chỉ là tương đối, tùy theo từng hồn cảnh cụ thể, có mâu thuẫn trong
điều kiện này là chủ yếu, song trong điều kiện khác lại là thứ yếu và
ngược lại.
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật, hiện tượng, có
mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuần bên trong là sự
tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng... đối lập nằm trong
chính mỗi sự vật, hiện tượng; có vai trị quy định trực tiếp q trình vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Mâu thuẫn bên ngoài xuất hiện trong mối liên hệ giữa các sự vật, hiện
tượng với nhau; tuy cũng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của
chúng, nhưng phải thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy tác dụng.
Các mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu đều là những mâu thuẫn giữa các mặt,
các bộ phận, yếu tố bên trong cấu thành sự vật, hiện tượng nên có thể gọi
chúng là mâu thuẫn bên trong. Song các đối tượng cịn có những mối liên
hệ và quan hệ với các đối tượng khác thuộc môi trường tồn tại của nó,
những mâu thuẫn loại này được gọi là các mâu thuẫn bên ngoài. Tuy
nhiên, sự phân chia này cũng chỉ mang tính tượng đối, bởi trong quan hệ
này hoặc so với một số đối tượng này, nó là bên trong; nhưng trong quan
hệ khác, so với một số đối tượng khác, nó lại là bên ngồi.
Căn cứ vào tính chất của lợi ích cơ bản là đối lập nhau trong mối quan hệ
giữa các giai cấp ở một giai đoạn lịch sử nhất định, trong xã hội có mâu
thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Mậu thuẫn đối kháng là
mâu thuần giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực lượng, xu hướng xã hội...
có lợi ích cơ bản đối lập nhau và khơng thể điều hịa được. Đó là mâu
thuẫn giữa các giai cấp bóc lột và bị bóc lột, giữa giai cấp thống trị và
giai cấp bị trị... Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai
5



cấp, tập đoàn người, lực lượng, xu hướng xã hội... có lợi ích cơ bản
khơng đối lập nhau nền là mâu thuẫn cục bộ, tạm thời.
Nói về vai trị của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển, Ph:
Ăngghen nhấn mạnh, nguyên nhân chính cũng là nguyên nhân cuối cùng
tạo nên nguồn gốc của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng là
sự tác động (theo hướng phủ định, thống nhất) lẫn nhau giữa chúng và
giữa các mặt đối lập trong chúng. Có hai loại tác động dẫn đến vận động
là tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng (bên ngoài) và sự tác
động lẫn nhau giữa các mặt đối lập của cùng một sự vật, hiện tượng (bên
trong); nhưng chỉ có sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập (bên trong)
mới làm cho sự vật, hiện tượng phát triển.
Mối quan hệ giữa các khái niệm của quy luật chỉ ra rằng, mâu thuẫn giữa
các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng là nguyên nhân, giải quyết mâu
thuẫn đó là động lực của sự vận động, phát triển. Vì vậy, sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng là tự thân. Khái quát lại, nội dung của
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là: Mọi đối tượng
đều bao gồm những mặt, những khuynh hướng, lực lượng... đối lập nhau
tạo thành những mâu thuẫn trong chính nó; sự thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập này là nguyên nhân, động lực bên trong của sự vận
động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện
tượng; từ đó giải quyết mậu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện
khách quan. Muốn phát hiện mâu thuẫn cần tìm ra thể thống nhất của các
mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng; từ đó tìm ra phương hướng, giải
pháp đúng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Thứ hai, phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát
sinh, phát triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối
6



quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa chúng. Phải
biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và đề ra được phương pháp
giải quyết mâu thuẫn đó.
Thứ ba, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh
giữa các mặt đối lập, khơng điều hịa mâu thuẫn cũng khơng nóng vội hay
bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và
chín muồi hay chưa.
II. Vận dụng
1. Tác động hai chiều của nền kinh tế thị trường
1.1. Mặt tích cực
Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh
tế phản ảnh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước
đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố
quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản
đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục
tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách
khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ.
Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát
triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển.
1.2. Mặt tiêu cực
Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn
năng. Bên cạnh mặt tích cực nó cịn có mặt trái, có khuyết tật từ trong bản
chất của nó do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với
sự phát triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa
tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội, làm
tăng thêm tính bất cơng và bất ổn của xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách
giữa người giàu và người nghèo. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu
7



hóa hiện nay, nó cịn ràng buộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị
lệ thuộc và bị bóc lột theo quan hệ "trung tâm - ngoại vi". Có thể nói, nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay là sự thống trị của
một số ít nước lớn hay một số tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các
nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước
nghèo.
2. Thực trạng phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN ở nước ta
2.1. Thành tựu
Trải qua 35 năm đổi mới, mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, trở thành đóng góp lý luận
cơ bản và sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội XIII, Đảng
ta nhận định: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp
tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường
hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường
từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới”.
“Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được
hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập”. Đường lối đổi mới
kinh tế phù hợp với yêu cầu khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức sản
xuất xã hội, thúc đẩy nền kinh tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời
sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nhờ vậy, sau 35 năm đổi mới,
chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất
nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước có thu nhập
trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu vực và thế giới, tạo thế và
lực mới cho nền kinh tế.
Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất trên thế giới trở thành
quốc gia thu nhập trung bình thấp. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới
8



(1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%,
thì giai đoạn 1991 - 1995, tăng trưởng GDP bình quân đã đạt 8,2%/năm.
Các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao, riêng giai đoạn
2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là
một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Đặc biệt, trong năm
2020, trong khi phần lớn các nước có mức tăng trưởng âm hoặc đi vào
trạng thái suy thoái do tác động của đại dịch COVID-19, kinh tế Việt
Nam vẫn tăng trưởng 2,91%, góp phần làm cho GDP trong 5 năm (2016 2020) tăng trung bình 5,9%/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng
cao nhất khu vực và thế giới. Quy mô nền kinh tế được nâng lên, nếu như
năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 343 tỷ
USD. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần,
năm 2020, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 3.500 USD. Các cân
đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ - tiêu dùng, tiết kiệm - đầu tư, năng
lượng, lương thực, lao động - việc làm… tiếp tục được bảo đảm, góp
phần củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mơ. Tính theo chuẩn nghèo
chung, tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% năm 1990 xuống còn dưới 6%
năm 2018; hơn 45 triệu người thoát nghèo trong giai đoạn từ năm 2002
đến năm 2018. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2020
được xếp thứ 42/131 nước, đứng đầu nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu
nhập. Xếp hạng về phát triển bền vững của Việt Nam đã tăng từ thứ 88
năm 2016 lên thứ 49 năm 2020, cao hơn nhiều so với các nước có cùng
trình độ phát triển kinh tế.
2.2. Hạn chế
Tuy vậy, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém.

9



Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và
nguyên tắc vận hành của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất qn và những bất cập trong
q trình hồn thiện thể chế kinh tế thị trường; do vậy, chưa huy động
được tối đa tiềm lực để phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị
trường và xã hội chưa được xử lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới
mức tiềm năng, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng
suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải,
lãng phí, chưa cơng bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa
giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng;
đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở
nông thôn, vùng sâu, vùng xa chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ
thành quả tăng trưởng chung của nền kinh tế. Yếu tố vật chất được đề cao,
yếu tố tinh thần, đạo đức có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện
những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, coi trọng đồng tiền, xem
thường truyền thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.
3. Giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN ở nước ta
Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
trong thời gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới,
có thể xác định những giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển
kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo
pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
10



định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh. Khơng nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất cứ
thành phần kinh tế nào.
Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật
chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô
nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu
ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất
lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.
Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp
nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực
phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước
theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên
thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có
lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp.
Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là
nịng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu
tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh
doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và
địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và
kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng
khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ
hỗ trợ phát triển hợp tác xã.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nơng thơn và thành thị có vị trí quan trọng
lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các
hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp
hoặc phát triển lớn hơn.


11


Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những
ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư
nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư
ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho
người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh
tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao
động.
Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi phát triển thuận lợi,
hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện
môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên
doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong
nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế.
Chú trọng các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình
thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và
ngồi nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy
động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội.
Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao
hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ cịn
thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị
trường cịn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy
hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị trường. Đặc biệt quan tâm
các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị
trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị

trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức
mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị
12


trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ động hội nhập thị trường quốc tế.
Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những
yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh
doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mơ của Nhà nước, đấu
tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà.
Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh
nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà
nước để định hướng phát triển kinh tế - xã hội, khai thác hợp lý các
nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu
nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của
pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại.
Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền
kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới cơng tác kế hoạch hóa, nâng
cao chất lượng cơng tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường công tác thông tin kinh tế - xã hội
trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê; ứng dụng rộng rãi các
thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tình
hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành
mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất
quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của
chế độ xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm

phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà cịn thực hiện bình đẳng
trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và
hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội.

13


Trong tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp
tạo ra nhiều việc làm mới. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm
an tồn vệ sinh lao động, phịng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho
người lao động. Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh
xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm cho người lao
động thất nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ, cơng
chức, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục tình
trạng lương và trợ cấp bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp của người
kinh doanh.
Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những
người có cơng với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ,
gia đình chính sách - một u cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu
nhiều hậu quả sau 30 năm chiến tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu
tranh phịng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn
chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma tuý, mại dâm, lối sống
không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo lý. Kiên quyết đấu
tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh khơng
hợp pháp, gian lận thương mại... cùng với những tiêu cực khác do mặt
trái của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là
thước đo bản lĩnh, trình độ và năng lực quản lý của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là
vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định

hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự
nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những bài học lớn
nhất được rút ra trong những năm đổi mới.
Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng
hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. Thực tế ở một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ,
14


buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là lập tức tạo điều kiện cho các thế lực
thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của Đảng, cướp chính quyền, đưa đất
nước đi con đường khác.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang kinh tế thị trường - tức là
nền kinh tế vận động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật
cạnh tranh... thì khơng cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự
lãnh đạo của Đảng nhiều khi cản trở, làm "vướng chân" sự vận hành của
kinh tế (?). Ý kiến này khơng đúng và thậm chí rất sai lầm. Bởi vì như
trên đã nói, Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng
khơng phải để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải có
lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội cơng bằng và văn
minh. Người có khả năng và điều kiện làm được việc đó khơng thể ai
khác ngồi Đảng Cộng sản - là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích
của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động.
Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của
đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị,
tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế
chẳng những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực
lượng sản xuất khơng ngừng lớn mạnh mà cịn đi đúng định hướng xã hội

chủ nghĩa, tức là hạn chế được bất cơng, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi
ích của đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ sở đường lối, chiến lược đó,
Đảng lãnh đạo tồn bộ hệ thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết
là Nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được phương hướng và nhiệm vụ đã
đề ra.

15


Đương nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự
trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt
chẽ với nhân dân, được nhân dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình
hình hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính
trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng, có trí tuệ, có kiến thức, giữ
gìn đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, đấu tranh khắc phục có
hiệu quả tệ tham nhũng và các hiện tượng thối hóa, hư hỏng trong Đảng
và trong bộ máy của Nhà nước.
Sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
khơng chỉ đơn thuần là sự tìm tịi và phát kiến về mặt lý luận của chủ
nghĩa xã hội, mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mơ hình
phát triển trong thực tiễn mang tính cách mạng và sáng tạo của Việt Nam.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình
tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu
phát triển của đất nước.

16


C. KẾT LUẬN
Ta không thể phủ nhận tầm quan trọng của triết học Mác-Lenin,

đặc biệt là khía cạnh mâu thuẫn biện chứng, đối với quá trình xây dựng
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay. Mâu thuẫn biện chứng không chỉ là một khái niệm lý thuyết, mà cịn
là một cơng cụ phân tích thực tế, giúp chúng ta hiểu rõ về sự phức tạp của
quá trình phát triển kinh tế và xã hội.
Nhìn chung, qua việc tìm hiểu về mâu thuẫn biện chứng, chúng ta
nhận ra rằng sự đan xen, mâu thuẫn không ngừng không phải là một trở
ngại mà là một động lực thúc đẩy sự phát triển. Việc áp dụng triết lý
Mác-Lenin trong xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa không
chỉ giúp chúng ta giải quyết mâu thuẫn một cách sáng tạo mà còn tạo ra
cơ hội mới, từ đó phản ánh chính sự mạnh mẽ, đổi mới và linh hoạt của
triết học này trong bối cảnh thời đại. Trong bối cảnh khó khăn và biến
động, triết học Mác-Lenin không chỉ là một sự chọn lựa, mà còn là một
hướng dẫn đúng đắn, hỗ trợ cho sự tiến bộ và phồn thịnh của đất nước.

17


D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình triết học Mác- Lênin (Dành cho
bậc đại học hệ khơng chun lý luận chính trị), Chính trị Quốc gia Sự
thật, 2021.
2. Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000.
3. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
4. C.Mác và Ph.Ăng-ghen : Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1993, t 23, tr 175.
5. Tạp chí Cộng sản, bài viết: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển”, Nguyễn Phú Trọng.

18




×