Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Khóa luận nét đẹp triều phục hoàng gia nhà nguyễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.35 MB, 75 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC

NGUYỄN THỊ KHÁNH LINH

NÉT ĐẸP TRIỀU PHỤC HỒNG GIA

Khóa luận xã hội học
NHÀ NGUYỄN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

NÉT ĐẸP
TRIỀUxã
PHỤC
HỒNG
Khóa
luận
hội
họcGIA


NHÀ NGUYỄN

Họ và tên

: Nguyễn Thị Khánh Linh

Lớp

: QH – 2015 – X – TR

Mssv

: 15032500

Giảng viên hướng dẫn : ThS Đỗ Thị Minh Thảo

Hà Nội – 2019


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và chỉ bảo nhiệt tình của các
thầy cơ trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, các thầy cô giáo khoa
Triết học đã giúp em xây dựng hệ thống lý luận căn bản để em hồn thành
khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo thư viện Tôn giáo, thư viện
đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã tạo điều kiện để em hồn thành khóa
luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các bác, các cô, các chú trong ban Tuyên
giáo thành phố Huế, các cô chú hướng dẫn viên, các bậc cha chú - những
người đi trước tìm hiểu và có cái nhìn sâu sắc về đề tài này đã nhiệt tình chia

sẻ thơng tin để em hồn thành khóa luận.
Sau cùng em xin cảm ơn cô giáo. ThS Đỗ Thị Minh Thảo - giảng viên
hướng dẫn khóa luận đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện để em hồn thành

Khóa luận xã hội học

khóa luận này.

Em xin cam đoan những thơng tin có trong khóa luận là những thơng
tin lấy từ những nguồn tài liệu chính thống và đáng tin cậy. Do phạm vi đề tài
rộng, thời gian nghiên cứu hạn hẹp và trình độ hạn chế nên trong khóa luận
khơng tránh khỏi thiếu sót, nên em kính mong các thầy cơ có những kiến đóng
góp em sẽ tiếp thu và hồn thành khóa luận tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. ĐÔI NÉT VỀ NHÀ NGUYỄN VÀ NÉT ĐẸP TRIỀU
PHỤC HOÀNG GIA NHÀ NGUYỄN TỪ 1802 - 1945 ............................... 4
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Triều Nguyễn ......................... 4
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ....................................................... 4
1.1.2. Gia phả hoàng gia nhà Nguyễn ......................................................... 6
1.1.3. Triều phục hoàng gia nhà Nguyễn với tiêu chí thẩm mỹ của
người cung đình xưa ................................................................................... 8
1.2. Những nét riêng và độc đáo của Triều phục hoàng gia Việt
Nam.............................................................................................................. 14
1.2.1. So sánh Triều phục Hoàng gia Nhà Nguyễn Việt Nam và triều
phục hoàng gia Nhà Mãn Thanh Trung Quốc ......................................... 14
1.2.2. So sánh triều phục của vua và triều phục của bá quan văn võ ....... 20


Khóa luận xã hội học

1.2.3. Thường phục của nhân dân và binh lính thời Nhà Nguyễn ............ 25
Chương 2. NÉT ĐẸP TRIỀU PHỤC HOÀNG GIA NHÀ NGUYỄN,
TỪ DI SẢN VĂN HÓA CỦA NHÂN LOẠI ĐẾN THÁCH
THỨCBẢO TỒN VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN .................................... 28
2.1. Nét đẹp triều phục hoàng gia nhà Nguyễn nhìn từ giá trị di sản
văn hóa của nhân loại ................................................................................ 28
2.1.1. Giá trị di sản văn hóa của hồng phục triều Nguyễn ...................... 28
2.1.2. Giá trị tơn giáo tín ngưỡng của hồng phục triều Nguyễn ............. 30
2.2. Biện pháp bảo tồn và quảng bá hình ảnh của triều phục hoàng
gia nhà Nguyễn. .......................................................................................... 31
2.3. Ý nghĩa của việc bảo tồn và quảng bá hình ảnh của triều phục
hoàng gia Nhà Nguyễn tới giới trẻ và bạn bè trên thế giới .................... 33
KẾT LUẬN .................................................................................................... 35
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 37
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 70


Khóa luận xã hội học


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong văn kiện Hội nghị Trung ương Đảng 5 khóa VIII, Đảng ta đã chỉ
rõ: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, tinh hoa của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước”. Nền văn hóa tiên tiến phải có sắc thái riêng, cái độc
đáo của truyền thống, tâm hồn, cốt cách, lối sống,... của cả một dân tộc, chứa

đựng tinh hoa của quá khứ kết hợp những cái tốt đẹp của hiện tại. Trong thời
kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, xã hộ ngày càng đổi mới thì nét
văn hóa truyền thống một mặt có sự kế thừa, mặt khác lại bị mai một. Con
người ngày càng quan tâm đến những giá trị văn hóa du nhập từ nước ngồi,
trong đó có phong cách thời trang. Các nước có cách bảo tồn và phát triển các
trang phục truyền thống của mình, trong khi việc đó ở nước ta lại chưa chú
trọng. Cũng có những lễ hội áo dài, những chương trình trình diễn thời trang

Khóa luận xã hội học

liên quan đến áo dào nhưng về trang phục cung đình xưa lại chưa được đi sâu
khai thác. Đây chính là lý do em chọn đề tài: “Nét đẹp triều phục hoàng gia
nhà Nguyễn” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. Em muốn nhấn mạnh đến nét
đẹp độc đáo cũng như tầm ảnh hưởng của trang phục cung đình hồng gia
Triều Nguyễn. Để qua đó, giới trẻ có cái nhìn sâu sắc hơn về những nét đẹp
tạo nên bức tranh lịch sử rực rỡ của nước nhà.
2. Tình hình nghiên cứu
Trước đây đã từng có những tác giả đã đề cập đến vấn đề ao mũ của
vua chúa, quan lại cổ trang Việt Nam như tác giả Trần Quang Đức với tác
phẩm sách Ngàn năm áo mũ. Cuốn sách là một nghiên cứu công phu và đầy
tham vọng của Trần Quang Đức: dựng lại bức tranh trang phục Việt Nam
trong cung đình và ngồi dân gian trong khoảng một nghìn năm từ thời Lý
đến thời Nguyễn (1009-1945). Cuốn sách có đề cập đên trang phục Hoàng gia
Nhà Nguyễn nhưng lại được nghiên cứu song song với các Triều đại khác nên
chưa làm bật lên được nét đẹp uy nghiêm, rực rỡ của trang phục này.
1


Kế từ sau cuốn sách Ngàn năm áo mũ của tác giả Trần Quang Đức, một
lần nữa người trẻ ham mê lịch sử lại tái ngộ với triều phục của Hoàng gia VN

qua dự án Anh Hoàng của một bạn trẻ 9X - Vũ Đức. Dự ấn tuy đạt được
những nghiên cứu chuyên sâu nhất định nhưng lại trên hình ảnh,chưa có lý
luận để người đọc hiểu rõ hơn về Hồng phục Triều Nguyễn. Cũng có những
tác giả như Đỗ Bằng Đoàn,Đỗ Trọng Huề với tác phẩm Những đại lễ và vũ
khúc của vua chúa, tác giả Võ Hương – An với Từ điển Nhà Nguyễn, và một
số tác giả khác đã đề cập đến vấn đề này nhưng chưa đưa ra được nhận định
một cách bao quát nhất về giá trị, ý nghĩa cũng như phương pháp bảo tồn
trang phục này.Vậy khóa luận của em dựa trên cơ sở kế thừa,tiếp thu và phát
triển từ các nghiên cứu đi trước, tổng hợp lại, hồn thiện giúp độc giả có cái
nhìn tổng qt nhất về hồng phục Triều Nguyễn.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Khóa luận xã hội học

Tiếp thu những bài học từ thế hệ đi trước, nhằm tôn vinh nét đẹp trang
phục truyền thống dân tộc, để có được cái nhìn sâu sắc hơn, nhân văn hơn về
triều phục hoàng gia Việt Nam. Từ đó đề ra các biện pháp bảo tồn và phát huy
nét đẹp trang phục cung đình Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa các dữ liệu còn rời rạc, tiếp thu các nghiên cứu của các
tiền bối đi trước nhằm hoàn thiện hơn những nghiên cứu về triều phục.
Mơ tả thực trạng, phân tích và đánh giá từ đó đưa ra biện pháp bảo tồn
nét đẹp hoàng phục triều Nguyễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là triều phục hoàng gia nhà Nguyễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu triều phục hoàng gia của nhà Nguyễn tại
cung đình Huế từ năm 1802 đến năm 1945. Trong đó tập trung nghiên cứu

triều phục hoàng gia mặc lúc thượng triều và các dịp lễ quan trọng.
2


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài thực hiện trên cơ sở thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Đề tài được nghiên cứu từ góc độ liên ngành mỹ học, lịch sử, tơn giáo học...
Ngồi ra, đề tài cịn kế thừa và phát triển nghiên cứu của các nhà khoa
học đi trước, sử dụng tài liệu báo cáo của các cơng trình khoa học, và tài liệu
ở các thư viện lịch sử, thư viện quốc gia.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật, kết hợp với các
phương pháp cụ thể như: logic – lịch sử, phân tích – tổng hợp, so sánh.
6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Qua đề tài này, em muốn nhấn mạnh nét đẹp độc đáo cũng như tầm ảnh
hưởng của hồng phục cung đình Huế, đặc biệt là trang phục cung đình hồng
gia triều Nguyễn. Để qua đó, giới trẻ có cái nhìn sâu sắc hơn về những nét

Khóa
luận

hội
học
giải pháp bảo tồn và phát triển cũng như quảng bá nét đẹp của hoàng phục

đẹp tạo nên bức tranh lịch sử trang phục rực rỡ của nước nhà. Từ đó, tìm ra
đến bạn bè thế giới.
7. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp
Ngồi mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm

2 chương, 6 tiết.

3


Chương 1
ĐÔI NÉT VỀ NHÀ NGUYỄN VÀ NÉT ĐẸP
TRIỀU PHỤC HOÀNG GIA NHÀ NGUYỄN TỪ 1802 - 1945
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Triều Nguyễn
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Nhà Nguyễn (1802 – 1945) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch
sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi Nguyễn Ánh lên ngơi năm
1802 và chấm dứt hồn tồn khi Hồng đế Bảo Đại thoái vị vào năm 1945,
tổng cộng là 143 năm. Triều Nguyễn là một triều đại đánh dấu nhiều thăng
trầm của lịch sử, đặc biệt là cuộc xâm lược của người Pháp vào giữa thế kỷ
19. Triều Nguyễn trải qua hai giai đoạn chính:
Giai đoạn thứ nhất (1802–1858), được coi là giai đoạn độc lập, các vua
nhà Nguyễn nắm toàn quyền quản lý đất nước, trải qua 4 đời vua: Gia Long,
Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Gia Long và sau đó là Minh Mạng đã cố

Khóa luận xã hội học

gắng xây dựng đất nước trên nền tảng Nho giáo và xóa bỏ các cải cách theo
hướng tiến bộ của nhà Tây Sơn. Trong thời kỳ này, nội bộ đất nước khơng ổn
định, triều Nguyễn ít được lịng dân, chỉ trong 60 năm đã xảy ra hơn 400 cuộc
nổi dậy của người dân. Thời kỳ vua Minh Mạng lại diễn ra nhiều cuộc chiến
tranh giành lãnh thổ ở Campuchia nên đã khiến ngân khố cạn kiệt, đến thời
vua Tự Đức thì mọi mặt của đất nước đều sút kém đi. Từ thập niên 1850, một
nhóm trí thức Việt Nam, tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ, đã nhận ra sự trì trệ
của đất nước và yêu cầu học hỏi phương Tây để phát triển công nghiệp –

thương mại, cải cách quân sự – ngoại giao, nhưng họ chỉ là thiểu số. Đa số
quan chức triều Nguyễn và giới sĩ phu không ý thức được sự cần thiết của
việc cải cách và mở cửa đất nước nên Tự Đức không quyết tâm thực hiện
những đề xuất này. Đất nước dần trở nên trì trệ, lạc hậu và đứng trước nguy
cơ bị thực dân châu Âu xâm chiếm.
Giai đoạn thứ hai (1858–1945), được coi là giai đoạn bị Pháp xâm lăng
và đô hộ, kể từ khi quân Pháp đánh Đà Nẵng và kết thúc sau khi hoàng đế
4


Bảo Đại thoái vị. Tháng 8 năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ tấn công vào cảng
Đà Nẵng và sau đó chiếm Gia Định. Tháng 6 năm 1862, vua Tự Đức ký hiệp
ước cắt nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba
tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thuộc địa Cochinchine (Nam
Kỳ). Sau khi củng cố vị trí vững chắc ở Nam Kỳ, từ năm 1873 đến năm 1886,
Pháp xâm chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến
ở Bắc Kỳ. Đến năm 1884 thì nhà Nguyễn chính thức cơng nhận quyền cai trị
của Pháp trên tồn Việt Nam. Pháp có quyền cai trị, cịn các vua nhà Nguyễn
chỉ cịn là tượng trưng, qn Pháp có thể tùy ý phế lập vua Nguyễn. Giai đoạn
này kết thúc khi Bảo Đại tuyên bố thoái vị năm 1945.
Nhà Nguyễn trong thời gian cai trị đã tập trung xây dựng hệ thống các
xưởng thủ công thuộc nhà nước, nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận. Năm
1803, Gia Long thành lập xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long.
Nhà Nguyễn cũng lập các ti trông coi các ngành thủ cơng, như ti Vũ khố quản lý

Khóa
luận

hội
học

bạc, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện
nhiều ngành thủ công khác nhau, bao gồm 57 cục: làm đất, đúc, làm đồ vàng

đồng... Ti Thuyền chịu trách nhiệm về các loại thuyền cơng và thuyền chiến,
gồm 235 sở trên tồn quốc. Ngồi ra cịn có các ti Doanh kiến, ti Tu tạo, ti
Thương bác hỏa dược. Thủ công nghiệp thời Nguyễn chế tạo tất cả những đồ
dùng cho hoàng gia, tham gia đóng thuyền cho qn đội, đúc vũ khí, đúc tiền...
Phần lớn nhân lực trong các xưởng thủ công của nhà nước phong kiến
là do triều đình trưng dụng thợ khéo trong các ngành như khảm xà cừ, kim
hoàn, thêu thùa... tới làm việc để cung cấp đồ dùng cho triều đình. Đối với
nghề đóng tàu, năm 1820 sĩ quan người Mỹ, John White đã nhận xét: “Người
Việt Nam quả là những người đóng tàu thành thạo. Họ hồn thành cơng trình
của họ với một kỹ thuật hết sức chính xác”. Ngồi các thuyền gỗ, người thợ
thủ cơng cịn đóng cả các loại tàu lớn bọc đồng.
Ngoài ra họ đã sáng chế được nhiều máy móc và có chất lượng vào thời
đó, ví dụ các máy cưa xẻ gỗ, máy tưới ruộng... Trong ngành khai mỏ, đến nửa
5


đầu thế kỷ 19, triều đình đã quản lý 139 mỏ, và năm 1833 có 3.122 nhân cơng
trong các mỏ Nhà nước, tuy nhiên, phương thức khai mỏ thời bấy giờ vẫn
kém phát triển so với thế giới.
1.1.2. Gia phả hoàng gia nhà Nguyễn
Trong 143 năm tồn tại kể từ khi thành lập năm 1802 cho đến khi sụp đổ
1945, nhà Nguyễn có 13 vị vua cai trị thuộc 7 thế hệ. Tính theo Đế hệ thi của
Minh Mạng thì dòng họ nhà Nguyễn chỉ truyền đến chữ thứ 5 (Vĩnh) tương
đương với thế hệ thứ 5 kể từ các con Minh Mạng.
Miếu
hiệu
Thế Tổ


Thụy hiệu

Tên

Năm

Niên hiệu

Lăng

Nguyễn Phúc Ánh

1802–1820

Thiên Thọ
Lăng

Thánh Tổ Nhân hồng đế

Nguyễn Phúc
Đảm

1820–1841

Hiến Tổ

Chương hồng đế

Nguyễn Phúc

Miên Tơng

1841–1847

Dực
Tơng

Anh hồng đế

Cung
Tơng

Huệ hồng đế

嘉隆
Gia Long
明命
Minh Mạng
紹治
Thiệu Trị
嗣德
Tự Đức
育德
Dục Đức
協和
Hiệp Hịa
建福
Kiến Phúc
咸宜
Hàm Nghi

同慶
Đồng Khánh
成泰
Thành Thái
維新
Duy Tân
啟定
Khải Định
保大
Bảo Đại

Cao hồng đế

Nguyễn Phúc
1847–1883
Khóa luận

hội
học
Hồng Nhậm
Nguyễn Phúc
Ưng Ái

1883

Nguyễn Phúc
Hồng Dật

1883


Nghị hoàng đế

Nguyễn Phúc
Ưng Đăng

1883–1884

Xuất Đế

Nguyễn Phúc
Ưng Lịch

1884–1885

Thuần hồng đế

Nguyễn Phúc
Ưng Kỷ

1885–1889

Văn Lãng
vương/Phế Đế
Giản
Tơng

Cảnh
Tơng

Hoằng

Tơng

quận

Hồi Trạch cơng/Phế Nguyễn Phúc Bửu
Đế
Lân

1889–1907

Phế Đế

Nguyễn Phúc
Vĩnh San

1907–1916

Nguyễn Phúc Bửu
Đảo

1916–1925

Nguyễn Phúc
Vĩnh Thụy

1926–1945

Tuyên Hoàng Đế

6


Hiếu Lăng
Xương
Lăng
Khiêm
Lăng
An Lăng

Bối Lăng

Tư Lăng
An Lăng
An Lăng
Ứng Lăng


Sơ đồ các vua nhà Nguyễn:

1
Gia Long
1802 – 1819

2
Minh Mạng
1820 – 1840

3
Thiệu Trị
1841 – 1847


Khóa luận xã hội học

4
Tự Đức
1847 - 1883

Thoại Thái
Vương

5
Dục Đức

9
Đồng Khánh

7

Kiên Thái
Vương

6
Hiệp Hòa
1883

8
Hàm Nghi

7
Kiến Phúc



1883

1885 – 1889

10
Thành Thái
1889 - 1907

12
Khải Định
1916 – 1925

11
Duy Tân
1907 - 1916

13
Bảo Đại
1926 – 1945

1884 - 1885

1883 - 1884

1.1.3. Triều phục hồng gia nhà Nguyễn với tiêu chí thẩm mỹ của

Khóa luận xã hội học

người cung đình xưa


1.1.3.1. Triều phục hoàng Gia

Triều phục hoàng gia là trang phục Hoàng tộc mặc trong những dịp
quan trọng hoặc khi thiết triều. Triều phục hoàng gia được thiết kế tinh xảo,
xa hoa, rực rỡ nhưng cũng không kém phần trang trọng, uy nghi để tỏ rõ sự
tơn nghiêm của hồng tộc. Triều phục của hồng gia được là từ chất liệu vơ
cùng q hiếm, họa tiết rồng phượng được thêu khéo léo từ bàn tay của người
nghệ nhân giỏi nhất.
Trang phục của vua có mũ miện, áo long cổn, xiêm, đai, hia, hốt…
– Mũ miện, thân mũ hình trịn ống, đan bằng dây thau, rộng hẹp tùy cỡ
đầu, mặt ngoài bọc lụa màu huyền, trong lót lụa màu đỏ. Đặt lên trên thân mũ
là một ván gỗ mỏng hình chữ nhật, cạnh trước và cạnh sau đeo 24 dây tua bằng
vàng, xâu 300 hột san hô, trân châu, pha lê và 400 hạt vàng. Đỉnh mũ đính hai
chữ vạn thọ bằng vàng. Xung quanh thân mũ có 12 hình rồng vàng, 6 hình
ngọn lửa cũng bằng vàng. Lại dát hình hoa sen và đám mây bằng 256 hột vàng.

8


Khi đội mũ, dùng một khăn chít ở trán để đội cho chặt (võng cân).
Khăn dệt bằng tơ vàng.
– Áo long cổn bằng sa tanh màu thanh thiên, cổ tròn bằng đoạn bát ty
màu quan lục, trong lót lụa trắng. Thân áo thêu nhiều họa tiết: mặt trời, mặt
trăng, sao, núi, rồng v.v… Vạt áo thêu rồng, mây, hình sóng nước… Tay áo
cũng có họa tiết hình hai con rồng quay đầu xuống. Bên trong mặc áo đơn
màu bạch tuyết, cửa tay thêu hình rồng mây.
– Xiêm bằng sa màu vàng bóng, dưới viền gấm, thêu các họa tiết: ngọn
lửa, hạt gạo, hình phất, hình phủ… lại cịn đính các thứ ngọc bội, khánh ngọc,
ngọc huỳnh, hạt vân mẫu, san hơ, hổ phách… Khi đi lại, các thứ đó va chạm

vào nhau, phát ra âm thanh rủng rẻng.
– Đai làm bằng da bọc đoạn màu vàng, giữa đính một miếng ngọc hình
vng, xung quanh gắn sáu viên ngọc trắng hình quả trám, bịt vàng, 392 hạt
châu ngọc, bên trong có sáu khuy để đính vào áo.

Khóa
luận

hội
học
thêu hình rồng, mây, đính ngọc, kim cương và những miếng kính cùng nhiều

– Hia, ngồi bọc đoạn màu đen, trong lót đoạn màu đỏ. Xung quanh

thứ khác.
– Hốt (cầm tay) của vua bằng ngọc, dài một thước hai tấc (khoảng
40cm), ngang ba tấc (khoảng 10cm), có túi gấm đựng.
Khi biên soạn bộ Điển lệ nổi tiếng của triều Nguyễn, Khâm định Ðại
Nam hội điển sự lệ, các sử quan của triều đình đã dành quyển 78 và quyển
242 để bàn về việc ăn mặc của các bậc đế, hậu, hồng tử, cơng chúa, quan
lại… triều Nguyễn, từ trang phục dùng trong các dịp triều lễ, khánh tiết, tết
nhất, cho đến thường phục, kể cả nội y, phụ kiện của y phục...
Triều Nguyễn có những quy định khác biệt về trang phục cho các giai
tầng trong xã hội, dựa trên các tiêu chí như chất liệu vải, màu sắc, cách may,
họa tiết trang trí, thậm chí cả số lượng y phục dành cho từng hạng người cũng
có những quy định rất chặt chẽ.

9



Các loại vải lụa dùng để may trang phục, mũ mão cho vua chúa, hồng
thân quốc thích đều là hàng cao cấp, do triều đình đặt mua ở Trung Hoa. Các
vua Gia Long và Minh Mạng thường sai sứ thần sang Trung Hoa mua gấm
đoạn ở các vùng Nam Kinh, Giang Nam về để cung cấp cho nhu cầu trang
phục của hoàng gia. Trong cuốn “Histoire des Relations de la Chine avec
l’Annam - Việtnam du XVIe au XIXe siècle”, tác giả G. Devéria đã phản ánh
một sự kiện liên quan đến việc tìm mua vải lụa của các sứ thần Việt Nam khi
họ sang công cán Trung Hoa: “Sứ thần An Nam khi đi qua Nam Kinh muốn
mua lụa. Thanh triều không phản đối việc này, nhưng do đây là một việc mua
bán riêng tư, khơng có sự tiến cử của Thanh triều, nên các thương nhân Trung
Hoa đã tăng giá lên một cách thái quá, khiến sứ thần An Nam đã cãi cọ với họ
nên các quan cầm quyền phải can thiệp vào. Từ đó về sau, Thanh triều yêu
cầu sứ thần sẽ phải nộp cho nhà chức trách danh sách các món hàng mà mình
muốn mua. Các nhà chức trách Trung Hoa sẽ có nhiệm vụ mua hàng giúp cho

Khóa
luận

hội
học
cho phía Việt Nam (vì họ cho rằng chỉ có hồng đế Trung Hoa mới được mặc
các sứ thần”. Tuy nhiên, do nhà Thanh không muốn bán gấm lụa màu vàng

áo màu vàng), nên từ đời Thiệu Trị trở đi, nhà Nguyễn đã đặt các hộ dệt vải
lụa ở Hà Đông chuyên dệt lụa, gấm màu vàng dành riêng cho triều đình. Các
hộ dệt vải lụa truyền thống ở một số địa phương khác cũng được yêu cầu tiến
nộp các mặt hàng dệt cao cấp thay cho việc nộp thuế bằng tiền.
Rất nhiều tư liệu về phục trang của vua Khải Định được lưu truyền đến
ngày nay trên tượng và trên ảnh chụp đã cho ta hình dung về thời giao lưu
văn hóa Đơng Tây qua trang phục của Vua như thế nào. Mũ Thông thiên, áo

thụng, và nhiều mề đay kiểu Pháp đến chiếc khăn xếp và áo tay gọn gàng cho
thấy nhà vua rất chịu khó tiếp thu cái mới. Ở một góc độ khác, người ta cho
rằng đó là sự lai căn, sự lỗi thời của ngay ngai vàng, chứ không phải cứ là một
ông vua. Trên một bức tượng trưng bày trong bảo tàng Huế, vua mặc áo Tây
có mủ vai, xẻ ngực, quần chẽn dắt trong ủng cao. Dù kiểu cách thay đổi

10


nhưng trên áo quần vẫn giữ họa tiết hoa văn rồng phượng như cũ. Vua Khải
Định là một người rất thích cách tân, thay đổi kiểu cách trang phục.
Trên áo mão của các vua hậu triều Nguyễn thường đính vàng bạc, trân
châu, kim cương... để tăng thêm giá trị và uy nghi. Theo sách Khâm định Ðại
Nam hội điển sự lệ, trên chiếc mũ vua đội lúc thiết đại triều có đính 31 hình
rồng làm bằng vàng tốt; 30 đóa hoa vng có khảm ngọc, đính thêm 140 hạt
kim cương và trân châu. Mũ của hồng hậu có 9 con rồng, 9 con phượng bằng
vàng tốt, 9 miếng bồn khoan bằng bạc, 4 cái trâm bằng bạc có gắn 198 hạt
trân châu và 231 hạt pha lê. Khăn bịt trán thì làm bằng đoạn bát ti (vải đoạn
dệt từ tơ xe 8 sợi) màu thiên thanh, bên trong lót lĩnh đại tào màu vàng, trang
sức 4 cái khuyên vàng tốt và 4 sợi dây tơ. Tất cả áo mũ, xiêm y, hài ủng của
vua hậu cho đến phi tần, cung giai, tùy theo thứ bậc mà đính vàng bạc, trân
châu nhiều hay ít nhưng cái nào cũng có.
Về đề tài trang trí, sự phân chia thứ bậc theo chủ đề được tn thủ nghiêm

Khóa
luận

hội
học
chim phượng (có 3 dải đi), cịn áo công chúa thêu chim loan (giống như chim


ngặt. Áo vua thêu rồng, áo hồng tử trang trí lân. Áo hồng hậu thêu hoa và
phượng nhưng chỉ có 1 dải đi). Mũ đại triều của vua có 9 hình rồng hướng
thiên bằng vàng. Mũ của hoàng thái hậu thêu 9 con phượng. Mũ của cung giai
thì tùy theo thứ bậc mà có từ 1 chim phượng đến 7 chim phượng...
Triều phục của vua thì gọi là Long bào, hồng bào.
Triều phục của quan văn võ tướng gọi là phẩm phục.
Có phẩm phục đại triều là phẩm phục mặc khi thiết triều và phẩm phục
thường triều.
Chỉ dụ năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có nêu rõ:
“Việc chế định triều phục là để tỏ rõ người mặc là người có đức. Xưa
nay các quan văn võ được ban cấp phẩm phục triều theo chế định. Mỗi phẩm
cấp cho một bộ đại triều và thường triều phẩm phục này có trang trí rau tảo,
vân mây không giống nhau, viềm tua và màu sắc cũng khác, gấm lựa bất
đồng. Hoa văn ấy làm triều phục thêm rực rỡ. Tuy vậy trong hàng quan lại có
11


người do chức dịch được ban cấp phẩm phục có giá trị hơn phẩm hàm; lại có
người cùng phẩm hàm khơng được phẩm phục như thế. Vì như thế nên chế
định không phù hợp với phẩm cấp nên phải một lần phải định lại cho xong để
sáng tỏ phẩm hàn và tăng vẽ tôn nghiêm nơi triều nghi. Vậy truyền cho Bộ Lễ
bàn kỹ quan giai văn võ để định lại triếu phục cho đúng với phẩm hàm rồi tâu
lên, đợi trẫm ban sắc chỉ thi hành.
Khâm thử ”
1.1.3.2. Nét đặc trưng nổi bật trong triều phục hoàng gia nhà Nguyễn
Bộ mặt của một nhà nước phong kiến ngoài kinh tế, chính trị, giáo dục
cịn thể hiện trong văn hóa mặc. Mỗi một triều đại đi qua đều để lại những
dấu ấn riêng biệt về phong cách, đặc điểm trang phục cung đình, và hồng gia
triều Nguyễn cũng vậy. Thậm chí, vấn đề y phục ở triều đại này cịn được

biên soạn trong quyển 78 và 242 để luận về việc ăn mặc của các bậc vua chúa,
quý tộc, tập hợp trong Khâm định Ðại Nam hội điển sự lệ. Trong ăn mặc bình

Khóa
luận

hội
học
lạnh, nhưng đối với phục sức của một vương triều, họ quan tâm đến cách biểu

dân, người ta thường phân biệt y phục đông, hè, tức là đồ mặc lúc nóng, lúc
hiện về quyền lực và đẳng cấp cao thấp, hơn là thời tiết. Trong chuỗi phát
triển của phục trang Việt Nam, phục trang nhà Nhà Nguyễn nằm ở gia đoạn
cuối nên đã tổng kết rất nhiều loại phục trang vương triều đi trước và gần nhất
là Mãn Thanh.
- Phần mô tả:
Về chất liệu
Trang phục của các thành viên trong Hoàng tộc đều được may từ loại
vải cao cấp. Triều đình nhà Nguyễn phải mua từ Trung Quốc, trong đó gấm
đoạn thường mua ở Nam Kinh và Giang Nam. Phụ kiện
Vàng bạc, đá quý… là những phụ kiện ưa thích của hồng gia Nguyễn,
gắn lên trang phục để tôn lên vẻ sang trọng và uy nghiêm. Trong sách Khâm
định Ðại Nam hội điển sự lệ có ghi, chiếc mũ mà vua đội lúc thượng triều bàn
việc lớn được gắn 31 hình rồng bằng vàng, 30 đóa hoa vuông tọa trên khảm
12


ngọc, đính thêm 140 hạt kim cương và trân châu. Cịn mũ của hồng hậu có 9
con rồng, 9 con phượng bằng vàng, 4 trâm bạc có gắn tổng cộng 198 hạt trân
châu cùng 231 hạt pha lê… Tất cả đều là sản phẩm thượng hạng.

Họa tiết
Áo và mũ vua có thêu hình rồng, áo các hồng nam là lân. Trang phục
hồng hậu thêu hoa và chim phượng (có 3 dải đuôi), áo công chúa thêu chim
loan (khác chim phượng ở chỗ chỉ có 1 dải đi).
Cùng là rồng nhưng rồng trên áo vua thì có 5 móng; trên áo của Thế tử
là rồng 4 móng. Và nếu trên áo vua, hậu trang trí những con rồng có dáng vẻ
uy nghi, đường bệ thì trên áo mũ của hồng thân, tôn tước chỉ được phép là
những con mãng, con giao (các hóa thân ở thứ bậc thấp hơn của rồng). Trên
áo mão của hoàng thái hậu và hoàng hậu trang trí hoa văn đồn phượng (tức
chim phượng uốn lượn trong hình trịn), với những đường nét sinh động, được
thêu dệt cơng phu thì trên áo của cơng chúa và cung giai đã được biến tấu

Khóa
luận

hội
học
tiết là chữ Hán và cũng có sự phân hóa. Với áo vua, các chữ Phúc, Lộc, vạn

thành chim loan, chi tiết đi kèm cũng không nhiều bằng. Ngồi ra cịn có họa
Thọ được theo nổi, to rõ theo lối chữ triện, được nạm trân châu hay thêu kim
tuyến. Trong khi các chữ này trên áo phụ nữ thường nhỏ hơn và dệt chìm trên
mặt vải, thường phác họa bằng chữ chân và khơng đính gì.
Phân loại
Xét về mục đích, hồn cảnh, thời tiết thì trang phục của vua chúa được
chia ra thành các loại: trang phục đại triều hay thường triều; trang phục nghi
lễ hay thường phục; trang phục các mùa… với những tên gọi khác nhau.
Nói tới nghi lễ nhất định khơng thể qn lễ tế Nam Giao. Trong dịp
này, áo gọi là cổn, màu đen, tay áo được may rất rộng, thêu lưỡng long triều
nhật dọc theo hai vạt trước, đầu vua đội miện (chính là mũ). Trong hội tịch

điền, đích thân nhà vua sẽ phải xuống ruộng, trang phục bớt rườm ra, phơ
trương hơn. Đó là áo sa kép màu gạch non, có các chi tiết rồng nhỏ ẩn mình

13


trong mây. Long cổn vua mặc trong lễ tế đàn Nam Giao, lễ tế trời đất quan
trọng nhất của Hoàng tộc và của đất nước.
Nếu như trong phục trang quần áo ít khi thay đổi thì mũ và giày lại hay
thay đổi. Những mẫu giày của Hoàng gia Huế khá phong phú và đẹp mắt.
Theo tiến sĩ Đồn Thị Tình, trong cuốn Trang phục Việt Nam, ngoài 7 kiểu
dép, guốc và 6 loại giày thơng thường khác nhau thì có 8 loại hài cho các bậc
quyền quý như: văn hài, hài bịch gót, hài chân hoa, hài vua, hài hồng hậu,
hài hoàng tử, hài thổ quan và hia ống cao. Mỗi loại đều được thiết kế rất
chuyên nghiệp.
Đi kèm với trang phục đại triều là đôi hài thêu rất cầu kỳ.
1.2. Những nét riêng và độc đáo của Triều phục hoàng gia Việt
Nam
1.2.1. So sánh Triều phục Hoàng gia Nhà Nguyễn Việt Nam và triều
phục hoàng gianhà mãn Thanh Trung Quốc

Khóa luận xã hội học

Hồng bào của vua nhà Thanh
Trong q trình tổng hợp và phát triển của mình, Hồng phục nhà
Nguyễn đã kế thừa Triều phục hoàng gia nhà Mãn Thanh. Tính kiểu cách và

14



nhiều màu sắc của Mãn Thanh được vận dụng phần nào nhưng phom áo quần,
kết cấu may cắt được học tập rất tinh khéo. Mỗi quan hệ này dù chưa được
nghiên cứu một cách thống nhất nhưng những tiếp nhận và ảnh hưởng là
khơng thể tránh khỏi. Vì bao giờ phong kiến Việt cũng coi trọng Thiên triều
Trung Hoa như một mẫu mực.
Bảo tàng văn vật Tơ Châu vẫn cịn giữ những mô phỏng trang phục vua
nhà Thanh.Áo bào của vua nhà Thanh cũng với các chi tiết mặt trời, trăng,
sao,cành rong,lưỡi búa, cung tên thường có trên y phục đại triều của vua
Nguyễn.Cũng là áo tay thụng, nhưng áo của vua Nhà Thanh được cắt thẳng từ
2 bên sườn nên khi chưa mặc,trơng thành 1 khối hình học vng, khác lối tay
hụng chéo ở Việt Nam. Giống với nhà Thanh, nhà Nguyễn ở gấu áo cũng có
những cột dọc ở dưới họa tiết song ba đào bên trên nâng con rồng ( phượng)
bay lên.
Nhà Thanh là một triều đại do dịng họ Ái Tân Giác La ở Mãn Châu

Khóa
luận

hội
học
Tiên và phía Đơng Bắc Trung Quốc. Hiện nay, vùng đất này bị phân chia giữa
thành lập. Khi đó, Mãn Châu là một địa danh nằm tại phía bắc bán đảo Triều
khu vực Viễn Đông Nga với Đông Bắc Trung Quốc. Nhà Thanh cũng là triều
đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc và Mông Cổ.
Triều đại này từng được tộc người Nữ Chân (đứng đầu bởi Nỗ Nhĩ Cáp
Xích) xây dựng với quốc hiệu Đại Kim vào năm 1616 tại Mãn Châu - sử sách
gọi là nhà Hậu Kim (để phân biệt với nhà Kim cũng của người Nữ Chân, từng
tồn tại vào thế kỷ 12-13). Cho đến năm 1636, Hoàng Thái Cực đổi quốc hiệu
thành Đại Thanh, và mở rộng lãnh thổ vào lục địa Đông Á cũng như các khu
vực xung quanh. Nhà Thanh chinh phục và trở thành triều đình cai trị của

Trung Quốc (1644-1659), Đài Loan (1683), Mông Cổ (1691), Tây Tạng
(1751), Tân Cương (1759), hoàn thành cuộc chinh phục của người Mãn Châu.
Trong thời gian trị vì, nhà Thanh đã củng cố quyền quản lý của họ đối
với Trung Quốc, hoà nhập với văn hoá Trung Quốc, và đạt tới tầm ảnh hưởng
cao nhất của Đế quốc Trung Hoa. Tuy nhiên, sức mạnh quân sự của họ đã
15



×