Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Vận dụng trong công cuộc đổi mới ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.59 KB, 21 trang )

Đề tài 6. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Vận dụng trong
công cuộc đổi mới ở nước ta.


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ................................................................................................1
B. NỘI DUNG ............................................................................................ 2
I. Cở sở lý luận .................................................................................... 2
1. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức ........................................2
2. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức ..............3
3. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ....................6
II. Vận dụng .........................................................................................8
1. Lý luận về đường lối đổi mới của Đảng ta ............................. 8
2. Thực tiễn công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng ....11
2.1. Thành tựu ................................................................... 11
2.2. Hạn chế ...................................................................... 12
3. Giải pháp xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn
hiện nay ..................................................................................... 13
C. KẾT LUẬN ......................................................................................... 18
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................19


A. MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác - Lênin, như một hệ thống tư tưởng và triết học
chính trị, khơng chỉ mang lại những góc nhìn sâu sắc về cơ cấu xã hội mà
cịn đặt nền móng cho sự đổi mới và phát triển toàn diện. Trong bối cảnh
nước ta đang tiến hành các cuộc cách mạng và đổi mới, nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác - Lênin trở nên hết sức
quan trọng và cấp thiết. Sự tương tác động nhất giữa lý luận và thực tiễn
khơng chỉ là chìa khóa cho sự hiểu biết sâu sắc về xã hội, mà cịn là chìa
khóa để định hình hệ thống giá trị và hình thành chiến lược phát triển


trong tương lai của đất nước.
Triết lý Mác - Lênin là một hệ thống tư tưởng phức tạp, nhưng với
điểm động viên quan trọng là khả năng linh hoạt và áp dụng vào bối cảnh
cụ thể của từng quốc gia. Trong ngữ cảnh của cuộc đổi mới ở nước ta,
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trở thành một bước quan
trọng, đặt ra những thách thức và cơ hội đồng thời. Tiểu luận này sẽ
nghiên cứu cụ thể về cách mà nguyên tắc này có thể được áp dụng hiệu
quả trong quá trình xây dựng và phát triển xã hội đương đại của nước ta.

1


B. NỘI DUNG
I. Cở sở lý luận
1. Nguồn gốc, bản chất của nhận thức
Triết học Mác - Lênin cho rằng nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào bộ óc người: "Tri giác và biểu tượng của chúng ta là hình ảnh
của các vật đó", "Cảm giác của chúng ta, ý thức của chúng ta chỉ là hình
ảnh của thế giới bên ngoài; và dĩ nhiên là nếu khơng có cái bị phản ánh
thì khơng thể có cái phản ánh, nhưng cái bị phản ánh tồn tại một cách độc
lập với cái phản ánh". Điều này thể hiện quan niệm duy vật về nhận thức,
chống lại quan niệm duy tâm về nhận thức. Nhưng bản chất của nhận
thức là sự phản ánh tích cực, sáng tạo thế giới vật chất vào bộ óc con
người. Đây là một quá trình phức tạp, quá trình nảy sinh và giải quyết
mâu thuẫn chứ khơng phải q trình máy móc giản đơn, thụ động và nhất
thời: "Nhận thức là sự tiến gần mãi mãi và vô tận của tư duy đến khách
thể. Phản ánh của giới tự nhiên trong tư tưởng con người phải được hiểu
không phải một cách "chết cứng", "trừu tượng", không phải không vận
động, không mâu thuần, mà là trong quá trình vĩnh viễn của vận động,
của sự nảy sinh mâu thuẫn và sự giải quyết những mâu thuẫn đó".

Nhận thức là một q trình biện chứng có vận động và phát triển, là quá
trình đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít tới biết nhiều hơn, từ biết chưa đầy
đủ đến đầy đủ hơn. Đây là một q trình, khơng phải nhận thức một lần là
xong, mà có phát triển, bổ sung và hồn thiện: "Trong lý luận nhận thức,
cũng như trong tất cả những lĩnh vực khác của khoa học, cần suy luận
một cách biện chứng, nghĩa là đừng giả định rằng nhận thức của chúng ta
là bất di bất dịch và có sẵn, mà phải phân tích xem sự hiểu biết nảy sinh
ra từ sự không hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ và khơng
chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn như thế nào".

2


Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chủ thể nhận thức chính là
cịn người. Nhưng đó là con người hiện thực, đang sống, đang hoạt động
thực tiễn và đang nhận thức trong những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể
nhất định, tức là con người đó phải thuộc về một giai cấp, một dân tộc
nhất định, có ý thức, lợi ích, nhu cầu, cá tính, tình cảm, v.v.. Con người là
chủ thể nhận thức cũng bị giới hạn bởi điều kiện lịch sử có tính chất lịch
sử - xã hội.
Hoạt động thực tiễn của con người là cơ sở, động lực, mục đích của nhận
thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý: "Vấn đề tìm hiểu xem tự duy
của con người có thể đạt tới tính chân lý khách quan hay khơng, hồn
tồn khơng phải là một vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn". Có
thể thấy, nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan một cách
tích cực, chủ động, sáng tạo bởi con người trên cơ sở thực tiễn mang tính
lịch sử cụ thể.
2. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, thực tiễn là toàn bộ những

hoạt động vật chất - cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người nhằm
cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ.
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thực tiễn gồm những đặc trưng sau:
Thứ nhất, thực tiễn khơng phải là tồn bộ hoạt động của con người
mà chỉ là những hoạt động vật chất - cảm tính, như lời của C. Mác, đó là
những hoạt động vật chất của con người cảm giác được; nghĩa là con
người có thể quan sát trực quan được các hoạt động vật chất này. Hoạt
động vật chất - cảm tính là những hoạt động mà con người phải sử dụng
lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật chất
để làm biến đổi chúng. Trên cơ sở đó, con người mới làm biến đổi được
thế giới khách quan phục vụ cho mình.
3


Thứ hai, hoạt động thực tiễn là những hoạt động mang tính lịch sử
- xã hội của con người; nghĩa là, thực tiễn là hoạt động chỉ diễn ra trong
xã hội, với sự tham gia của đông đảo người trong xã hội. Trong hoạt động
thực tiễn, con người truyền lại cho nhau những kinh nghiệm từ thế hệ này
qua thế hệ khác. Cũng vì vậy, hoạt động thực tiễn ln bị giới hạn bởi
những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Đồng thời, thực tiễn có trải qua
các giai đoạn lịch sử phát triển cụ thể của nó.
Thứ ba, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo tự
nhiên và xã hội phục vụ con người. Khác với hoạt động có tính bản năng,
tự phát của động vật nhằm thích nghi thụ động với thế giới, con người
bằng và thông qua hoạt động thực tiễn, chủ động tác động cải tạo thế giới
để thỏả mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực
với thế giới. Như vậy, nói tới thực tiền là nói tới hoạt động có tính tự giác
cao của con người, khác với hoạt động bản năng thụ động thích nghi của
động vật.
Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động thực tiễn thể hiện tính tự

giác cao của con người nhằm biến đổi, cải tạo xã hội, phát triển các thiết
chế xã hội, các quan hệ xã hội, v.v.. Hoạt động chính trị - xã hội bao gồm
các hoạt động đấu tranh giai cấp; đấu tranh giải phóng dân tộc; đấu tranh
cho hịa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội; đấu tranh cải tạo các quan hệ chính
trị - xã hội, nhằm tạo ra mơi trường xã hội dân chủ, lành mạnh, thuận lợi
cho con người phát triển. Thiếu hình thức hoạt động thực tiễn này, con
người và xã hội lồi người cũng khơng thể phát triển bình thường.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của hoạt
động thực tiễn, vì trong hoạt động thực nghiệm khoa học, con người chủ
động tạo ra những điều kiện khơng có sẵn trong tự nhiên để tiến hành
thực nghiệm khoa học theo mục đích mà mình đã đề ra. Trên cơ sở đó,
vận dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất vật
chất, vào cải tạo chính trị - xã hội, cải tạo các quan hệ chính trị - xã hội.
4


Ngày nay, khi cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão,
"tri thức xã hội phổ biến [Wissen, knowledge] đã chuyển hóa đến mức độ
nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp"' thì hình thức hoạt động thực tiễn
này ngày càng đóng vai trị quan trọng.
Như vậy, thực tiễn là cầu nối con người với tự nhiên, xã hội, nhưng
đồng thời thực tiển cũng tách con người khỏi thế giới tự nhiên, để "làm
chủ" tự nhiên. Nói khác đi, thực tiễn "tách" con người khỏi tự nhiên là để
khẳng định con người, nhưng muốn "tách" con người khỏi tự nhiên thì
trước hết phải "nối" con người với tự nhiên. Cầu nối này chính là hoạt
động thực tiễn.
Về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
Đầu tiên, Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức: Bằng và
thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới khách
quan, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con

người nhận thức. Chính thực tiễn cung cấp những tài liệu, vật liệu cho
nhận thức của con người. Khơng có thực tiễn thì khơng có nhận thức,
khơng có khoa học, khơng có lý luận, bởi lẽ tri thức của con người xét
đến cùng là được nảy sinh từ thực tiễn. Hoạt động thực tiễn cịn là cơ sở
chế tạo ra các cơng cụ, phương tiện, máy móc mới hỗ trợ con người trong
quá trình nhận thức, chẳng hạn kính hiển vi, kính thiên văn, máy vi tính,
v.v., đã mở rộng khả năng của các khí quan nhận thức của con người.
Như vậy, thực tiễn chính là nền tảng, cơ sở để nhận thức của con người
nảy sinh, tồn tại, phát triển. Không những vậy, thực tiễn còn là động lực
thúc đẩy nhận thức phát triển.
Thứ hai, Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Nhận thức của con
người ngay từ khi mới xuất hiện trên trái đất đã bị quy định bởi những
nhu cầu thực tiễn, bởi lẽ, muốn sống, muốn tồn tại, con người phải sản
xuất và cải tạo xã hội. Chính nhu cầu sản xuất vật chất và cải tạo xã hội
5


buộc con người phải nhận thức thế giới xung quanh. Nhận thức của con
người là nhằm phục vụ thực tiễn, sọi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn
chứ không phải để trang trí hay phục vụ cho những ý tưởng viển vơng.
Nếu khơng vì thực tiễn, nhận thức sẽ mất phương hướng, bế tắc. Mọi tri
thức khoa học - kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa khi được áp dụng
vào đời sống thực tiễn một cách trực tiếp hay gián tiếp để phục vụ con
người.
Thứ ba, Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: Tri thức của con người
là kết quả của quá trình nhận thức, tri thức đó có thể phản ánh đúng hoặc
khơng đúng hiện thực. Không thể lấy tri thức để kiểm tra tri thức, cũng
không thể lấy sự hiển nhiên, hay sự tán thành của số đơng hoặc sự có lợi,
có ích để kiểm tra sự đúng, sai của tri thức. Theo triết học Mác - Lênin,
thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra chấn lý. Dựa vào

thực tiễn, người ta có thể chứng minh, kiểm nghiệm chân lý bởi chỉ có
thực tiễn mới có thể vật chất hóa được tri thức, hiện thực hóa được tư
tưởng, qua đó mới khẳng định được chân lý hoặc phủ định một sai lầm
nào đó.
3. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận,
lý luận hình thành, phát triển sản xuất từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu
thực tiễn.
Thực tiễn là cơ sở của lý luận: Xét một cách trực tiếp những tri thức
được khái quát thành lý luận là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn
của con người. Thông qua kết quả của hoạt động thực tiễn, kể cả thành
công cũng như thất bại, con người phân tích cấu trúc, tích chất và các mối
quan hệ của các yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để
hình thành lý luận. Quá trình hoạt động thực tiễn là cơ sở để bổ sung và
điều chinh các lý luận đã được khái quát.
6


Thực tiễn là động lực của lý luận: Hoạt động của con người khơng chi
là ngng gốc để hồn thiện các cá nhân mà cịn góp phần hồn thiện các
mối quan hệ của con người với tự nhiên, với xã hội. Lý luận được vận
dụng làm phương pháp cho hoạt động thực tiễn,mang lại lợi ích cho con
người càng kích thích cho con người bám sát thực tiễn khái quát lý luận.
Q trình đó diễn ra khơng ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho
lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn.
Thực tiễn là mục đích của lý luận: Mặc dù lý luận cung cấp những tri
thức khái quát về thế giới để làm thỏa mãn những nhu cầu hiểu biết của
con người nhưng mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao những hoạt
động của con người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn,
thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận

không thể tạo lên những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu
cầu đó chỉ được thực hiện trong hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận: Tính chân lý của lý luận
chính là sự phù hợp của lý luận với thực tiễn khách quan và được thực
tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận với hoạt động thực
tiễn của con người. Do đó mọi lý luận phải thơng qua thực tiễn để kiểm
nghiệm. Chính vì thế mà C. Mác nói : "vấn đề đẻ tìm hiểu xem tư duy của
con người có thể đạt đến chân lý của khách quan khơng, hồn tồn khơng
phia vẫn đề lý luận mà là vấn đề thực tiễn.
Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải được
vân dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn.
Lý luận đóng vai trị soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng định
hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện.
7


Lý luận còn dự báo được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ
của thực tiễn, dự báo được những rủi ro đã xảy ra, những hạn chế những
thất bại có thể có trong q trình hoạt động. Như vậy lý luận không chỉ
giúp con người hoạt động hiện quả mà còn là cơ sở để khắc phục những
hạn chế và tăng năng lực hoạt động của con người. Mặt khác, lý luận cịn
có vai trị giác ngộ mục tiêu, lý tưởng liên kết các cá nhân thành cộng
đồng tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn của quần chúng trong cải tạo tự
nhiên và cải tạo xã hội. Chính vì vậy, C. Mác đã cho rằng: "Vũ khí của sự
phê phán cố nhiên khơng thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực
lượng vật chất chi có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, một khi nó
thâm nhập vào quần chúng".
Lý luận tuy là logic của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu với
thực tiễn. Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát
diễn biến của thực tiễn để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm

khuyết của lý luận, hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn.
Khi vận dụng lý luận vào thực tiễn, chúng có thể mang lại hiệu quả có thể
khơng, hoặc kết quả chưa rõ ràng. Trong trường hợp đó, giá trị của lý
luân phải do thực tiễn quy định. Tính năng động của lý luận chính là điều
chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Lênin nhận xét rằng: "Thực tiễn cao hơn
lý luận, vì nó có ưu điểm khơng những của tính phồ biến, mà cả của tính
hiện thực trực tiếp".
II. Vận dụng
1. Lý luận về đường lối đổi mới của Đảng ta
Công cuộc đổi mới đổi mới ở nước ta cung cấp bài học to lớn về nhận
thức. Đó là bài học về quán triệt quan điểm lý luận và thực tiễn, quan
điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác. Sự nghiệp đổi mới mang tính
chất mới mẻ và đầy những khó khăn địi hỏi phải có lý luận khoa học soi
sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và điều kiện cơ bản
8


làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, lý luận
khơng bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý
luận rồi tiến hành đổi mới được. Hơn nữa thực tiễn là cơ sở để nhận thức,
lý luận. phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm , mới có cơ sở để khái
quát thành lý luậnVì vậy quá trình đổi mới ở nước ta chính là vừa học
vừa làm, vừa làm vừa tổng kết lý luận, vừa đúc rút thành quan điểm,
thành quan điểm để rồi quay trở lại quá trình đổi mới.
Trải qua 20 năm đổi mới, một trong những bài học quan trọng mà Đảng
ta rút ra là: “trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đổi mới khơng phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là
làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây
dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới khơng phải xa rời mà là nhận thức đúng,

vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách
mạng. Thực tiễn phong phú và những thành tựu to lớn của công cuộc đổi
mới hai mươi năm qua đã chứng minh giá trị to lớn của bài học đó, đồng
thời cho thấy việc khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước
phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta. Tất
nhiên,để làm rõ bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý
luận ấy của Đảng ta, cần phải phân tích và làm rõ tính khoa học và cách
mạng trong các luận điểm, tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, nhất là phải làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta
trong tiến trình thực hiện cơngcuộc đổi mới đất nước.
Một điều rõ ràng là, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta,
khi thực tiễn đất nước nảy sinh hàng loạt vấn đề cần được giải đáp về mặt
lý luận, Đảng ta đã luôn luôn đứng trên lập trường, quan điểm, phương
pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn
9


và đưa ra được đường lối, chủ trương, chính sách cùng với bước đi và
cách làm cụ thể phù hợpvới thực tiễn cách mạng nước ta. Chẳng hạn,
trong quá trình đổi mới đất nướctheo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng
ta đã coi đổi mới tư duy lý luận, tư duychính trị về chủ nghĩa xã hội là
khâu đột phá, coi đổi mới kinh tế là trọng tâm vàphải đi trước một bước.
Đảng ta cũng khẳng định, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải gắn
kết với nhau, nhưng đổi mới chính trị phải trên cơ sở thành tựu của đổi
mới kinh tế và phục vụ cho tiếp tục đổi mới kinh tế, ngược lại, đổi mới
kinh tế phải đúng định hướng chính trị, phải góp phần tăng cường ổn định
chínhtrị. Thực tiễn những năm đổi mới đã mang lại nhiều bằng chứng xác
nhận tính đúng đắn của những quan điểm nêu trên.

Có thể khẳng định, chúng ta không thể đưa công cuộc đổi mới đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa đến thành công nếu xa rời quan điểm
thống nhất lý luận và thực tiễn. Mặt khác, việc tìm ra những giải pháp để
đưa cơng cuộc đổi mới đến thành công không thể không gắn liền vận
dụng và phát triển sáng tạo lýluận của chủ nghĩa Mác – Lênin thông qua
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn theo phương pháp khoa học của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Như vậy, đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một
q trình thống nhất. Đó là sự thống nhất giữa lý luậnvà thực tiễn, sự
thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng của lý luận Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trước hết cần khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực là
hoàn toàn phù hợp với quy luật vận động, phát triển khách quan của lịch
sử xã hội, phù hợp với tiến trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh
tế-xã hội. Cho dù đến nay, chủ nghĩa xã hội vẫn chưa xuất hiện ở những
nơi mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến trình độ cao. Theo học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội của Mác thì lực lượng sản xuất, xét đến cùng,
bao giờ cũng là cái đóng vai trị quyết địnhtrong việc thay đổi phương
10


thức sản xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệxã hội, thay đổi một
chế độ xã hội mà Mác gọi là hình thái kinh tế - xã hội. Trêncơ sở đó, Mác
đi đến kết luận: xã hội lồi người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế
tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một hình thái
kinh tế - xã hội. Và tiến bộ xã hội chính là sự vận động theo hướng tiến
lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế - xã
hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Mác khẳng
định: “tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên.

Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những có thể
diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự từ hình thái kinh tế - xã hội này
lên hình thái kinh tế- xã hội khác, mà cịn có thể diễn ra bằng con đường
bỏ qua một giai đoạn phát triển nào đó, một hình thái kinh tế - xã hội nào
đó trong những điều kiện và hồn cảnh khách quan cụ thể nhất định. Như
vậy về mặt lý luận, chúng ta có thể khẳng định sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
là quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc, phù hợp với
quy luật phát triển khách quan của lịch sử và xu thế phát triển của thời đại.
Chúng ta đã chứng kiến sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô
và Đông Âu và đã trải nghiệm những thành công của công cuộc đổi mới
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc. Theo chúng tôi trong những
nguyên nhân dẫn đến thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và các nước Đơng Âu trước đây có ngun nhân xa rời bản chất
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tách rời lý luận, thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Thực tiễn công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng
2.1. Thành tựu

11


Tăng Trưởng Kinh Tế Đột Phá: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu ấn tượng
trong tăng trưởng kinh tế. Từ năm 1986 đến 2022, tỷ lệ tăng trưởng GDP
trung bình hàng năm của Việt Nam đạt khoảng 6,7%, đưa đất nước từ
tình trạng đói nghèo trở thành một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất thế giới.
Giảm Độ Nghèo và Nâng Cao Chất Lượng Cuộc Sống: Cơng cuộc đổi
mới đã đóng góp vào việc giảm độ nghèo. Theo số liệu của Tổng cục

Thống kê Việt Nam, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn
2,75% năm 2021. Chất lượng cuộc sống của người dân cũng được cải
thiện, với sự đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục và y tế.
Hội Nhập Quốc Tế và Xuất Khẩu: Việt Nam đã thực hiện một chính sách
mở cửa thị trường và tích cực tham gia vào các thỏa thuận thương mại
quốc tế. Xuất khẩu của Việt Nam tăng từ 1,6 tỷ USD năm 1995 lên đến
hơn 330 tỷ USD vào năm 2021, đặt Việt Nam vào nhóm các quốc gia
xuất khẩu hàng đầu thế giới.
Phát Triển Hạ Tầng: Cơng cuộc đổi mới cịn đi kèm với việc đầu tư mạnh
mẽ vào phát triển hạ tầng. Hệ thống giao thông vận tải, cảng biển và điện
lực đã được nâng cấp và mở rộng. Số liệu cho thấy rằng tổng đầu tư vào
hạ tầng từ năm 1991 đến nay đạt trên 1.000 tỷ USD.
2.2. Hạn chế
Bất Bình Đẳng Thu Nhập: Mặc dù có những thành tựu, nhưng bất bình
đẳng trong phân phối thu nhập vẫn là một thách thức. Theo số liệu của
Tổng cục Thống kê, tỷ lệ Gini (đo lường bất bình đẳng) tăng từ 33,1 năm

12


1993 lên 38,1 năm 2021, đòi hỏi sự tập trung hơn vào chính sách phân
phối.
Thách Thức Mơi Trường và Biến Đổi Khí Hậu: Q trình cơng nghiệp
hóa và đơ thị hóa đã tạo ra những thách thức về ơ nhiễm mơi trường. Ơ
nhiễm khơng khí và nước là một vấn đề cần được giải quyết ngay lập tức.
Ngoài ra, biến đổi khí hậu cũng đang tạo ra thách thức đối với nền kinh tế
và cộng đồng.
Thách Thức Quản Lý và Chống Tham Nhũng: Mặc dù có những bước
tiến trong chống tham nhũng, nhưng vấn đề này vẫn còn tồn tại. Cần có
sự cải thiện đáng kể trong quản lý và sự minh bạch để giảm thiểu tham

nhũng và tăng cường trách nhiệm của các cơ quan chính quyền.
Những thực tiễn và thách thức trên minh họa rằng trong quá trình đổi mới,
việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận Mác-Lênin và thực tiễn
đã giúp đất nước đi lên từng bước, nhưng vẫn còn những nhiệm vụ quan
trọng cần phải được thực hiện để đạt được sự phát triển bền vững và công
bằng.
3. Giải pháp xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện
nay
Thứ nhất, phải luôn ý thức sâu sắc rằng, vấn đề giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong đường lối đổi mới dựa trên nền tảng học thuyết Mác Lê-nin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành bại của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là bài học sâu sắc được
rút ra từ chính thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta qua 37 năm
đổi mới; cũng là bài học xương máu từ thất bại của các đảng cộng sản
cầm quyền tại các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu trong
13


những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, khi chệch hướng về đường lối
chính trị. Chính sự phát triển phức tạp và khó khăn của thực tiễn cách
mạng cho thấy, vai trò và ý nghĩa to lớn của một lý luận khoa học và cách
mạng dẫn đường. Ở đâu và lúc nào, công tác lý luận không được coi
trọng đúng mức thì ở đó và khi đó, sẽ xảy ra tình trạng lạc hậu về lý luận,
khơng đủ sức dẫn dắt thực tiễn, trước sau sẽ dẫn đến thất bại, đổ vỡ. Thực
tiễn xác nhận, chỉ có xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, tăng cường thực hành dân chủ, kịp thời và thường xuyên tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng mới là con đường duy nhất đúng để
phát triển và bảo vệ đường lối đổi mới, tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng
không ngừng tiến lên.
Thứ hai, tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, bổ
sung, hoàn thiện và phát triển đường lối đổi mới của Đảng trong bối cảnh

mới. Chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu một cách tồn diện, sâu sắc và có
hệ thống những di sản tư tưởng, lý luận của các nhà kinh điển mác-xít;
cần khẳng định rõ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời cũng phải xác định, làm rõ những luận
điểm mới cần được phát triển, nhận thức lại hay bổ sung thêm vào đường
lối đổi mới. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận, cung cấp
những luận cứ khoa học, những dự báo cho quá trình phát triển đất nước,
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phát hiện những mâu thuẫn, những
vấn đề thực tiễn đang đặt ra, phân tích, chỉ rõ những xu hướng, tìm kiếm
những bước đi phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Vận dụng
sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực
tiễn Việt Nam; đồng thời, tiếp thu những thành tựu lý luận mới, tìm tịi
những cơ sở lý luận để giải thích một cách khoa học những vấn đề thực
tiễn nóng bỏng đang đặt ra trong giai đoạn phát triển tiếp theo. Đặc biệt là,
trong quá trình bổ sung, phát triển đường lối đổi mới phải có tư duy phê
14


phán và sáng tạo, dám đổi mới vượt qua những rào cản của tư duy lối
mòn, cũ kỹ, cản trở sự phát triển của lý luận và thực tiễn.
Rõ ràng, đổi mới tư duy và lý luận là nhu cầu cấp thiết, nhưng phải trên
cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Như C. Mác, Ph.
Ăng-ghen đã chỉ rõ, cần tránh hai thái cực: hoặc đổi mới nhưng không
kiên định lập trường, đổi mới vô nguyên tắc hoặc biến học thuyết của các
ông trở thành giáo điều, tín điều nhất thành bất biến, coi đó chỉ là những
chân lý có sẵn.
Thứ ba, tiếp tục phát huy những kinh nghiệm quý báu mà Đảng ta đã đúc
kết qua thực tiễn hơn 93 năm lãnh đạo cách mạng. Đó là: 1- Nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện
tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo

đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau; 2- Sự
nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính
nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động
của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân
dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu,
tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối
với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng; 3Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn
kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý
báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta, như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tổng kết: Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết - Thành cơng,
thành cơng, đại thành cơng; 4- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hồn
cảnh nào cũng kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác
quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp
15


yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại; 5- Sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng khơng có lợi ích nào khác ngồi việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân, phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận
dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, khơng ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề
ngày càng nặng nề, phức tạp mà thực tiễn cách mạng, sự phát triển của
đất nước đang đặt ra trong bối cảnh mới.
Thứ tư, kiên quyết đấu tranh, vạch trần và bác bỏ những luận điệu sai trái,
xuyên tạc về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về mơ hình chủ nghĩa xã hội, về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng và Nhà

nước ta. Trong cuộc đấu tranh này, chúng ta cần cảnh giác, không rơi vào
giáo điều, nhưng cũng cần phải tỉnh táo, chống lại những mưu toan nhằm
xét lại, bác bỏ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và những nội dung cốt lõi trong đường lối đổi mới
của Đảng ta. Ngày nay, trong khi tiếp tục đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc
đổi mới cả bề rộng lẫn chiều sâu, với tình hình thế giới có nhiều diễn biến
phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường, những vấn đề mới đặt ra
ngày càng nhiều, đòi hỏi cần phải làm sáng tỏ, thì việc tổng kết thực tiễn,
vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận càng trở nên cấp bách. Mặt khác,
các thế lực thù địch vẫn ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hịa bình”
hịng làm chúng ta đi chệch hướng, mưu toan thay đổi chế độ chính trị ở
nước ta, thì việc đấu tranh bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối đổi mới của
Đảng càng trở thành nhiệm vụ hàng đầu và thường xun trong cơng tác
chính trị, tư tưởng và lý luận của Đảng ta.

16


Thứ năm, bảo đảm tính độc lập, tự chủ, sáng tạo trong xây dựng, bổ sung,
phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới. Kinh nghiệm lãnh đạo cách
mạng nước ta của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy, cần giữ vững được
tính độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc vận dụng, bổ sung, phát triển
đường lối, trên cơ sở tiếp thu một cách có chọn lọc trên tinh thần phê
phán những thành quả văn minh của nhân loại, những thành tựu mới nhất
về tư tưởng và khoa học vào thực tiễn đất nước thì cách mạng thu được
thắng lợi. Đây cũng là vấn đề quan trọng hàng đầu trong việc giữ vững và
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, để “tiếp tục phát huy truyền thống,
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, khơi
dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát

vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc;
góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước
đang phát triển, có cơng nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến
năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”

17


C. KẾT LUẬN
Trong bối cảnh hiện nay, với những thách thức đa dạng và động
lực phát triển không ngừng, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong triết học Mác - Lênin trở nên hết sức quan trọng và cần thiết.
Chủ nghĩa này không chỉ là một bộ khung lý thuyết uyên bác, mà còn là
hướng dẫn tận tâm cho việc hình thành và phát triển xã hội. Đặc biệt,
nguyên tắc này nhấn mạnh sự tương tác đôi chiều giữa lý luận và thực
tiễn, tạo nên một chu trình phát triển khơng ngừng, đồng thời giúp chúng
ta hiểu rõ hơn về cách áp dụng triết học Mác - Lênin vào cơng cuộc đổi
mới ở nước ta.
Trong q trình nghiên cứu và phân tích, ta nhận thức được rằng
việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn không chỉ
là việc đơn thuần chấp nhận ý thức lý luận mà còn đòi hỏi sự đổi mới và
linh hoạt trong việc áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Điều này
đặt ra thách thức lớn, đòi hỏi sự sáng tạo và khả năng đổi mới không
ngừng của những người lãnh đạo và nhà quản lý. Thông qua việc đối mặt
với những thách thức này, chúng ta sẽ có cơ hội hiểu sâu hơn về khả năng
ứng dụng linh hoạt và sáng tạo của triết học Mác - Lênin trong q trình
đổi mới, từ đó xây dựng một xã hội phồn thịnh, công bằng và tiến bộ.

18




×