Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại nhnoptnt chi nhánh tây hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.78 KB, 97 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
NHTM là một trung gian tài chính có vai trị quan trọng đối với sự phát
triển của nền kinh tế thơng qua chức năng nhận tiền gửi, cung cấp tín dụng và
thực hiện các dịch vụ ngân hàng. Ngày nay, các ngân hàng thường có xu hướng
mở rộng các loại hình dịch vụ của mình nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của xã hội. Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ ra đời từ những năm 70 của
thế kỷ 20 được sử dụng như là một công cụ để đảm bảo tính lành mạnh của các
quan hệ kinh tế vốn ngày một phức tạp. Trên thế giới nghiệp vụ bảo lãnh đã
phát triển khá mạnh mẽ và phổ biến. Bảo lãnh ngân hàng hỗ trợ cho tất cả các
giao dịch từ các giao dịch phi tài chính như hợp đồng mua bán, thuê tài sản
hoặc hợp đồng xây dựng cho đến các giao dịch tài chính như vay nợ, phát hành
trái phiếu, tái bảo hiểm và các cam kết tài chính khác.
Tại Việt Nam, bảo lãnh ngân hàng được thực hiện từ năm 1994. Nghiệp
vụ bảo lãnh tuy mới ra đời nhưng đã có những đóng góp thiết thực trong quan
hệ vay vốn, hợp đồng... và đang có xu hướng phát triển và mở rộng.
Hoạt động bảo lãnh tại NHNo&PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội ngay từ
khi ra đời đã gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng đang ngày càng phát triển
và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Song trong thực tế nghiệp vụ bảo lãnh
đã phát sinh những khó khăn và tồn tại cần tháo gỡ nhanh chóng để nâng cao
hơn nữa chất lượng hoạt động bảo lãnh, tăng thu nhập của ngân hàng, đáp ứng
nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng.
Xuất phát từ nhận thức rõ về tầm quan trọng của việc nghiên cứu, đánh
giá một cách toàn diện chất lượng hoạt động bảo lãnh, em đã lựa chọn đề tài:
“Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại NHNo&PTNT Chi
nhánh Tây Hà Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu


-

Hệ thống hoá các lý luận liên quan đến hoạt động bảo lãnh và chất

Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B


Chuyên đề tốt nghiệp

2

lượng hoạt động bảo lãnh.
-

Đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh tại NHNo&PTNT Chi nhánh

Tây Hà Nội.
-

Trên cơ sở đánh giá thực tiễn hoạt động bảo lãnh để đề xuất một số giải

pháp và kiến nghị có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh
tại NHNo&PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động bảo lãnh tại NHNo&PTNT Chi


nhánh Tây Hà Nội.
-

Phạm vi nghiên cứu: Chuyên đề chủ yếu đi sâu vào đánh giá chất lượng

hoạt động bảo lãnh tại NHNo&PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội trong giai đoạn từ
năm 2004 đến 12/2006 qua một số chỉ tiêu định lượng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu là:
-

Phương pháp duy vật biện chứng: nghiên cứu hoạt động bảo lãnh và các

chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh trong mối liên hệ tổng thể chung
với hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng và môi trường xung quanh.
-

Phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác

-

Phương pháp trừu tượng hoá khoa học

-

Phương pháp thống kê chọn mẫu kết hợp với phân tích tổng hợp, so

sánh và mơ hình hố...
5. Kết cấu của chun đề
Ngồi phần mở đầu phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,

chuyên đề được kết cấu trong ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng chất lượng bảo lãnh tại NHNo&PTNT Chi
nhánh Tây Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động bảo lãnh tại NHNo&PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội.

Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B


Chuyên đề tốt nghiệp

3

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG
HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng
Bộ Luật dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tại điều 366
có định nghĩa về bảo lãnh như sau:
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên
có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ (gọi là người được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
Theo Điều 20, Luật các tổ chức tín dụng và Điều 2 trong Quy chế bảo
lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày
26/6/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Bảo lãnh ngân hàng được định
nghĩa như sau:

Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng
(bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa
vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo
lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã
được trả thay.
Bên bảo lãnh là các tổ chức tín dụng bao gồm các NHTM nhà nước,
NHTMCP, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng chính sách,
Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân
hàng hợp tác, các loại hình ngân hàng khác và các tổ chức tài chính phi ngân
hàng thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng.
Bên được bảo lãnh là các khách hàng của ngân hàng bao gồm các
doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam: doanh nghiệp
nhà nước, công ty cổ phẩn, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh,
Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B


Chuyên đề tốt nghiệp

4

doanh nghiệp các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp
liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân,
hộ kinh doanh cá thể, các tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo
Luật các tổ chức tín dụng, hợp tác xã và các tổ chức có đủ điều kiện theo quy
định tại điều 94 Bộ Luật Dân sự, các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia các
hợp đồng hợp tác liên doanh và tham gia đấu thầu các dự án tại Việt Nam hoặc
vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam.

Bên nhận bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân trong và ngồi nước có đủ
năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Bên nhận bảo lãnh là bên
thụ hưởng lợi ích từ hợp đồng bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh (HĐBL) là văn bản thoả thuận giữa ngân hàng và
bên được bảo lãnh về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong việc bảo lãnh và
hoàn trả.
Hợp đồng gốc là văn bản thoả thuận giữa bên nhận bảo lãnh và bên được
bảo lãnh về quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong giao dịch kinh tế ban đầu.
1.1.2. Sự hình thành và phát triển của hoạt động bảo lãnh ngân hàng
1.1.2.1. Bảo lãnh ngân hàng ra đời là một tất yếu khách quan.
Kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của các giao dịch
thương mại. Các giao dịch ngày càng tăng về mặt số lượng, giá trị, độ phức tạp
và được mở rộng trên phạm vi tồn cầu. Vì vậy mà việc thực hiện các giao dịch
thường kéo dài và chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như: lãi suất, tỷ giá, sự
biến động giá... làm tăng khả năng xảy ra rủi ro (rủi ro từ khâu ký kết hợp đồng
cho đến rủi ro trong sản xuất và rủi ro trong thanh toán). Đặc biệt đối với
thương mại quốc tế khả năng xảy ra rủi ro lại càng cao khi mà các giao dịch có
sự ngăn cách về mặt khơng gian và thời gian, có sự khác biệt về thể chế chính
trị, hệ thống pháp lý, quy chế mậu dịch, điều kiện thị trường... Rủi ro có thể
phát sinh một cách chủ quan khi một bên đối tác khơng thiện ý, cố tình vi phạm
các điều khoản đã ký kết nhằm trục lợi cho bản thân và gây thiệt hại cho đối tác
của mình. Tuy nhiên cũng có thể hai bên đều mong muốn thực hiện những điều
Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B


Chuyên đề tốt nghiệp

5


đã ký kết nhưng do rủi ro khách quan như các biến động về kinh tế, xã hội, tự
nhiên hoặc các rủi ro khác không lường được khiến cho một bên khơng có khả
năng thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.
Đứng trước thực tế này người ta đã sử dụng nhiều công cụ khác nhau
nhằm tránh và hạn chế những thiệt hại có thể phát sinh như quy định các điều
khoản pháp lý để giải quyết tranh chấp, sử dụng tài sản cầm cố thế chấp để bồi
thường hoặc nhờ một bên thứ ba có uy tín, đáng tin cậy, có chun mơn và khả
năng tài chính đứng ra bảo đảm đền bù cho các thiệt hại (nếu phát sinh) dưới
hình thức bảo hiểm, bảo lãnh hoặc cung cấp một phương tiện thanh toán thuận
tiện và an tồn (trong thương mại).
Dưới hình thức đơn giản nhất, bảo lãnh có thể do một cá nhân đứng ra
cam kết miễn là người này có đủ uy tín, khả năng tài chính, sẵn lịng thực hiện
các nghĩa vụ của mình và được các bên tham gia giao dịch đồng ý. Hợp đồng
bảo lãnh có thể là một phần trực thuộc hợp đồng giao dịch và do đó nó có tên
gọi là bảo lãnh kèm theo trách nhiệm bảo lãnh của bên thứ ba, nó có tính phụ
thuộc vào hợp đồng gốc.
Với độ phức tạp ngày càng cao của các giao dịch, đặc biệt là các giao
dịch kinh tế có quy mô lớn, phạm vi rộng và giá trị cao, người đứng ra bảo lãnh
địi hỏi phải có một năng lực chun mơn nhất định để có thể xem xét cụ thể và
hiểu sâu về giao dịch đó, đồng thời người bảo lãnh thường không muốn liên
quan quá nhiều đến hợp đồng gốc, các bên tham gia cũng muốn đơn giản hố
q trình đền bù. Tất cả các điều đó thường vượt quá khả năng của một cá nhân
cụ thể, chỉ có các định chế tài chính lớn như các cơng ty bảo hiểm, cơng ty tài
chính, các ngân hàng mới có đủ khả năng thực hiện. Trong đó, bảo lãnh của các
NHTM là phát triển nhất. Sở dĩ như vậy là do các đặc điểm riêng có của các
NHTM, đó là:
o

NHTM thường xuyên cung cấp các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế nên


đã xây dựng được uy tín, cũng như mối quan hệ gắn bó, tin tưởng của khách
hàng với ngân hàng. Uy tín của ngân hàng là yếu tố quan tâm hàng đầu của
Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B


Chuyên đề tốt nghiệp

6

khách hàng khi quyết định lựa chọn dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng.
o

NHTM là một trung gian tài chính có khả năng huy động được một

nguồn vốn lớn trong nền kinh tế. Khả năng này đã đem lại cho ngân hàng một
tiềm lực tài chính rất to lớn, hồn tồn có thể đứng ra phát hành bảo lãnh để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng.
o

NHTM thông qua những hoạt động truyền thống như nhận tiền gửi, cho

vay, thanh tốn... thường xun nắm bắt, cập nhật, phân tích và lưu trữ những
thông tin về khách hàng, tạo cơ sở cho việc ra các quyết định bảo lãnh đúng đắn.
Như vậy sự ra đời của bảo lãnh là một tất yếu khách quan giúp phòng
ngừa những rủi ro trong các giao dịch tài chính và phi tài chính. Và sự phát
triển của bảo lãnh gắn chặt với các NHTM, một tổ chức tài chính có khả năng
cung cấp dịch vụ bảo lãnh tốt nhất.

1.1.2.2. Sự phát triển của hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Hoạt động bảo lãnh được cho là đã xuất hiện từ rất lâu, từ thời trung cổ ở
Hy Lạp, trong những mối quan hệ giữa các cá nhân trong cuộc sống thường ngày.
Đến giữa những năm 60 của thế kỷ XX bảo lãnh đã bắt đầu xuất hiện
trong thị trường nội địa nước Mỹ dưới hình thức thư tín dụng dự phịng. Tuy
nhiên phải tới những năm 70, hoạt động bảo lãnh ngân hàng mới được sử dụng
trong các giao dịch TMQT. Vào thời gian này, các quốc gia sản xuất dầu mỏ ở
Trung Đông thịnh vượng mau chóng liên tục ký kết những hợp đồng kinh tế lớn
với các nước phương Tây để thực hiện các dự án cải tạo cơ sở hạ tầng, dự án canh
tân cơng, nơng nghiệp, quốc phịng... Giá trị rất lớn của các hợp đồng và thế mạnh
tài chính của các quốc gia Trung Đơng đã cho phép họ phải có một sự bảo đảm
chắc chắn về phía đối tác khi tham gia vào các thương vụ giao dịch. Những bảo
lãnh độc lập do ngân hàng của các nước phương Tây phát hành đã thực sự đáp
ứng được yêu cầu về sự thuận lợi và an toàn cho các quốc gia nhập khẩu.
Ngày nay bảo lãnh của ngân hàng được thực hiện rộng rãi trên khắp thế
giới và tổng giá trị bảo lãnh tăng lên một cách đáng kể. Sẽ không sai khi nói
rằng bất kỳ một giao dịch lớn trên thế giới sẽ không thể diễn ra nếu thiếu sự hỗ
Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B


Chuyên đề tốt nghiệp

7

trợ của bảo lãnh. Bảo lãnh của ngân hàng cũng được sử dụng ngày càng nhiều
hơn trong các giao dịch trong phạm vi quốc gia. Sự phát triển này bắt nguồn từ
thực tế rằng bảo lãnh ngân hàng có thế sử dụng hỗ trợ bất kỳ giao dịch nào, từ
các hợp đồng xây dựng cho đến các hợp đồng tài chính như các khoản tín dụng

cho vay theo món hay thấu chi, tham gia liên doanh, phát hành trái phiếu, tái
bảo hiểm hay các cam kết tài chính khác.
Tại Việt Nam, từ sau đổi mới hệ thống ngân hàng năm 1988 đến nay,
các NHTM Việt Nam đã có sự phát triển đáng ghi nhận. Các nghiệp vụ ngân
hàng ngày càng phát triển phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, còn nhiều nghiệp
vụ ngân hàng mới chỉ được thực hiện ở giai đoạn đầu, trong đó có nghiệp vụ
bảo lãnh ngân hàng. Năm 1994, Quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của Thống đốc
NHNN được ban hành. Từ đó đến nay, quy chế đã được nhiều lần thay đổi bổ
sung cho phù hợp với tình hình thực tế. Hiện nay, các ngân hàng đều đang áp
dụng Quy chế Bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/
QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 của Thống đốc NHNN.
Triển khai thực hiện nghiệp vụ này, cạnh tranh giữa các NHTM trong
thời gian qua thường xun sơi động. Bên cạnh đó, các hoạt động hợp tác, đặc
biệt là việc tham gia đồng bảo lãnh đã trở nên phổ biến giữa các NHTM, đáp
ứng khá tốt và kịp thời các nhu cầu vốn lớn của khách hàng, góp phần nâng cao
cả dư nợ bảo lãnh và doanh số bảo lãnh của các NHTM. Tuy nhiên, nhìn chung
chất lượng hoạt động bảo lãnh chưa thực sự được các ngân hàng coi trọng. Cơ
cấu bảo lãnh chưa hợp lý mới chỉ phát triển tập trung ở lĩnh vực bảo lãnh nhập
hàng trả chậm và BLTHHĐ, BLDT... còn các nghiệp vụ bảo lãnh khác hầu như
chưa được thực hiện. Tỷ trọng bảo lãnh còn thấp trong doanh thu dịch vụ cũng
như trong Tổng doanh thu chung, hoạt động bảo lãnh phát triển chưa thực sự
tương xứng với tiềm năng.
1.1.3. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
1.1.3.1. Bảo lãnh ngân hàng là mối quan hệ đa phương:
Nghiệp vụ bảo lãnh có sự tham gia của ít nhất ba thành phần là: ngân
Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B



Chuyên đề tốt nghiệp

8

hàng bảo lãnh, người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh. Do đó một nghiệp
vụ bảo lãnh không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và người
được bảo lãnh mà còn bao hàm nhiều mối quan hệ khác nữa. Đó là quan hệ giữa
người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh và quan hệ giữa ngân hàng bảo
lãnh và người nhận bảo lãnh. Trong đó quan hệ giữa người được bảo lãnh và
người nhận bảo lãnh là mối quan hệ gốc, là cơ sở phát sinh yêu cầu bảo lãnh.
Trong mối quan hệ đó, người được bảo lãnh có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện
đối với người nhận bảo lãnh. Tuỳ từng loại hợp đồng mà nghĩa vụ đó có thể là
nghĩa vụ tài chính như nghĩa vụ trả nợ, nghĩa vụ đóng thuế... hoặc là nghĩa vụ
phi tài chính như nghĩa vụ cung ứng hàng hoá, dịch vụ, nghĩa vụ bảo hành sản
phẩm... Quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và người được bảo lãnh là quan hệ
giữa ngân hàng cấp tín dụng và khách hàng hưởng tín dụng. Ngồi ra, nếu
nghiệp vụ bảo lãnh cịn xuất hiện thêm các bên khác nữa như ngân hàng xác
nhận bảo lãnh... thì cịn xuất hiện thêm các mối quan hệ khác nữa giữa ngân
hàng xác nhận bảo lãnh và ngân hàng bảo lãnh... Còn quan hệ giữa ngân hàng và
bên nhận bảo lãnh thể hiện trong thư bảo lãnh do ngân hàng phát hành, quy định
những điều kiện để bên nhận bảo lãnh có thể nhận được thanh tốn của ngân
hàng trong trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ đã cam kết.
Như vậy, hoạt động bảo lãnh chỉ hình thành khi có sự thoả thuận thống
nhất từ cả ba chủ thể trên, được thể hiện cụ thể qua ba hợp đồng có liên quan.
Ba hợp đồng này tuy có sự độc lập với nhau song nó vẫn có những ảnh hưởng
qua lại. Đó chính là đặc điểm khác biệt giữa bảo lãnh với các hình thức cho
vay và bảo hiểm.
1.1.3.2. Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập
Nghiệp vụ bảo lãnh dựa trên mối quan hệ đa phương tuy nhiên quyền
lợi nghĩa vụ của các chủ thể trong các mối quan hệ đó là độc lập tương đối. Đó

là sự độc lập về pháp lý giữa hai mối quan hệ: ngân hàng với người được bảo
lãnh và ngân hàng với người nhận bảo lãnh. Hay nói cách khác, đó là sự độc
lập của bảo lãnh ngân hàng, hợp đồng bảo lãnh với hợp đồng gốc.
Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B


Chuyên đề tốt nghiệp

9

Trong quan hệ giữa ngân hàng và người nhận bảo lãnh, các quyền và
nghĩa vụ của hai bên chỉ bị chi phối duy nhất bởi các điều khoản ghi nhận trong
cam kết bảo lãnh. Bên nhận bảo lãnh chỉ được quyền đòi tiền bảo lãnh theo bảo
lãnh nếu điều kiện ghi nhận trong đó xảy ra và ngân hàng cũng không thể viện ra
các điều khoản trong hợp đồng để từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên,
các điều khoản trong hợp đồng gốc chính là căn cứ phát sinh các điều khoản trong
cam kết bảo lãnh. Việc thanh toán của ngân hàng bảo lãnh không dựa trên mối
quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và người được bảo lãnh. Tuy nhiên tính độc lập
của nghiệp vụ bảo lãnh chỉ mang tính tương đối. Tuỳ theo điều kiện của bảo lãnh,
tính độc lập của bảo lãnh có thể rất cao cũng có thể rất thấp. Nếu bảo lãnh yêu cầu
kèm theo quyết định của trọng tài hay tồ án thì nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng
không chỉ căn cứ trên thoả thuận giữa ngân hàng bảo lãnh và người nhận bảo lãnh
mà còn căn cứ vào bên thứ ba là toà án hoặc trọng tài.
1.1.3.3. Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng của ngân hàng
Thật vậy, bảo lãnh là việc ngân hàng dùng uy tín của mình để cam kết
thanh tốn và chỉ khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết
với bên thứ ba thì ngân hàng mới phải thanh tốn thay cho bảo lãnh. Điều này
có nghĩa, khi quyết định bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng không phải xuất

tiền ngay nên không ảnh hưởng tới bảng cân đối kế tốn và do đó bảo lãnh
được xếp vào hoạt động ngoại bảng. Tuy nhiên, nếu rủi ro xảy ra, ngân hàng
phải thực hiện thanh toán thay cho bảo lãnh thì ngay lập tức sẽ ảnh hưởng trực
tiếp tới bảng cân đối kế toán. Khoản trả thay này được xếp vào loại tài sản
“xấu” trong nội bảng, cấu thành nên nợ quá hạn.
Như vậy, nếu hoạt động bảo lãnh có chất lượng kém thì khơng những
có ảnh hưởng xấu tới uy tín của ngân hàng mà cịn có ảnh hưởng trực tiếp tới
tài sản của ngân hàng. Vì vậy, việc đưa ra quyết định bảo lãnh đúng đắn là
rất quan trọng.
Luật các Tổ chức tín dụng Việt Nam ghi nhận bảo lãnh là một nghiệp
vụ tín dụng của ngân hàng, nhưng từ việc phân tích đặc điểm trên, ta thấy bảo
Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B


Chuyên đề tốt nghiệp

1
0
lãnh không phản ánh đúng bản chất của tín dụng là chuyển nhượng một lượng
giá trị của chủ thể này sang chủ thể khác. Bảo lãnh chỉ trở thành một hoạt động
tín dụng khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ trả thay bảo lãnh, khi đó bảo lãnh là
một khoản cho vay bắt buộc. Ngoài ra, thu nhập của bảo lãnh là từ việc thu phí
(xếp vào các hoạt động dịch vụ) chứ không dựa trên chênh lệch lãi suất như các
hoạt động tín dụng.
1.1.3.4. Bảo lãnh ngân hàng tiến hành trên cơ sở chứng từ
Giao dịch truyền thống của ngân hàng là bằng chứng từ và trên cơ sở
chứng từ, bảo lãnh không phải là một ngoại lệ. Bảo lãnh là một cam kết bằng
văn bản, việc ngân hàng thực hiện các nghĩa vụ tài chính trong bảo lãnh cũng

như thực hiện quyền địi bồi hồn từ người đựơc bảo lãnh cũng căn cứ vào các
chứng từ. Chỉ cần người thụ hưởng xuất trình đầy đủ chứng từ theo nội dung
thư bảo lãnh thì ngân hàng phải ngay lập tức thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
1.1.4. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng
1.1.4.1. Chức năng bảo đảm
Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng
bảo đảm cho người nhận bảo lãnh một khoản đền bù tài chính trong trường hợp
bên được bảo lãnh vi phạm điều khoản được ghi nhận trong cam kết bảo lãnh.
Đó là một nghĩa vụ của ngân hàng thay cho người được bảo lãnh. Nếu khách
hàng không hồn trả lại số tiền này thì ngân hàng sẽ phải chịu rủi ro tín dụng.
Chính sự bảo đảm này tạo ra sự tin tưởng khiến cho các hợp đồng được ký kết
một cách dễ dàng và thuận lợi.
Theo một nghĩa rộng hơn, đặc biệt là trên quan điểm của bên nhận bảo
lãnh và bên được bảo lãnh thì bảo lãnh ngân hàng đưa ra một phương thức phân
bổ rủi ro giữa các bên. Sự phân bổ rủi ro này phụ thuộc vào dạng của điều kiện
thanh tốn. Loại hình bảo lãnh thanh tốn ngay khi có u cầu là cho phép đảo
ngược hoàn toàn rủi ro. Bên thụ hưởng có quyền được thanh tốn ngay lập tức
mà khơng cần đưa ra bất kỳ bằng chứng nào về lỗi của bên được bảo lãnh và
ngân hàng (với quyền đòi lại bên được bảo lãnh) ngay lập tức thực hiện nghĩa vụ
Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B


Chun đề tốt nghiệp

1
1
mà khơng có bất kỳ sự chậm trễ nào. Trong khi đó bên được bảo lãnh sẽ gặp khó
khăn trong việc hồn trả thanh tốn theo bảo lãnh nếu nó vi phạm những điều mà

nó cam kết trong hợp đồng gốc mà được ghi nhận trong cam kết bảo lãnh.
1.1.4.2. Chức năng đôn đốc
Bảo lãnh ngân hàng tạo áp lực buộc bên được bảo lãnh phải hoàn thành
nghĩa vụ của mình đúng theo hợp đồng ký kết với bên nhận bảo lãnh. Và như
thế chức năng chính của bảo lãnh là đôn đốc bên được bảo lãnh thực hiện đúng
hợp đồng hơn là một sự đảm bảo về mặt tài chính do khơng thực hiện nghĩa vụ.
Bởi vì khi hai bên tham gia ký kết hợp đồng họ đều muốn hợp đồng này được
tiến hành trôi chảy chứ khơng muốn nó bị phá huỷ vì những thiệt hại do hợp
đồng khơng thực hiện có thể lớn hơn rất nhiều so với khoản đền bù.
1.1.4.3. Chức năng tài trợ
Bảo lãnh ngân hàng cũng được coi như một công cụ tài trợ. Trong các
hợp đồng xây dựng, nhà thầu chỉ được nhận tồn bộ số tiền thanh tốn khi hoàn
thành hợp đồng, thế nhưng nhà thầu lại cần tiền để thanh toán tiền lương và
mua nguyên vật liệu trong suốt q trình thi cơng. Nhà thầu thường nhận được
khoản tạm ứng trước cho từng công đoạn từ nhà đầu tư với điều kiện có một
bảo lãnh do một ngân hàng cam kết sẽ hoàn trả lại số tiền ứng trước đó. Vì thế,
có thể coi bảo lãnh ngân hàng là một công cụ tài trợ.
Bảo lãnh ngân hàng tạo thuận tiện cho việc tái điều chỉnh gánh nặng tài
trợ cho hợp đồng hoặc dự án bằng cách bảo vệ bên nhận bảo lãnh chống lại các
rủi ro có thể phát sinh khi phải ứng trước tiền hoặc giao dịch không thực hiện
hợp đồng được của bảo lãnh.
1.1.4.4. Chức năng đánh giá
Một chức năng khác của bảo lãnh là nó giúp cho bên nhận bảo lãnh có
được những đánh giá nhất định về năng lực tài chính và hoạt động của đối tác
(bên được bảo lãnh). Nếu như ngân hàng phục vụ đối tác của mình khơng sẵn
sàng phát hành một bảo lãnh thì đó khơng thể nảo là một đối tác tin cậy (chắc
chắn họ có điều gì đó khơng ổn về mặt tài chính hoặc năng lực sản xuất kinh
Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B



Chuyên đề tốt nghiệp

1
2
doanh) bởi vì ngân hàng là một định chế tài chính chun mơn cao có khả năng
phân tích đánh giá được thực trạng khách hàng của mình.
1.1.5. Vai trò của bảo lãnh
1.1.5.1. Đối với nền kinh tế
Bảo lãnh ngân hàng là một cơng cụ tiện ích được sử dụng rộng rãi để trợ
giúp các giao dịch kinh tế. Trong quan hệ hợp đồng nếu không tin tưởng thì sẽ
yêu cầu ký quỹ và lượng tiền mặt đưa vào lưu thơng sẽ rất lớn. Nhờ có bảo lãnh
ngân hàng mà hồ sơ giảm nhẹ, giảm bớt tính rủi ro, tạo thuận lợi cho giao dịch.
Bảo lãnh ngân hàng tạo điều kiện cho các chủ đầu tư thực hiện vay vốn
trong và ngoài nước, đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ cho đầu tư phát triển. Bảo
lãnh ngân hàng sẽ đảm bảo việc hoàn trả vốn vay và như thế bên có nhu cầu vay
vốn sẽ có nhiều cơ hội có được nguồn vốn phù hợp nhất với nhu cầu của mình vì
lúc này bên cho vay thấy rủi ro tín dụng giảm đi rất nhiều và họ sẵn sàng cung
cấp tín dụng hơn. Trong trường hợp này Bảo lãnh ngân hàng, do các ngân hàng
có uy tín cao phát hành, đóng vài trị là phương tiện đảm bảo cho món vay có
hiệu quả hơn so với hình thức cầm cố thế chấp. Nhờ có các khoản vốn vay được,
doanh nghiệp có thể đầu tư đổi mới thiết bị, xây dựng các dự án đầu tư có tính
khả thi và đem lại hiệu quả kinh tế cao, tạo ra nhiều cơng ăn việc làm góp phần
ổn định xã hội và đem lại phồn vinh cho nền kinh tế đất nước.
Bảo lãnh ngân hàng là một phương tiện hữu ích cần thiết để các doanh
nghiệp tham gia đấu thầu các dự án quan trọng mà nếu trúng thầu sẽ đem lại
cho doanh nghiệp cũng như xã hội nhiều lợi ích. Sử dụng bảo lãnh ngân hàng
trong hoạt động đấu thầu đảm bảo tính đúng đắn khách quan và cơng bằng cho
tất cả các doanh nghiệp tham gia đấu thầu, tránh được những gian lận trong quá

trình đấu thầu dẫn đến thiệt hại không thể lường trước được của chủ đầu tư.
1.1.5.2. Đối với ngân hàng
Các NHTM hoạt động theo hướng đa năng tổng hợp hiện nay luôn
không ngừng tạo lập và phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng nhằm đa
dạng hoá hoạt động, tăng thu nhập. Bảo lãnh ngân hàng là một dịch vụ được sử
Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B


Chuyên đề tốt nghiệp

1
3
dụng rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, phát triển nghiệp vụ bảo lãnh sẽ đem lại một
nguồn thu lớn từ phí dịch vụ. Hơn nữa, với số tiền ký quỹ bảo lãnh dư thừa,
ngân hàng có thể sử dụng một cách thích hợp nâng cao thu nhập của mình.
Bảo lãnh ngân hàng góp phần tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa
ngân hàng và khách hàng truyền thống đồng thời giúp cho ngân hàng tìm thêm
những khách hàng mới.
Thông thường để xin được bảo lãnh ngân hàng, cũng như khi xin vay
doanh nghiệp phải chịu sự giám sát chặt chẽ của ngân hàng và phải tuân theo
những yêu cầu đảm bảo do ngân hàng quy định. Doanh nghiệp càng có quan hệ
tốt với ngân hàng thì sẽ có những ưu đãi khi xin bảo lãnh. Ngân hàng sẽ cùng
doanh nghiệp xem xét cụ thể kế hoạch kinh doanh, cũng như đưa ra các giải
pháp tháo gỡ khó khăn để doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn và điều đó
cũng đảm bảo lợi ích của ngân hàng.
Thơng qua việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho các khách hàng mới ngân
hàng sẽ có điều kiện cung cấp cho khách hàng nhiều dịch vụ ngân hàng đồng bộ
phù hợp (như là chi vay vốn lưu động để thực hiện hợp đồng, cung cấp dịch vụ

thanh toán trong nước và quốc tế...) và điều đó sẽ giúp tạo lập quan hệ lâu dài với
khách hàng, mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
1.1.5.3. Đối với khách hàng
Vai trò lớn nhất mà bảo lãnh ngân hàng đem lại cho khách hàng là hạn
chế rủi ro, đảm bảo lợi ích kinh tế chống lại những thiệt hại do việc vi phạm
hợp đồng gây ra.
Nhờ có bảo lãnh ngân hàng, các doanh nghiệp có khả năng tiếp cận
được các nguồn vốn rẻ, hiệu quả, tham gia dự thầu được nhiều cơng trình đem
lại thu nhập cao.
Bảo lãnh ngân hàng cũng giúp cho các doanh nghiệp tăng uy tín trong
quan hệ sản xuất kinh doanh, mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp trong và
ngoài nước.

Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B


Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.6. Các loại hình bảo lãnh

1
4

Nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng rất đa dạng xuất phát từ nhu cầu đa
dạng của các chủ thể trong nền kinh tế. Tuỳ theo các tiêu thức phân loại khác
nhau, nghiệp vụ bảo lãnh của NHTM được chia thành rất nhiều loại khác nhau.
Sau đây là một số tiêu thức phân loại nghiệp vụ bảo lãnh của NHTM cơ bản nhất.
1.1.6.1. Căn cứ vào bản chất của bảo lãnh
Bảo lãnh đồng nghĩa vụ (Accessory Guarantee – Suretyship)

Bảo lãnh đồng nghĩa vụ (còn được gọi là bảo lãnh bổ sung) là một loại
bảo lãnh mang tính truyền thống xét theo nguồn gốc ra đời của nó. Đặc trưng
của loại bảo lãnh này là nghĩa vụ của ngân hàng phát hành bị chi phối bởi quy
tắc đồng phạm vi (Co – Extensiveness), hay nói cách khác là ngân hàng và
người được bảo lãnh được xem là cùng nghĩa vụ. Tuy nhiên, nghĩa vụ của
khách hàng là nghĩa vụ đầu tiên, còn nghĩa vụ của ngân hàng là bổ sung. Nghĩa
vụ bổ sung được thực hiện khi và chỉ khi có các bằng cớ xác nhận là nghĩa vụ
đầu tiên bị vi phạm.
Bảo lãnh đồng nghĩa vụ đòi hỏi ngân hàng phát hành phải can thiệp
khá sâu vào giao dịch hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người thụ
hưởng, do vậy thường ít được sử dụng trong quan hệ quốc tế, mà chủ yếu là
trong phạm vi nội địa.
Bảo lãnh độc lập (Independent Guarantee)
Bảo lãnh độc lập được coi là một dạng bảo lãnh ngân hàng hiện đại, được
sáng tạo từ yêu cầu đòi hỏi trong thực tiễn. Cơ chế hoạt động của nó dựa trên hai
quy tắc cơ bản là: độc lập (Independent) và hồn tồn phù hợp (Strict
compliance). Theo đó, nghĩa vụ của ngân hàng bảo lãnh hoàn toàn tách rời với
nghĩa vụ của người được bảo lãnh (theo hợp đồng gốc) và việc thực hiện thanh
toán chỉ căn cứ vào những điều kiện, điều khoản quy định trong văn bản bảo lãnh
được thoả mãn mà thôi. Tuy nhiên cần lưu ý rằng tính độc lập của loại bảo lãnh
này khơng hồn tồn tuyệt đối mà phụ thuộc vào các điều kiện thanh toán đã được
quy định trong văn bản bảo lãnh giữa ngân hàng và người nhận bảo lãnh.
Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B


Chuyên đề tốt nghiệp

1

5
Bảo lãnh độc lập đem lại sự thuận lợi lớn cho người nhận bảo lãnh và

cả ngân hàng phát hành. Do vậy nó được sử dụng rất phổ biến trong thương
mại quốc tế. Hiện nay hầu hết các quy định về bảo lãnh trong lĩnh vực quốc tế
đều chỉ quan tâm đến loại bảo lãnh này.
1.1.6.2. Căn cứ vào phương thức phát hành bảo lãnh
Bảo lãnh trực tiếp (Direct Guarantee)
Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng chịu trách nhiệm
phát hành bảo lãnh trực tiếp theo yêu cầu của người được bảo lãnh (không qua
trung gian). Sau khi ngân hàng đã bồi thường cho người nhận bảo lãnh, ngân
hàng bảo lãnh có thể trực tiếp địi bồi hồn từ người được bảo lãnh.
Bảo lãnh trực tiếp thơng thường có ba bên tham gia: ngân hàng phát
hành bảo lãnh, người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh.
Một bảo lãnh ngân hàng thường có hiệu lực bắt đầu từ ngày phát hành
(trừ trường hợp khác quy định theo thoả thuận của các bên). Bên nhận bảo lãnh
có quyền yêu cầu ngân hàng phải thực hiện thanh tốn đền bù khi có sự vi phạm
của bên được bảo lãnh và có nghĩa vụ thực hiện đúng yêu cầu (về việc trình
những giấy tờ cần thiết chứng minh sự vi phạm của bên được bảo lãnh) có ghi
trong bảo lãnh. Sau đó ngân hàng sẽ địi bên được bảo lãnh hồn trả lại số tiền
mà mình đã thanh toán. Một bảo lãnh ngân hàng sẽ hết hiệu lực khi thời hạn của
bảo lãnh kết thúc hoặc khi ngân hàng đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình.
Trong trường hợp người nhận bảo lãnh là người nước ngồi, có thể xuất
hiện một ngân hàng ở cùng quốc gia với người nhận bảo lãnh trong vai trò ngân
hàng thơng báo. Ngân hàng này có nhiệm vụ chủ yếu là xác nhận và chuyển
giao số tiền bảo lãnh cũng như là chuyển thông tin từ bên nhận bảo lãnh cho
ngân hàng phát hành và hồn tồn khơng có nghĩa vụ phải thanh toán nếu sự
kiện bảo lãnh diễn ra.

Phạm Hồng Linh


Ngân Hàng 45B


Chuyên đề tốt nghiệp

1
6

Sơ đồ 1.1: Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp
{

(3a)

NGÂN HÀNG PHÁT HÀNH

{

(1)

NGÂN HÀNG THÔNG BÁO

(3)

(2)
NGƯỜI ĐƯỢC BẢO LÃNH

{

(1)


(3b)
{

NGƯỜI NHẬN BẢO LÃNH

Hợp đồng chính ký kết giữa người được bảo lãnh và người nhận bảo

lãnh
(2)

Khách hàng yêu cầu phát hành bảo lãnh và cam kết bồi hoàn

(3)

(3a) Ngân hàng phát hành bảo lãnh và chuyển trực tiếp cho người nhận

bảo lãnh (sau khi xét duyệt và chấp nhận)
(3b) Ngân hàng phát hành có thể chuyển văn bản bảo lãnh cho
người thụ hưởng thông qua ngân hàng thông báo
Bảo lãnh gián tiếp (Indirect Guarantee)
Khi bên nhận bảo lãnh yêu cầu bên được bảo lãnh phải xin được một bảo
lãnh do một ngân hàng khác với ngân hàng phục vụ bên được bảo lãnh (một
ngân hàng mà bên nhận bảo lãnh thấy uy tín và có độ rủi ro thấp). Trong trường
hợp này người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng của mình (gọi là ngân hàng chỉ
thị - Intructing Bank) yêu cầu một ngân hàng thứ hai (gọi là ngân hàng phát hành
– Issuing Bank) theo mong muốn của bên nhận bảo lãnh phát hành bảo lãnh.
Cần lưu ý rằng ngân hàng chỉ thị khơng có bất cứ một quan hệ bảo lãnh
nào với người nhận bảo lãnh. Mối quan hệ giữa hai ngân hàng tương tự như
mối quan hệ giữa bên được bảo lãnh với ngân hàng phát hành trong trường hợp

bảo lãnh trực tiếp. Nghĩa vụ của ngân hàng chỉ thị với ngân hàng phát hành bảo
lãnh khi ngân hàng phát hành bảo lãnh trả tiền bảo lãnh là nghĩa vụ bảo lãnh

Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B


Chuyên đề tốt nghiệp

1
7
đối ứng. Bảo lãnh đối ứng cũng có nội dung và các điều khoản quy định như
trong bảo lãnh chính. Theo đó, nếu ngân hàng phát hành bảo lãnh sau khi thực
hiện nghĩa vụ bồi thường sẽ đòi tiền từ ngân hàng chỉ thị và đến lượt ngân hàng
này tiến hành đòi tiền từ khách hàng của mình (bên được bảo lãnh).
Như vậy, trong bảo lãnh gián tiếp có ít nhất bốn thành phần tham gia là:
ngân hàng phát hành bảo lãnh; ngân hàng chỉ thị; người được bảo lãnh và
người nhận bảo lãnh. Trong một số trường hợp cũng có thể xuất hiện một ngân
hàng giữ vai trị thơng báo như trong bảo lãnh trực tiếp.
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp
(4a)
NGÂN HÀNG PHÁT HÀNH

NGÂN HÀNG THÔNG BÁO

(3)
(4)

(4b)


NGÂN HÀNG CHỈ THỊ

(2)
(1)
NGƯỜI ĐƯỢC BẢO LÃNH

NGƯỜI NHẬN BẢO LÃNH

(1)

Hợp đồng gốc

(2)

Khách hàng yêu cầu ngân hàng phục vụ mình ra chỉ thị cho ngân

hàng chính phát hành bảo lãnh
(3)

Ngân hàng thứ nhất chỉ thị cho ngân hàng thứ hai phát hành bảo

lãnh đồng thời cam kết bồi hoàn trên bảo lãnh đối ứng
(4), (4a), (4b) Ngân hàng phát hành bảo lãnh có thể chuyển trực tiếp cho
người thụ hưởng hoặc qua ngân hàng thông báo
Đồng bảo lãnh (Synducated Guarantee)
Với những hợp đồng bảo lãnh có giá trị lớn, để đáp ứng những điều
kiện quy định của pháp luật về bảo lãnh đồng thời để giảm thiểu rủi ro các ngân
hàng có thể thực hiện đồng bảo lãnh. Đồng bảo lãnh là việc nhiều ngân hàng
Phạm Hồng Linh


Ngân Hàng 45B


Chuyên đề tốt nghiệp

1
8
cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ của khách hàng thơng qua một ngân hàng chủ
trì. Thơng thường ngân hàng phục vụ bên được bảo lãnh đứng ra là ngân hàng
chủ trì tuy nhiên trong nhiều trường hợp các ngân hàng tham gia đồng bảo lãnh
sẽ lựa chọn một ngân hàng có uy tín và có nhiều kinh nghiệm nhất đứng ra làm
ngân hàng chủ trì.
Ngân hàng này sẽ phát hành bảo lãnh toàn bộ giá trị và được các ngân
hàng thành viên hỗ trợ bằng việc phát hành bảo lãnh đối ứng. Ngân hàng chủ trì
sẽ chia phí bảo lãnh cho các ngân hàng thành viên theo tỷ lệ đóng góp. Khi ngân
hàng chủ trì phải thực hiện thanh tốn theo bảo lãnh thì sau đó nó có quyền truy
địi các ngân hàng thành viên số tiền mà họ đã cam kết. Sau đó các ngân hàng
này lại quay lại truy đòi bên được bảo lãnh số tiền mà họ đã trả thay này.
Sơ đồ 1.3: Sơ đồ đồng bảo lãnh
NGÂN HÀNG 1

(4a)
NGÂN HÀNG 2

NGÂN HÀNG 3

NGÂN HÀNG PHÁT HÀNH

NGÂN HÀNG THÔNG BÁO


(4b)

(2)
(1)
NGƯỜI ĐƯỢC BẢO LÃNH

NGƯỜI NHẬN BẢO LÃNH

(1)

Hợp đồng gốc

(2)

Người được bảo lãnh yêu cầu phát hành bảo lãnh

(3)

Ngân hàng chính dàn xếp đồng bảo lãnh cùng với các ngân hàng đồng

minh
(4), (4a), (4b) Ngân hàng chính phát hành bảo lãnh cho người nhận bảo
lãnh, chuyển trực tiếp hoặc thơng qua ngân hàng thơng báo.
Ngồi những loại bảo lãnh trên đây, dựa theo cách thức phát hành cịn
có một số loại bảo lãnh khác như: bảo lãnh giáp lưng, bảo lãnh xác nhận... được
sử dụng chủ yếu trong các quan hệ quốc tế.
Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B



Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.6.3. Căn cứ vào mục đích bảo lãnh

1
9

Căn cứ vào mục đích sử dụng, bảo lãnh có thể được phân chia thành
nhiều loại khác nhau, trong đó mỗi một loại bảo lãnh nhằm đối phó với một
loại rủi ro đặc thù. Những rủi ro đa dạng này phát sinh trong suốt thời gian của
hợp đồng, từ khi ký kết cho đến khi các nghĩa vụ hoàn thành và kết thúc. Người
nhận bảo lãnh, tuỳ trường hợp có thể là người cung cấp hàng hoá hoặc người
đặt hàng. Dưới đây là một số loại bảo lãnh cơ bản phân theo mục đích sử dụng:
Bảo lãnh dự thầu (Tender Guarantee – Bid Bond)
Bảo lãnh dự thầu là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư (hay chủ
thầu) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các
quy định trong hợp đồng dự thầu.
Mục đích của bảo lãnh dự thầu là nhằm bù đắp những thiệt hại về
thời gian và chi phí cho người tổ chức đấu thầu, chính là chủ đầu tư do
những vi phạm của bên đối tác liên quan (người tham gia dự thầu) như: rút
đơn dự thầu, không ký tiếp hợp đồng so với bản dự thầu... Bảo lãnh dự thầu
thực chất là phương tiện thay thế cho việc ký quỹ của người tham gia dự
thầu nên giá trị bảo lãnh được quy định theo mức ký quỹ chuẩn do chủ đầu
tư đưa ra. Bảo lãnh dự thầu sẽ tự động mất hiệu lực trong trường hợp người
được bảo lãnh không trúng thầu.
Bảo lãnh dự thầu giúp cho người được bảo lãnh (người tham gia đấu
thầu) khỏi phải trả một số tiền nhất định khi dự thầu và đồng thời bảo đảm cho
người chủ đầu tư (người tổ chức đấu thầu) những khoản đền bù thoả đáng trong
trường hợp người dự thầu vi phạm quy định.

Bảo lãnh thực hiện hợp đồng (Performance Guarantee)
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của ngân hàng về việc chi trả
tổn thất thay cho người được bảo lãnh nếu người được bảo lãnh không thực
hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết, gây tổn thất cho bên thứ ba.
Các hợp đồng được bảo lãnh là hợp đồng cung cấp hàng hoá, xây
dựng thiết kế... Việc khách hàng vi phạm hợp đồng như cung cấp không
Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B


Chuyên đề tốt nghiệp

2
0
đúng hạn, không đúng chất lượng cam kết... đều có thể gây tổn thất cho bên
thứ ba. Bảo lãnh của ngân hàng một mặt bù đắp tổn thất cho bên thứ ba mặt
khác thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng. Bảo lãnh thực
hiện hợp đồng được sử dụng thay cho yêu cầu ký quỹ mà người đặt hàng đề
nghị đối với người cung ứng để bảo đảm bồi thường vi phạm hợp đồng. Do
vậy, giá trị tối đa của bảo lãnh tương đương với mức bồi thường (tính tỷ lệ
% trên giá trị của hợp đồng, dao động ở mức 10% - 15%). Thông thường
hiệu lực của loại bảo lãnh này chấm dứt khi người được bảo lãnh hoàn thành
nghĩa vụ cung ứng hàng hoá của họ.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là loại bảo lãnh được sử dụng nhiều nhất
trong thực hành và được xem là một cơng cụ đối ứng với tín dụng chứng từ.
Lĩnh vực thường gặp nhất của bảo lãnh thực hiện hợp đồng là xây dựng, cung
ứng thiết bị cơng nghệ... cả trong và ngồi nước.
Bảo lãnh hồn trả tiền ứng trước (hay bảo lãnh tiền đặt cọc - Repayment
Guarantee)

Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước là cam kết của ngân hàng cho bên nhận
bảo lãnh về việc đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo
hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng vi
phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng
khơng hồn trả hoặc chỉ trả một phần thì ngân hàng sẽ đứng ra hồn trả số tiền
ứng trước cho bên nhận bảo lãnh.
Loại bảo lãnh này thường được dùng trong các hợp đồng thương mại,
dịch vụ... mà người mua hàng hay người hưởng dịch vụ đã ứng trước tiền hàng
cho người bán hay người cung cấp dịch vụ. Bằng việc cam kết sẽ trả lại số tiền
đã ứng trước cho người mua (khi người bán vi phạm không thực hiện hợp đồng),
ngân hàng phát hành bảo lãnh đã tạo ra sự tin tưởng cho người mua hàng và
đồng thời cũng giúp người cung ứng thoát khỏi những khó khăn tạm thời về
ngân quỹ. Giá trị của bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước thường tương
đương toàn bộ số tiền đã ứng trước (kể cả tiền lãi và phạt nếu có). Tuy nhiên để
Phạm Hồng Linh

Ngân Hàng 45B



×