Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Tuyển tập đề ngữ văn lớp 9 có lời giải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.74 KB, 58 trang )

PHẦN: TRUYỆN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
Lµng ( Kim Lân)
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. Tác giả
- Nhà văn Kim Lân có tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920. Quê Từ Sơn - Bắc Ninh.
- Nhà nghèo chỉ học hết Tiểu học rồi phải bỏ học kiếm sống. Nhờ chịu khó quan sát và suy ngẫm,
được đi nhiều nên tuy ít tuổi-> chú bé Tài đã có vốn hiểu biết khá dầy dặn về phong tục tập quán
trong c/s vùng Kinh Bắc quê hương. - > là chuẩn bị tốt để ông trở thành nhà văn sau này.
- Sở trường : viết truyện ngắn.
- Am hiểu và gắn bó với nông thôn và người nông dân.
- Đề tài : Tập trung viết về nông thôn và sinh hoạt của người nông dân. Ngòi bút của ông đặc biệt
hấp dẫn khi viết về các sinh hoạt phong phú của nông thôn với các trò chơi như : Chọi gà, đánh vật,
thả chim qua đó làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân.
- P/cách : Tự nhiên, tinh tế, biết gạn chắt vẻ đẹp tâm hồn và những nét mới trong tâm hồn, tinh cảm
của con người.
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm: truyện ngắn “Làng” được viết trong thời kỳ đầu của cuộc kháng
chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948.
2. Đề tài: Viết về hình tượng người nông dân trong những năm đầu của cuộc k/c chống Pháp
3. Khái quát nội dung và nghệ thuật
* Nội dung chính: Tình yêu làng quê và lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông
dân phải dời làng đi tản cư đã được thể hiện chân thực, sâu sắc và cảm động ở nhân vật ông Hai
trong truyện “Làng”.
* Nghệ thuật:
- Xây dựng cốt truyện tâm lí: Xoay quanh diễn biến tâm lí nhân vật ông Hai
- Tình huống truyện đặc sắc, thắt nút, cởi nút hợp lí. Ông Hai từ phấn khởi chuyến sang hụt hẫng,
tuyệt vọng, tưởng chết đi lại sống lại.
- Xây dựng nhân vật sống động, chân thực với tính cách rõ nét
- Nghệ thuật tâm lí tinh tế (qua độc thoại, đối thoại, độc thoại nội tâm, miêu tả ngoại hình…)
- Ngôn ngữ nhân vật giản dị, tự nhiên lời nói thường ngày mang sắc thái cá thể rõ nét
- Cách trần thuật linh hoạt, chi tiết tâm lí xén chi tiết sinh hoạt làm cho truyện thêm hấp dẫn


4. Ngôi kể: Truyện được kể theo ngôi thứ ba qua điểm nhiền và giọng điệu của nhân vật ông Hai
-> Làm cho không gian truyện được mở rộng hơn, tính khách quan của câu chuyện được tăng lên
đồng thời tạo điều kiện cho tác giả miêu tả chân thực, tinh tế diễn biến tâm trạng của nhân vật.
5.Chủ đề: Truyện ca ngợi ông Hai - một lão nông yêu làng, yêu nước yêu kháng chiến. Điều đáng
nói là những t/c đó đã hòa quyện và thống nhất trong con người ông để trở thành một tình cảm vo
cùng cao đẹp.
* Tóm tắt: Ông Hai là người nông dân yêu đến say mê và tự hào về làng Chợ Dầu quê mình.
Chấp hành lệnh của uỷ ban kháng chiến ông phải đưa vợ con đi tản cư. Trong những ngày xa quê,
ông luôn nhớ và thường khoe về làng. Những người dưới xuôi nói chuyện làng chợ Dầu việt gian
theo Tây, ông vừa căm uất vừa tủi hổ, chỉ biết tâm sự cùng đứa con thơ. Sau đó được nghe tin cải
chính, ông Hai vô cùng phấn khởi tưởng như vừa được cùng làng tham gia đánh Pháp.
1
B* MỘT SỐ CÂU HỎI XOAY QUANH TÁC PHẨM :
Câu 1 : Phân tích khái quát môt số nét đặc sắc về nghệ thuật của truyện
- Thành công trong việc xây dựng tình huống truyện . Ông Hai trong truyện là người rất yêu
cái làng chợ Dầu của mình, luôn hãnh diện khoe về làng, ấy thế mà ông lại phải nghe cái tin làng
ông theo giặc, lập tề từ miệng những người tản cư dưới xuôi lên khiến ông đau xót, tủi hổ đến khi
cái tin làng theo Tây được cải chính ông mới thoát khỏi tâm trạng đó.
* Ý nghĩa : - Truyện đã xây dựng được một tình huống đặc sắc, hấp dẫn, giàu kịch tính đã góp
phần bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước ở người nông dân. Đặt nhân vật vào tình huống
gay gắt ấy, tác giả đã thể hiện sự xung đột giữa tình yêu làng quê và tình yêu nước, mà tình cảm nào
cũng mãnh liệt. Đặc biệt trong tình huống này buộc ông Hai phải lựa chọn: Làng hay nước. Và ông
đã quyết định : « Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù » . Với quyết định này
ta thấy rõ sự chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của ông Hai. Tình yêu làng đã phát triển
thành tình yêu nước, yêu kháng chiến. Phải đặt nhân vật vào tình huống đó mới góp phần thể hiện
tình yêu nước, yêu k/c vốn tiềm ẩn trong con người ông Hai.
- Cách dẫn truyện : Khéo léo, tự nhiên, kịch tính phát triển ngày càng cao( ông Hai nghe tin
làng theo giặc) dẫn đến thắt nút một cách tự nhiên, sáu đó cởi nút ( Nghe tin cải chính) một cách
hợp lí.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí đặc sắc tinh tế: Tác giả đặt nhân vật vào tình huống thử thách bên

trong để bộc lộ chiều sâu tâm trạng. Đồng thời miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua
các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ, đặc biệt, diễn tả rất đúng và gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh,
day dứt trong tâm trạng nhân vật. Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc người nông dân và thế
giới tinh thần của họ.
- Ngôn ngữ truyện: Đó là ngôn ngữ nông thôn nhuần nhị mà đặc sắc, gợi cảm, nhiều chỗ như lời
ăn tiếng nói hàng ngày tạo nên một không khí làng quê thân quen, gần gũi. Đặc biệt là ngôn ngữ
nhân vật sinh động giàu tính khẩu ngữ và mang đậm sắc thái cá nhân. Qua ngôn ngữ ta hiểu được
tính cách của nhân vật:
+ Ông Hai: ngôn ngữ của người nông dân chất phác, thật thà, thích nói chữ
+ Bà Hai : Nhỏ nhẹ, nhẫn nhịn, hiền lành
+ Mụ chủ nhà : Đánh đá, chua ngoa, tham lam nhưng cũng yêu làng, yêu nước, quan tâm
đến kháng chiến.
- Lời trần thuật và lời nhân vật : Có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu, do truyện được trần
thuật chủ yếu ở điểm nhìn của nhân vật ông Hai (mặc dù vẫn dùng cách trần thuật ở ngôi thứ 3).
- Cách trần thuật linh hoạt, chi tiết sinh hoạt hàng ngày xen lẫn các chi tiết miêu tả tâm lí làm
cho câu chuyện sinh động, chân thực và đời thường hơn.
Câu 2: Nhan đề của truyện là "Làng" sao không phải là "Làng Chợ Dầu". Từ nhan đề của
truyện, em hiểu gì về chủ đề của tác phẩm ?
Gợi ý: Nhan đề của truyện là "Làng" không phải là “Làng Chợ Dầu” vì nếu là “Làng Chợ Dầu”
thì vấn đề mà tác giả đề cập tới chỉ nằm trong phạm vi nhỏ hẹp, cụ thể ở một làng. Dụng ý của tác
giả muốn nói tới một vấn đề mang tính phổ biến ở khắp các làng quê, có trong mọi người nông dân.
Bởi thế "Làng" là nhan đề hợp với dụng ý của tác giả. Qua đó ta hiểu chủ đề của truyện: ca ngợi
tình yêu làng quê tha thiết của những người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
Như vậy, nhan đề "Làng" vừa nói lên được cái riêng là tình yêu làng của ông Hai, đồng thời qua
cái riêng ấy, cũng nói lên được cái chung: tấm lòng của những người dân quê đất Việt.
Câu 3: Trong "Làng", Kim Lân có kể về ông Hai cứ múa tay lên mà khoe nhà ông bị giặc
đốt, đốt nhẵn. Chi tiết này dường như vô lý. Ý kiến của em như thế nào? Ghi lại vắn tắt.
2
Gợi ý: Trong "Làng", chi tiết kể về ông Hai cứ múa tay lên mà khoe nhà ông bị đốt nhẵn. Mới
đọc chi tiết này, ta thấy dường như vô lý bởi ngôi nhà là cả một tài sản quá lớn. Hơn thế nó còn gắn

với bao kỷ niệm vui buồn rất thiêng liêng của mỗi con người. Mất nó ai mà không xót xa đau đớn ?
Nhưng ông Hai lại có cử chỉ “Múa tay lên để khoe" đó là biểu hiện của tâm trạng sung sướng, sung
sướng đến tột độ. Tâm trạng này dường như có vẻ không bình thường. Đặt ông Hai trong hoàn cảnh
làng Dầu đang bị hai tiếng « việt gian » và ông Hai đang ở trong tâm trạng đau khổ như thế nào
mới thấy được sự vui sướng của ông Hai là có lí.Ông không vui sướng sao được vì nhà bị tây đốt là
bằng chứng hùng hồn rằng làng Dầu của ông vẫn theo kháng chiến, theo cách mạng. Đó là một làng
quê anh hùng, đứng dậy chống thực dân Pháp. Chắc hẳn mất nhà ông Hai cũng đau lắm chứ, xót xa
lắm chứ. Nhưng dù thế nào thì nhà còn có thể xây dựng lại được, song danh dự của làng đâu dễ lấy
lại? Ông đã quên sự mất mát riêng để tự hào sung sướng trong vẻ đẹp, sức mạnh chung của làng
quê, đất nước. Có thể thấy niềm vui, nỗi buồn của ông Hai luôn gắn liền với vận mệnh của Làng
Dầu. Thế mới biết ông Hai yêu làng quê tha thiết đến chừng nào! Tình yêu làng quê được mở rộng,
hoà quyện trong tình yêu tổ quốc thật sâu nặng và thiêng liêng.
Câu 4 . Nêu một số truyện ngắn và bài thơ viết về tình cảm quê hương, đất nước ? Hãy nêu nét
riêng của truyện ngắn Làng so với những tác phẩm ấy.
* Truyện ngắn - thơ viết về tình cảm quê hương:
- Lòng yêu nước – E-ren-bua
- Quê hương - Đỗ Trung Quân
- Quê hương - Giang Nam
- Quê hương - Tế Hanh
- Lao xao - Duy Khán
- Buổi học cuối cùng - Đô-đê
* Nét riêng của “Làng”:
- Những truyện ngắn và thơ trên đều viết về lòng yêu quê hương đất nước nhưng ở đó tình cảm
mới đơn thuần là tình yêu, chưa mang tính khái quát, chưa có tình huống rõ ràng để bộc lộ tình yêu
ấy.
- Còn ở truyện ngắn “Làng”, tình yêu làng ở ông Hai đã trở thành niềm say mê, hãnh diện,
thành thói quen khoe làng của mình.
- Tình yêu làng quê phải được đặt trong tình yêu nước, thống nhất với tinh thần kháng chiến khi
đất nước đang bị xâm lược và cả dân tộc đang tiến hành cuộc kháng chiến.
- “Làng” có tình huống được xây dựng hết sức đặc sắc, bất ngờ mà hợp lý. “Làng” là lời khẳng

định giai đoạn tìm đường và nhận đường của nền văn hoá mới. Văn hoá kháng chiến chống Pháp
trở thành một bộ phận của kháng chiến, tích cực tham gia kháng chiến, phục vụ cho kháng chiến,
cho niềm tin.
Câu 5: Phân tích đoạn:
“ - Thế nhà con ở đâu?

- Ừ, đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ? “
Qua đoạn đối thoại này, tâm trạng ông Hai có gì đặc biệt? Điều đó thể hiện nỗi niềm sâu kín
của nhân vật này như thế nào?
Gợi ý: Trong tâm trọng bị dồn nén và bế tắc, ông Hai chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào
những lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ còn rất ngây thơ. Đây là một đoạn văn diễn tả rất cảm
động và sinh động nỗi lòng sâu sa, bền chặt, chân thành của ông Hai - một người nông dân - với quê
hương, đất nước, với cách mạng và kháng chiến.
Qua những lời tâm sự với đứa con nhỏ, thực chất là lời tự nhủ với mình, tự giãi bày nỗi lòng
mình, ta thấy rõ ở ông Hai:
- Khổ tâm vì nhầm tưởng làng mình theo Tây, nước mắt giàn giụa trên má (Tâm trạng đau khổ).
3
- Bộc lộ tình yêu làng sâu sắc : Trong cuộc trò chuyện, ông đã hỏi con « Thế nhà con ở đâu?” . Ông
muốn đứa con nhỏ, thực chất ghi nhớ câu Nhà ta ở làng Chợ Dầu. - Ông hỏi con những câu tưởng
rất vu vơ, bởi đơn giản ông muốn được nghe, được về làng Chợ Dầu, được thấy con trẻ nhắc đến
ngôi làng mà mình yêu quý. Qua chi tiết này ta thấy mặc dù đã quyết định thù làng nhưng trong sâu
thẳm tâm hồn, ông Hai vẫn yêu làng sâu sắc và mãnh liệt. Những day dứt, trăn trở trong lòng ông
chính là sự khẳng định tình yêu làng chợ Dầu luôn hiện hữu trong ông.
- Vì lầm tưởng làng theo giặc -> cả hai bố con ông đều trả lời khe khẽ, thủ thỉ. Ông Hai xấu hổ
cho làng ông, cho người dân quê ông: " Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má »
chứng tỏ ông rất khổ tâm.
- Trong đoạn đối thoại này ta còn thấy ông Hai là người yêu nước, yêu k/c. Ông đã đặt tình yêu
yêu nước, yêu cách mạng lên trên tình yêu làng.
+ Ông đã hỏi con: Thế con ủng hộ ai?
Câu trả lời của đứa con út: "Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm" hay chính là nỗi lòng của ông.

Ông chuyện trò với con hay đang giãi bày cho vơi bớt nỗi khổ, sự tủi hổ, dằn vặt đang ám ảnh trong
lòng ông suốt mấy hôn nay.
=> Những dòng đối thoại ngắn gọn, giản dị, sâu sắc, chân quê đã thể hiện được nỗi lòng sâu kín
trong lòng ông Hai Thu. Đó là tình yêu sâu nặng với cái làng chợ Dầu và tấm lòng thuỷ chung với
kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là cụ Hồ (Anh em đồng chí có biết cho bố con ông. Cụ
Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông). Tình cảm ấy vô cùng sâu nặng, bền vững và thiêng
liêng (Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám
đơn sai).
C. MỘT SỐ ĐỀ BÀI THỰC HÀNH.
* Đề 1 : Phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai.
1. Mở bài : - Tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác.
- Khái quát gt NT + ND : Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, sắc sảo, nhà văn Kim
Lân đã miêu tả chân thực sinh động diễn biến tâm trạng của ông Hai – một người có tính t/y làng,
yêu nước sâu sắc, mãnh liệt.
2. Thân bài :
a. Khái quát :
- « Làng » là truyện ngắn thành công trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện và miêu tả tâm lí nhân
vật. Truyện xoay quanh diễn biến tâm trạng ông Hai. Dưới ngòi bút của nhà văn, từng cung bậc cảm
xúc t/c của nhân vật hiện lên chân thực và rõ nét. Qua diễn biến tâm trạng đó, Kim Lân đã giúp
người đọc cảm nhận được vẻ đẹp và sự chuyển biến trong nhận thức và t/c của nhân vật
b. Phân tích:
- Buổi trưa : Sau khi cuốc xong mảnh đất để trồng sắn -> mệt -> nằm nghỉ -> nghĩ ngợi vẩn vơ ->
nhớ về làng: thấy lòng náo nức -> nhớ làng ( biểu cảm trực tiếp, điệp từ « nhớ » ) -> t/y làng sâu
nặng.
- Dặn trẻ con coi nhà -> đi ra phòng thông tin, trên đường đi gặp ai cũng níu lại cười ( vui).
- Vui mừng vì nắng to thằng Tây sẽ « chết mệt ».
- Trong phòng thông tin: nghe nhiều tin chiến thắng -> vui.
- Bước ra khỏi phòng thông tin : « ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá ». -> chi tiết mang dụng
ý nghệ thuật, chuẩn bị cho ông Hai tiếp nhận tin dữ để thấy được sự thay đổi đột ngột tâm lí của ông
Hai.

4
- Nghe đám người nói chuyện Tây « rút ở Bắc Ninh », « khủng bố chợ Dầu », « quay phắt lại, lắp
bắp hỏi » -> Hđ « quay phắt » và nói « lắp bắp » là biểu hiện của sự xúc động, mong mỏi, khao
khát được nghe tin chiến thắng của làng.
- Nghe người đàn bà nói « cả làng chúng nó Việt gian theo Tây » -> bàng hoàng, sững sỡ « cổ ông
lão nghẹn ứ lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi, tưởng không thể thở được » -> sự thay đổi đột
ngột của trạng thái tâm lí. Tin dữ giống như sét đánh ngang tai, ông tưởng như đất dưới chân sụp
xuống khiến ông choáng váng…
- Không tin -> hỏi lại -> người đàn bà khẳng định chắc chắn « vừa ở dưới ấy lên », kể rành rọt «
Việt gian từ thằng chủ tịch… » -> ông Hai buộc phải tin,
- Đánh trống lảng « hà, nắng gớm, về nào » -> Mặc dù không ai biết ông là người làng Chợ Dâu
nhưng ông cứ ngỡ ai cũng biết, ông xấu hổ nên tìm cách thoát ra khỏi đám đông
- Trên đường về : « cúi gằm mặt mà đi » ( so sánh với lúc đi : Gặp ai cũng níu lại cười cười) - > xấu
hổ, không muốn ai nhìn thấy mình.
- Về đến nhà : nằm vật ra giường -> mệt mỏi, đau khổ, chán chường
- Nhìn con -> khóc -> đau khổ.
- Nắm tay lại, rít lên « Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt
gian bán nước để nhục nhã thế này » -> tức giận, căm thù.
- Kiểm điểm những người trong óc, suy nghĩ về việc làng theo Việt gian, không tin -> buộc phải tin
( độc thoại nội tâm).
- Chiều: không ai nói chuyện.
- Đêm : trả lời bà Hai gắt gỏng, nhát gừng -> bực dọc, khó chịu -> bất an.
- Nghe tiếng « léo xéo ở gian trên » : « chân tay nhủn ra, trống ngực đập thình thịch …-> sợ hái.
- Mấy ngày sau : không dám ra khỏi nhà, nhưng ở tronh nhà nhưng tâm trí hướng ra ngoài.
* Đề bài : Truyện ngắn làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển
biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân
Pháp.
Dựa vào đoạn trích trong Ngữ văn 9, tập một, để trình bày ý kiến của em.

Gợi ý :

Tìm hiểu đề :
- Đề yêu cầu phân tích một nhận xét : Những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân
Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Cái tình cảm có tính chất chung được nhà văn biểu
hiện rất sinh động cụ thể trong nhân vật ông Hai. Vì thế cần phân tích tình yêu làng thắm thiết thống
nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến ở nhân vật ông Hai.
- Nhưng truyện thuộc loại có cốt truyện tâm lí, nhân vật ít hành động, chủ yếu biểu hiện nhân vật
qua các tình huống bên trong nội tâm nhân vật. Do đó phải phân tích kĩ diễn iến tâm trạng ông Hai
trong tình huống nghe tin làng theo giặc. Từ đó làm nổi rõ đặc điểm tính cách yêu làng, yêu nước của
nhân vật.
- Do yêu cầu của đề, cách viết nên có sự phân tích chung, rồi đi sâu vào nhân vật ông Hai, sau đó
nhấn mạnh và khẳng điịnh sự gắn bó giữa tình yêu làng có tính truyền thống với những chuyển biến
mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam trong sự giác ngộ cách mạng.
- Dựa vào đoạn trích là chủ yếu, nhưng để phân tích được trọn vẹn, có thể trình bày lướt qua về
nhân vật ở những đoạn khác.
5
Dàn bài chi tiết
A- Mở bài:
- Kim Lân thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 – 1945 với những truyện ngắn
nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc. Ông gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân. Đi
kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện tinh thần kháng chiến của người nông dân
- Truyện ngắn Làng được viết và in năm 1948, trên số đầu tiên của tạp chí Văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc.
Truyện nhanh chóng được khẳng định vì nó thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của dân tộc, tình yêu
nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển biến mới
trong tình cảm của họ vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
B- Thân bài
1. Truyện ngắn Làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc, tình cảm quê hương đất nước. Với
người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến thì tình yêu làng xóm quê hương đã hoà nhập trong tình
yêu nước, tinh thần kháng chiến. Tình cảm đó vừa có tính truyền thống vừa có chuyển biến mới.
2. Thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở
một con người, nhân vật ông Hai. ở ông Hai tình cảm chung đó mang rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính chỉ riêng

ông mới có.
a. Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thống trong ông Hai.
- Ồng Hai là một người yêu làng. Gọi là yêu thôi chưa đủ mà phải nói là say đắm, yêu đến mức tôn là. Tình yêu
ấy được biểu hiện qua tính hay khoe làng của ông. Với ông Hai, cái gì ở làng ông cũng đáng tự hào. Nào là
làng ông sầm uất như tỉnh, đường làng lát toàn đá xanh, trời mưa đi bùn không dính gót, ngày mùa phơi thóc,
phơi rơm thì tốt thượng hạng, cái cổng làng to như cổng đình. Tình yêu làng đã khiến cho ông mù quáng. Ông
còn khoe cả cái sinh phần của viên tổng đốc.
=> Cách khoe làng và tự hào về làng có hơi quá nhưng vẫn là chính đáng bởi vì nó xuất phát từ tình yêu làng
mãnh liệt của ông. Chính cái “ hơi quá” ấy đã làm nên nét riêng, nét đáng yêu của nhân vật.
Qua câu chuyện ta thấy ông Hai yêu làng sâu sắc. Đó là thứ tình yêu gần như máu thịt. Cái làng có một ý
nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của ông Hai. Trong tình yêu ấy ta đã thấy tiềm ẩn
tình yêu nước, yêu k/c.
b. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến mới trong tình cảm.
-Được cách mạng giải phóng, ông hiểu ra nhiều điều. Bây giờ khoe làng ông lại khoe khác. Ông khoe quê ông
được giải phóng, c/s đổi thay. Ồng khoe những ngày tập quân sự, đào giao thông hào… khoe làng ông có chòi
phát thanh, phòng thông tin cao ráo, thoáng mát rộng rãi nhất vùng…. Mỗi khi khoe làng, “ hai con mắt ông
sáng hắn lên, cái mặt biến chuyển hoạt động”. Ông khoe mà không cần biết người đối thoại có nghe hay không.
Bởi vì, câu chuyện của ông không phải với mục đích thông báo thông tin mà chỉ muốn được nói về làng đề làm
vơi đi nỗi nhớ làng.
, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải
xa làng, ông nhớ quá cái khụng khí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”; rồi ông lo “cái chòi gác,…
những đường hầm bí mật,…” đã xong chưa?
- Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bình luận, náo nức trước tin thắng lợi ở mọi nơi “Cứ
thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu
thành đại, làm gì mà thằng Tây không bước sớm”.
c. Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin
làng theo giặc.
6
- Khi vừa ở phòng thông tin, được nghe tin quân ta thắng lớn, ông Hai vui mừng “ náo nức”, “ ruột gan ông
lão cứ múa cả lên”. Ông đã gặp một đám người dân tản cư. Trong câu chuyện của họ có nhắc đến làng Chợ

Dầu. Vừa mới nghe thấy vậy, ông Hai đã “ quay phắt lại lắp bắp hỏi”.
- Nó vào làng Chợ Dầu hở Bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?
-> Câu hỏi đó bộc lộ tâm lí nhớ làng và mong mỏi được nghe tin làng
- Khi mới nghe tin xấu đó, ông bàng hoàng sững sờ “ Cổ ông … giọng lạc đi”. Tin làng theo Tây đã tác
động mạnh đến cả thể xác và tâm hồn ông.
- Tuy vậy, ông chưa tin -> hỏi lại người đàn bà để khẳng định lại thông tin đó. Nhưng khi người ta kể rành rọt,
không tin không được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì chiết ông đau đớn “cúi gằm mặt xuống mà đi”
- Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông
giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người thì lại không tin họ “đổ đốn” ra thế. Nhưng cái tâm lí
“không có lửa làm sao có khói”, lại bắt ông phải tin là họ đã phản nước hại dân.
- Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cai tin nhục nhã ấy choán hết tâm trí ông thành nỗi ám ảnh
khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt giật mình. Không khí nặng nề bao trùm cả nhà.
- Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội tâm gay gắt: Ông đã bị đẩy
vào hoàn cảnh bế tắc. Đó là lúc mụ chủ nhà đánh tiếng không cho gia đình ông ở nhờ. Và hơn nữa ông thấy ở
đây tủi hổ quá. Tuy chưa biết đi đâu, ông đã quyết định: ““Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải
thù”. Với quyết định này, ta thấy rõ sự thay đổi trong nhận thức và tình cảm của ông Hai. Tình yêu làng quê đã
phát triển thành tình yêu nước và lòng trung thành với k/c. Sự phát triển đó khiến cho tình cảm của họ mang
những nét mới với chất lượng mới: Không còn bó hẹp cục bộ trong cái làng của mình đã được mở rộng và
nâng lên thành tình yêu tổ quốc. Tinh cảm truyền thống đã được ánh sáng thời đại soi rọi trở nên những tình
cảm cao đẹp.
- Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông chút nỗi lòng
vào lời tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự
nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng này:
+ Đứa con ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!” nữa là ông, bố của nó.
+ Ông mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”.
+ Qua đó, ta thấy rõ:
- Tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống ( không phải cái làng đổ đốn theo giặc).
- Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu tượng của kháng chiến là cụ Hồ được
biẻu lộ rất mộc mạc, chân thành. Tình cảm đó sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng : có bao giờ dám
đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.

d. Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ, ông Hai tột cùng vui sướng và càng
tự hào về làng chợ Dầu.
- Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ không
chịu mất nước” của người nông dân lao động bình thường.
- Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về
làng kháng chiến của ông.
3. Nhân vật ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lí tính cách và ngôn
ngữ nhân vật của người nông dân dưới ngòi bút của Kim Lân.
- Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng.
- Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.
Ngôn ngữ của Ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa mang đậm cá tính nhân vật nên rất sinh
động.
C- Kết bài:
- Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước rất mộc mạc, chân thành mà vô cùng
sâu nặng, cao quý trong những người nông dân lao động bình thường.
- Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yếu đất nước là nét mới trong nhận thức và
tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm nổi bật.
Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý.
7
* Đề 2: Trong truyện ngắn Làng, nhà văn Kim Lân đã thể hiện một cách sinh động và tinh tế diễn
biến tâm trạng của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.
Em hãy phân tích để làm rõ.
Gợi ý
1. Yêu cầu về nội dung :
* Đề bài yêu cầu người viết phải vận dụng kiến thức đã học về nghị luận một tác phẩm tự sự để
phân tích, làm rõ nghệ thuật thể hiện sinh động, tinh tế diễn biến tâm trạng của nhân vật. Tâm trạng
của nhân vật cần làm rõ ở đây là ông Hai trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân với diễn
biến đầy phức tạp khi nghe tin làng quê mình theo giặc.
* Để làm rõ diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng Dầu theo giặc, ta phải chú ý một số
nội dung sau :

1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm hoàn cảnh sáng tác
- Nhấn mạnh: Ngòi bút miêu tả tâm lí đã thể hiện chân thực, sinh động diễn biến tâm trạng ông Hai
khi tin làng theo giặc.
2. Thân bài :
a. Trước khi nghe tin dữ : ở nơi tản cư, tình yêu làng của ông hai hoà nhập với tình yêu nước.
- Xa làng, ở nơi tản cư ông nhớ làng da diết. Nỗi nhớ làng khiến ông thay tâm đổi tính: “Lúc
nào ông cũng thấy bực bội, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm, hơi một tí là gắt, hơi một tý là
chửi”.
- Khi được nói chuyện về làng, ông vui náo nức đến lạ thường “Hai con mắt ông sáng hắt lên,
cái mặt biến chuyển hoạt động”.
- Ông quan tâm đến tình hình chính trị thế giới, đến các tin chiến thắng của quân ta.
+ Tin một em bé trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cầm quốc kỳ
trên tháp rùa.
+ Một anh trung đội trưởng sau khi giết được 7 tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng.
+ Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người mua hàng đã bắt sóng được tên quan hai bốt ngay
giữa chợ mà “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên” -> đó là niềm vui của một con người biết gắn bó tình
cảm của mình với vận mệnh của toàn dân tộc, niềm vui mộc mạc của một tấm lòng yêu nước chân
thành.
=> Nghe tin quân ta thắng lớn, ông Hai vui mừng “ náo nức”, “ ruột gan ông lão cứ múa cả lên”
b. Khi nghe tin làng Dầu theo giặc:
+ Nỗi bất hạnh lớn đã đổ sụp xuống đầu ông, ông sững sờ “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê
rân rân ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được”.
+ Khi trấn tĩnh được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng rồi những người tản cư đã
kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên”, làm ông không thể không tin.
+ Từ lúc ấy, trong tâm trí ông Hai chỉ có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh, day
dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt xuống mà đi”. Về đến nhà, ông “nằm vật ra
giường”, rồi tủi thân khi nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con
làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư?”.
- Ông nắm tay lại và rít lên “ Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống

8
Việt gian bán nước để nhục nhã thế này -> Niềm tự hào về làng như sụp đổ. Trong ông, không chỉ
có sự đau đớn mà có cả sự căm thù với những kẻ làm tay sai cho giặc.
+ Giận lây và trách cứ những người trong làng phản bội, nhưng lòng yêu làng, tin những người
cùng làng khiến ông lão bán tín bán nghi.
- Đêm xuống, ông trằn trọc không ngủ được. Cuộc nói chuyện cùng bà Hai với những câu cộc lốc,
nhát gừng “ gì?, Biết rồi”đã diễn tả tâm được tâm trạng đau khổ, buồn bực, bất an của ông. Tâm
trạng bất an của ông Hai được bộc lộ rõ khi ông Hai nghe thấy “ tiếng léo xéo ở gian trên”. Cái âm
thanh ấy đã khiến ông Hai “ lặng đi, chân tay nhủn ra tưởng chừng như không cất lên được” và “
trống ngực đập thình thịch…ông lão nín thở…”
-> Tin làng theo Tây không chỉ là sự đâu đớn mà đã biến thành nỗi lo lắng, sợ hãi.
- Mấy ngày sau:
+ Nỗi tủi hổ khiến ông không dám ló mặt ra ngoài. Lúc nào cũng nơm nớp, hễ thấy đám đông
nào tụ tập nhắc đến hai từ “Việt gian”, “Cam nhông” thì ông lại tự nhủ “Thôi lại chuyện ấy rồi”.
=> Tác giả diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông
Hai cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình theo giặc.
. + Ông Hai tiếp tục bị đặt vào một tình huống thử thách căng thẳng, quyết liệt. Đó là khi mụ chủ
nhà biết chuyện, có ý muốn đuổi khéo gia đình ông đi, ông đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, bế tắc
hoàn toàn. tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước của ông Hai đã có một cuộc xung đột nội tâm
gay gắt. Đi đâu bây giờ? Không ai muốn chứa chấp dân của cái làng Việt gian. Ông thoáng có ý
nghĩa “Hay là trở về làng”. Tuy nhiên ông đã gạt bỏ ý nghĩ ấy bởi “Làng đã theo Tây, về làng
nghĩa là rời bỏ Kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ”. Mối mâu thuẫn trong
nội tâm và tình thế của nhân vật như đã thành sự bế tắc, đòi hỏi phải được giải quyết. Tuy chưa biết
đi đâu nhưng ông Hai đã dứt khoát chọn lựa theo cách của ông: “Làng thì yêu thật nhưng làng đã
theo Tây thì phải thù”. Nhưng dù xác định như thế, ông Hai vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng
quê, vì thế mà càng đau xót, tủi hổ.
+ Đau khổ, ông không biết tâm sự cùng ai ngoài đứa con bé bỏng. Yêu làng Dầu, ông muốn khắc
sâu vào trái tim bé nhỏ của con tình cảm với làng, với kháng chiến, với Cụ Hồ, đó cũng chính là
tấm lòng thuỷ chung “trước sau như một” với cách mạng của ông. Đây là một đoạn văn diễn tả rất
cảm động và sinh động nỗi lòng sâu xa, bền chặt, chân thành của ông Hai – một người nông dân –

với quê hương, đất nước, với cách mạng và kháng chiến. Ngần ấy tuổi đầu mà nước mắt ông cứ
ròng ròng khi nghĩ về làng. Nỗi đau ấy mới đáng trân trọng làm sao bởi đó là nỗi đau của một con
người danh dự của Làng như chính bản thân mình.
c. Khi tin đồn được cải chính:
+ Thái độ của ông thay đổi hẳn “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”.
Ông lại chạy đi khoe khắp nơi “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa
mới lên đây cải chính cái tin làng Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự
mục đích cả”.
d. Đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Truyện khắc hoạ thành công nhân vật ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước tha thiết.
+ Đặc biệt, việc đặt nhân vật vào tình huống cụ thể góp phần thể hiện tính cách, diễn biến tâm trạng
nhân vật một cách chân thực, sinh động. Qua ngòi bút miêu tả têm lí của Kim Lân, từng cung bậc
cảm xúc của nhân vật hiện lên một cách rõ nét.
+ Ngôn ngữ nhân vật lúc đối thoại, lúc độc thoại mang đậm chất nông thôn, nhuần nhuỵ mà đặc sắc,
gợi cảm.
-> Chân dung sống động, đẹp đẽ của người nông dân thời kỳ đầu kháng chiến.
3. Kết bài:
- Ông Hai đã trở thành linh hồn của truyện ngắn “ Làng”. KL đã đưa vào văn học một bức chân
dung sống động, đẹp một vẻ đẹp riêng về người nông dân VN trong những năm đầu cuộc k/c chống
9
Pháp. Với sự hiểu biết sâu sắc về người nông dân và cuộc sống nông thôn, với tấm lòng trân trọng
yêu mến họ, KL giúp chúng ta hiểu và yêu quý hơn những người nông dân luôn thường trực tình
yêu làng yêu nước sâu sắc, mãnh liệt.
- Phân tích hoàn cảnh của ông Hai: rất yêu làng, tự hào, hay khoe về làng, nhưng lại phải xa làng
chợ Dầu thân yêu để đi tản cư.
- Tình yêu làng của ông lão lại bị đặt vào một hoàn cảnh gay cấn, đầy thử thách: tin làng chợ Dầu
theo giặc, phản bội lại Cách mạng, kháng chiến.
- Ông Hai đã phải trải qua tâm trạng đầy dằn vặt, đau đớn phải đấu tranh tư tưởng rất quyết liệt để
lựa chọn con đường đi đúng đắn cho mình.
Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai trải qua các tình cảm, thái độ khác nhau

+ Thoạt đầu nghe tin làng chợ Dầu theo giặc từ người đàn bà tản cư nói ra, ông lão bàng hoàng,
sững sờ, nghi ngờ, không thể tin được.
+ Khi cái tin ấy được khẳng định chắc chắn, ông lão buộc phải tin. Tâm trạng ông Hai bị ám ảnh,
day dứt với mặc cảm là kẻ phản bội.
+ Luôn sống trong tâm trạng nơm nớp, lo sợ, xấu hổ, nhục nhã nên chốn biệt ở trong nhà.
+ Tủi thân, thương con, thương dân làng chợ Dầu và thương thân mình phải mang tiếng là dân
làng Việt gian.
- Ông Hai tiếp tục bị đặt vào một tình huống thử thách căng thẳng, quyết liệt hơn khi mụ chủ nhà
báo sẽ đuổi hết người làng chợ Dầu khỏi nơi sơ tán.
+ Ông lão cảm nhận hết nỗi nhục nhã, lo sợ vì tuyệt đường sinh sống.
+ Bị đẩy vào đường cùng, tâm trạng vô cùng bế tắc. Mâu thuẫn nội tâm được đẩy đến đỉnh điểm.
+ Giận lây và trách cứ những người trong làng phản bội, nhưng lòng yêu làng, tin những người
cùng làng khiến ông lão bán tín bán nghi.
+ Định quay về làng, nhưng hiểu rõ thế là phản bội cách mạng, phản bội cụ Hồ.
+ Tâm sự với đứa con để củng cố niềm tin vào cách mạgn, kháng chiến; tự nhủ mình “Làng thì
yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.
+ Giữ được tình cảm trung thành với cách mạng, kháng chiến, cụ Hồ.
- Tâm trạng nhân vật được miêu tả cụ thể, gợi cảm qua diễn biến nội tâm, ý nghĩ hành vi, ngôn
ngữ nên rất sinh động.
- Ngôn ngữ kể, ngôn ngữ nhân vật đặc sắc, bộc lộ rõ tâm trạng và thái độ của nhân vật.
- Tình huống truyện giúp nhân vật bộc lộ tâm trạng cụ thể, đa dạng.
* Đề 3: Ông Hai ("Làng" - Kim Lân) là một hình tượng nông dân rất mới. Em hãy chứng
minh.
Gợi ý: Hs so sánh với những nhân vật nông dân đã học như Chị Dậu, lão Hạc để thấy cái mới trong
tình cảm, suy nghĩ, tính cách của nhân vật ông Hai.
- Những người nông dân trong các tác phẩm hiện thực thân phận nô lệ, nghèo khổ, bất hạnh, suốt
cuộc đời bị miếng cơm manh áo ghì sát mặt đất.
- Nhân vật ông Hai có địa vị làm chủ, có sự chuyển biến trong tình cảm, suy nghĩ, những mối quan
tâm, tham gia kháng chiến, có tình yêu làng, yêu nước
- Đánh giá về sự thành công trong việc xây dựng nhân vật của tác giả.

* Đề 4: Phân tích nhân vật ông Hai Gợi ý: Đảm bảo các luận điểm chính:
- Là lão nông thật thà, chất phác, hay chuyện - Là người có tình yêu làng sâu sắc, mãnh liệt
- Yêu nước, yêu k/c -> Nét mới trong tình cảm của người nông dân.
…………………………………………….
LÆng lÏ Sa pa
10
I. Nhà văn Nguyễn Thành Long.
- Nguyễn Thành Long (1925 -1991), quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Trong kháng chiến
chống thực dân Pháp (1946 -1954) hoạt động văn nghệ ở liên khu V, sau 1954 ông tập kết ra Bắc,
chuyên sáng tác.
- Ông là một trong những cây bút văn xuôi đáng chú ý trong những năm 1960 -1970, chỉ chuyên
viết truyện ngắn và ký. Đề tài hướng vào cuộc sống sinh hoạt, lao động đời thường.
- Phong cách văn xuôi nhẹ nhàng, tình cảm, giàu chất thơ và ánh lên vẻ đẹp con người, mang ý
nghĩa sâu sắc.Truyện của ông thường mang chất ký, mang vẻ đẹp thơ mộng trong trẻo. Đặc biệt văn
Thàng Long có khả năng thanh lọc làm tâm hồn ta trở nên trong trẻo giúp ta thêm yêu cuộc
sống, yêu con người.
- Ông viết nhiều, đó cho in hàng chục tập truyện ngắn và ký. Tác phẩm chính: Bát cơm cụ Hồ
(1955), Gió bấc gió nồm (1956), Chuyện nhà chuyện xưởng (1962), Trong gió bão (1963), Những
tiếng vỗ cánh (1967), Giữa trong xanh (1972), Lý Sơn mùa tỏi (1980), Sáng mai nào, xế chiều nào
(1984)
II. Truyện ngắn “ Lạng lẽ Sa Pa”
1.Hoàn cảnh : Truyện được viết năm 1970, là kết quả của chuyến đi thực tế lên Lào Cai của tác
giả. Truyện rút từ tập Giữa trong xanh xuất bản năm1972.
2 .Tóm tắt: Rời cây cầu số 4, chiếc xe chở hành khách lên Lai Châu trèo lên núi. Bác lái xe, ông
hoạ sĩ già, cô kĩ sư trẻ mới ra trường trò chuyện với nhau về Sa Pa, về hội hoạ, về hạnh phúc, tình
yêu. Chiếc xe dừng lại để lấy nước và cho hành khách nghỉ ngơi. Bác lái xe giới thiệu với ông hoạ
sĩ và cô gái về một người cô độc nhất thế gian. Đó là anh thanh niên 27 tuổi, làm công tác vật lí địa
cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m. Anh mời hai người lên nhà chơi, sau đấy họ nói chuyện với nhau
khoảng 30 phút. Anh kể chuyện mình sống và làm việc tại đây. Anh rất yêu và gắn bó với công việc
của mình. Anh cũng thích đọc sách, trồng cây thuốc, trồng hoa, nuôi gà. Nơi anh ở ngăn nắp, gọn

gàng. Nói chuyện với anh, ông hoạ sĩ đó vẽ anh. Nhưng anh đó giới thiệu với ông hoạ sĩ về ông kĩ
sư dưới vườn rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét- những người cũng giống như anh, say
mê làm việc, cống hiến tuổi trẻ, trí tuệ, hạnh phúc cá nhân cho đất nước. Cô kĩ sư sau khi nói
chuyện với anh TN nhận thấy bàng hoàng, thấy mình từ bỏ mối tình đầu nhạt nhẽo của là đúng đắn
và yên tâm với quyết định nhận công tác miền núi. Sau 30 phút nói chuyện, đến giờ ốp, anh TN phải
chia tay mọi người trong sự bịn rịn và quyến luyến. Anh không quên tặng hai người một làn trứng,
tặng cô gái một bó hoa thật đẹp.
3.Nội dung: Truyện kể về cuộc gặp gỡ trong vòng ba mươi phút giữa ông họa sĩ, cô kĩ sư và anh
thanh niên trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m.
4. Nghệ thuật:
- Xây dựng cốt truyện nhẹ nhàng, không có những chi tiết li kì, giật gân
- Tình huống nhẹ nhàng mà hợp lí.
- Tên nhân vật đều là những người vô danh -> Hình thành một thế giới những con người vô danh.
Họ không chỉ là những con người cụ thể mà đại diện cho các thế hệ, ngành nghề trên cả nước đang
ngày đêm say mê âm thầm làm việc và cống hiến mà ta bắt gặp họ ngẫu nhiên trong cuộc đời
- Tên truyện độc đáo, sáng tạo
11
- Lời văn trong sáng, nhẹ nhàng, giàu chất thơ. Những trang tả cảnh thì ngân nga, những trang tả
tình thì đằm thắm.
5. Chủ đề: Truyện giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng nhân vật chính – anh thanh niên -
với những suy nghĩ sâu sắc và lòng yêu nghề nghiệp, với cách sống đẹp, trong công việc thầm lặng
một mình giữa núi cao mà vẫn không cô độc, buồn tẻ. Truyện còn ca ngợi và thế giới những con
người như anh. Tác giả muốn nói với người đọc trong cái lặng lẽ của Sa Pa có những con người
làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước. Qua câu chuyện, tác giả gợi ra vấn đề về ý nghĩa và niềm
vui của lao động tự giác vì những mục đích chân chính của con người. Nếu chúng ta tìm thấy ý
nghĩa và niềm vui trong công việc của mình thì ta sẽ hoàn thành công việc trong bất cứ hoàn cảnh
nào.
B. MỘT SỐ CÂU HỎI XOAY QUANH TÁC PHẨM
Câu 1: Nêu tình huống truyện, ý nghĩa của tình huống đó.
* Tình huống: Truyện “LLSP” có tình huống truyện rất đơn giản. Đó gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa

sĩ già, cô kĩ sư trẻ với anh thanh niên làm công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn thuộc Sa Pa.
Nhân vật chính của truyện – anh thanh niên chỉ hiện ra trong chốc lát nhưng để lại cho các nhân vật
khác trong truyện những tình cảm tốt đẹp.
* Ý nghĩa: Đặt các nhân vật vào tình huống gặp gỡ này là cơ hội thuận tiện để nhân vật chính được
hiện ra qua sự quan sát, suy nghĩ của những nhân vật khác (ông họa sĩ, bác lái xe và cô kĩ sư), đặc
biệt là ông họa sĩ già. Chính vì thế nhân vật chính không chỉ hiện ra một cách tự nhiên mà còn
được soi chiếu, đánh giá từ cái nhìn và cảm xúc của những nhân vật khác, rồi lại tác động đến
tình cảm và suy nghĩ của những nhân vật ấy. Từ đó giúp chúng ta cảm nhận được đầy đủ vẻ đẹp nội
tâm của nhân vật
Câu 2: Truyện được kể theo ngôi thứ mấy? Tác dụng?
Ngôi kể: Điểm đáng chú ý trong nghệ thuật trần thuật của truyện ngắn này là truyện được trần
thuật từ ngôi kể thứ ba nhưng chủ yếu từ điểm nhìn và ý nghĩ của nhân vật ông hoạ sĩ. Dù không
phải là nhân vật chính nhưng nhân vật ông hoạ sĩ có vị trí quan trọng trong truyện. Với ngôi kể này
khiến cho nhân vật chính hiện lên chân thực, khách quan, sinh động qua cách nhìn, cách đánh
giá của người khác. ( Mà đặc biệt đó lại là người từng trải, nhạy cảm, tinh tế và giàu kinh nghiệm)
Câu 3: Tại sao các nhân vật trong tác phẩm không có tên cụ thể?
- Các nhân vật trong truyện đều không có tên riêng, chỉ được nhà văn gọi theo giới tính, tuổi tác
bằng cấp, nghề nghiệp (anh thanh niên, cô kĩ sư nông nghiệp, ông hoạ sĩ già, bác lái xe….)
=> Dụng ý của tác giả muốn người đọc liên tưởng đến những nhân vật tốt đẹp mà trong truyện
không phải chỉ là những cá nhân riêng lẻ mà là số đông. Họ là những con người có mặt trên khắp
mọi miền đất nước. Điều này tăng thêm sức khái quát đời sống của câu chuyện.
Câu 4: Nhan đề « lặng lẽ Sa Pa » có ý nghĩa như thế nào ?
- Trên đất nước VN, mỗi địa danh thường gắn với một tên gọi rất riêng thường để chỉ đặc trưng của
địa danh ấy. VD: Sài Gòn náo nhiệt, Hà Nội hào hoa, Đà Lạt mộng mơ và Sa pa lặng lẽ. Khi đặt
tên cho tác phẩm viết về cuộc sống ở Sa Pa, NTL đã lấy cách gọi này nhưng ông đã sáng tạo đổi
thành “ Lặng lẽ Sa Pa”. Với cách đặt nhan đề như vậy, tác giả đã nói lên vẻ đẹp của Sa Pa, vẻ đẹp
12
lặng lẽ, êm đềm và rất thơ mộng, lặng lẽ mà không hề quạnh hưu. Bởi đằng sau sự lặng lẽ ấy là một
thế giới những con người lao động khẩn trương, náo nức. Với cách đặt nhan đề như vậy, nhà văn
không chỉ ca ngợi vẻ đẹp yên tĩnh của thiên nhiên Sa Pa mà còn ca ngợi vẻ đẹp của những con

người lao động lặng thầm. Những công việc, thành quả mà họ đạt được cũng hết sức bình dị. Họ
làm việc say mê không hề nghĩ đến nghỉ ngơi và cũng không cần ai biết đến mình. Họ là những con
người rất đỗi khiêm tốn, những anh hùng vô danh.
=>Nhan đề giúp ta cảm nhận sâu sắc hơn vẻ đẹp của những con người nơi Sa Pa lặng lẽ. « Lặng lẽ »
được đưa lên đầu câu để nhấn mạnh vẻ đẹp thầm lặng, bình dị của họ. Và phải chăng đó cũng là
nhịp sống bình yên, êm ả của vùng đất xa xôi và thơ mộng ấy.
Câu 5: Tác phẩm này theo lời tác giả, "là một bức chân dung". Đó là bức chân dung của ai,
hiện ra trong cái nhìn và suy nghĩ của những nhân vật nào?
- Đó là bức chân dung của người thanh niên làm công tác khí tượng, ở một mình tại trạm khí
tượng trên núi cao, giữa cái lặng lẽ của Sa Pa.
- Chân dung là chỉ diện mạo, thần sắc, hình dáng khái quát của người nào đó.
- Tác giả gọi truyện của mình "là một bức chân dung" vì:
+ Thứ nhất, Truyện đã thể một cách khái quát nhưng chân thực, sinh động diện mạo, thần sắc
của anh thanh niên. Tuy tác giả chỉ để cho nhân vật xuất hiện trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi khoảng
30 phút với ba nhân vật khác (ông hoạ sĩ, cô kỹ sư, bác lái xe) nhưng diện mạo và cuộc sống tình
cảm, suy nghĩ của anh đã được thể hiện rõ nét qua lời kể của bác lái xe, qua sự quan sát của ông hoạ
sỹ, cô kỹ sư và qua lời bộc bạch tâm sự của chính anh.
+ Thứ hai, nhân vật anh thanh niên được người hoạ sĩ già quan sát và muốn thế hiện bằng một
bức chân dung cụ thể.
C. Đề Tập làm văn
Đề bài 1: Phân tích nhân vật anh thanh niên
I – Mở bài:
- Nguyễn Thành Long là một trong những cây bút văn xuôi đáng chú ý trong những năm 60 –
70, chuyên viết truyện ngắn và kí. “Lặng lẽ Sa Pa” là một truyện ngắn có cốt truyện đơn giản, nhẹ
nhàng nhưng ẩn chứa bên trong nhiều ý vị sâu sắc.
- Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của những con người lao động
bình thường mà cao cả, những con người đầy quan tâm, đầy trách nhiệm đối với đất nước mà tiêu
biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng. Tuy anh chỉ hiện ra trong chốc lát nhưng vẫn là điểm
sáng nổi bật nhất của bức tranh về phẩm chất và tâm hồn tốt đẹp của con người mới trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là chàng trai có phong cách sống đẹp, suy nghĩ đẹp

và hành động đẹp.
II - Thân bài:
1. Cách giới thiệu nhân vật:
- Anh thánh niên là nhân vật chính nhưng không xuất hiện từ đầu mà xuất hiện gián tiếp qua lời
giới thiệu của bác lái xe. Đó là “ một thanh niên hai mươi bảy tuổi”, nhưng đã có bốn năm “ làm
công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu”, đã từng có hành động hạ cây chắn ô tô vè “ thèm người
quá”. Cách giới thiệu này khiến cho mọi người đều tò mò muốn tìm hiểu, khám phá về nhân vật
này.
- Chính vì vậy, khi anh xuất hiện ông họa sĩ đã “ xúc động mạnh khi nhìn thấy người con trai tầm
vó bé nhỏ, nét mặt rạng rỡ”. Anh cũng bình thường như bao người khác. Điều khiến ông họa sĩ ấy
xúc động chính là đôi mắt lấp lánh niềm vui của anh.
13
- Tuy anh thanh niên chỉ hiện ra trong cuộc gặp gỡ chốc lát với bác lái xe, ông họa sĩ, cô gái trẻ khi
xe của họ dừng lại nghỉ. Chỉ chốc lát nhưng cũng đủ để các nhân vật khác kịp ghi nhận một ấn
tượng, một kí họa chân dung về anh, rồi dường như anh lại khuất lấp vào giữa mây mù bạt ngàn
và cái lặng lẽ muôn thuở củ núi rừng Sa Pa.
2. Phân tích:
* Luận điểm 1: Là chàng trai giàu nghị lực, sống có lí tưởng, yêu nghề, có tinh thần trách
nhiệm cao. Anh thực sự là người có hành động và suy nghĩ rất đẹp.
+ Hoàn cảnh sống, công việc và tinh thần làm việc của anh thật đặc biệt.
* Hoàn cảnh sống: Quanh năm suốt tháng, anh sống một mình trên đỉnh núi cao, giữa cỏ cây
và mây mù lạnh lẽo. Tác giả giới thiệu anh qua lời của bác lái xe: “ Anh thanh niên hai mươi bảy
tuổi, người cô độc nhất thế gian, một mình trên trạm khí tượng ở đỉnh cao hai ngàn sáu trăm mét, rất
“thèm người”…”Thử thách lớn nhất đối với chàng trai trẻ ấy chính là sự cô độc. Sống đơn độc nơi
rừng núi mà làm việc thì không phải là chuyện dễ dàng. Biết bao vất vả, gian lao, biết bao thiếu
thốn, nhất là sự thiếu thốn về tinh thần.
- Hơn nữa anh phải làm việc trong điều kiện khắc nghiệt. Anh làm việc trên đỉnh Yên Sơn.
Ban ngày, công việc tưởng chừng như đơn giản nhưng kho đêm đến thì vô cùng khó khăn. Gian
khổ nhất là vào lúc một giờ sáng, dù mưa gió, tuyết lạnh thế nào cũng phải trở dậy để báo ốp.
* Công việc: Không chỉ hoàn cảnh làm việc khó khăn mà công việc cũng là thử thách.

Theo lời kể của anh thì “ công việc nói chung là dễ, chỉ cần chính xác”. Nhưng đó lại là công việc
dễ gây buồn chán vì sự đơn điệu và lặp đi lặp lại những con số. Từng phút, từng giờ anh làm bạn
với đủ loại máy móc “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo
trước thời tiết hàng ngày” Mỗi ngày anh phải báo “ốp” bốn lần vào đúng thời gian quy định: bốn
giờ, mười một giờ, bảy giờ tối và một giờ sáng. thật là vất vả và đơn điệu, phải lặp đi lặp lại , phục
vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Đây là lời anh tâm sự với ông hoạ sĩ già: “Gian khổ nhất là lần ghi
bão về lúc một giờ sáng. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn
nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn báo bão vặn to đến cỡ
nào vẫn không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và im lặng ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình
ra là ào ào xô tới…” Qua lời anh nói ta có thể hình dung được bao nhiêu vất vả, khó khăn mà anh
đã chịu đựng. Để báo “ ốp” chính xác đòi hỏi anh phải có sự tỉ mỉ, kiên trì, ý thức trách nhiệm và
tinh thần tự giác cao.
=> Như vậy, cả điều kiện sống và làm việc đều là một thử thách lớn đối với tuổi trẻ vốn sung
sức và khát khao hành động.
* Thái độ làm việc:
- Mặc dù hoàn cảnh sống và công việc vô cùng khó khăn nhưng bốn năm qua anh chưa một lần
bỏ báo “ ốp” . Anh đã đề ra cho mình nhiệm vụ và đã vượt mọi khó khăn thử thách để đạt được kết
quả tốt nhất. Suốt bốn năm qua, anh chưa từng bỏ ốp một lần. Anh làm với ý thức trách nhiệm, với
sự tự giác mà không cần người kiểm tra, giám sát. Công việc của anh thật chẳng kém gì nhiệm vụ
của các anh chiến sĩ biên phòng hay chiến sĩ hải đảo đang ngày đêm bảo vệ Tổ quốc.
Điều gì đã giúp anh vượt qua được hoàn cảnh ấy ? Đó là ý chí, nghị lực, đặc biệt là những suy
nghĩ, nhận thức đúng đắn của anh về cuộc sống và công việc của mình. Chính những nhận thức
và suy nghĩ cao đẹp đó đã giúp anh vượt lên tất cả để sống một cuộc đời đầy ý nghĩa
* Anh thanh niên có những suy nghĩ và quan niệm đúng đắn về cuộc sống và công việc
- Anh sống gắn bó với sự nghiệp của đất nước, rất có trách nhiệm với cuộc đời. Đất nước có
chiến tranh, anh xin ra trận. Không được ra trận, anh làm công tác khí tượng trên núi cao. Không ai
có thể bắt buộc anh lên cái nơi “khỉ ho cò gáy” này để làm việc và cống hiến. Trong khi bao nhiêu
người sau khi ra trường đã cố chạy chọt tìm bằng được một nơi làm việc giữa thủ đô thì anh đã
khoác ba lô vui vẻ vượt suối băng rừng để lên công tác ở nơi này. Anh tự nguyện lên đây không
phải do sự bốc đồng nhất thời mà là cả một sự nhận thức chín chắn, đúng đắn, sâu sắc nhất. Anh

14
thanh niên, một cán bộ vật lý kiêm khí tượng địa cầu, đã sẵn sàng đi đến bất cứ nơi nào để có thể
phát huy khả năng và thực hiện ước mơ của mình. Anh tự đặt và trả lời câu hỏi : “Mình sinh ra là
gì ? Mình đẻ ở đâu ? Mình vì ai mà làm việc ?
- Anh có những suy nghĩ rất đẹp về ý nghĩa của cuộc sống, về hạnh phúc trong đời. Khi kể lại
thành tích nhờ phát hiện kịp thời đám mây khô, không quân ta đã hạ nhiều máy bay Mĩ ở cầu Hàm
Rồng, anh nói : “kể từ hôm đó, cháu sống thật hạnh phúc”. Ta thấy, anh quan niệm về hạnh phúc
thật bình dị. Với anh hạnh phúc là được làm việc, được cống hiến.
- Anh rất yêu công việc của mình. Đối với anh, công việc là niềm đam mê cháy bỏng, là niềm
vui, niềm hạnh phúc lớn nhất, là người bạn. Hơn ai hết, anh hiểu rõ công việc thầm lặng của
mình là có ích mọi người, nó gắn liền anh với cuộc sống chung của đất nước. Anh tâm sự với ông
họa sĩ : “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được ? Huống chi công việc
của cháu gắn liền với bao anh em đồng chí dưới kia.Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất
nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Dù công việc có vất vả nhưng anh không thể sống thiếu nó.
- Cái mà tác giả muốn làm nổi bật ở nhân vật này không phải là những công việc khó khăn đòi
hỏi phải có tinh thần trách nhiệm cao mà là một hoàn cảnh sống và làm việc thật đặc biệt. Cái khó
khăn, thách thức lớn nhất đối với anh chính là sự cô độc. Đã có những phút anh phải yếu mềm trước
cơn “thèm người” đang dâng trào trong huyết quản. Anh đã làm đủ mọi cách để gặp con người,
được nghe họ nói, được thấy họ cười, dù chỉ trong một giây phút. Những khuôn mặt chưa bao giờ
anh gặp sao bỗng trở nên thân thiết lạ lùng! Nhưng cuối cùng, chàng trai đã vượt qua cơn xúc động
để trở về với cuộc sống bình thường.
- Thậm chí, mặc dù đã sống một mình trên đỉnh núi cao 2600mét nhưng anh vẫn ước được làm
việc ở đỉnh núi cao hơn nữa : Đỉnh Phan xi Păng cao 3143 mét bởi anh nghĩ : “ Làm công tác khí
tượng ở độ cao như thế mới là lý tưởng chứ”. Đó là ước vọng được vươn cao hơn trong công việc
để đạt được mục đích tốt đẹp nhất.
=> Những suy nghĩ đúng đắn, cao đẹp của anh “ có những âm vang, khơi gợi bao điều suy nghĩ
khác trong óc người khác…”. Những suy nghĩ đẹp ấy khiến anh thêm yêu cuộc sống và con người
xung quanh, “thấy cuộc đời đẹp quá!”, giúp anh có thêm nghị lực để sống một cuộc sống đẹp, đầy ý
nghĩa, gắn bó với mọi người.
* Không chỉ có suy nghĩ đẹp mà anh thanh niên đáng mến ấy còn có phong cách sống rất đẹp.

Tuy sống một mình trên núi cao nhưng anh biết tổ chức …
* Luận điểm 2: Anh là người biết tổ chức c/s gọn gàng, khoa học, ngăn nắp.
Ngoài ra anh tổ chức cuộc sống của mình ở trạm khí tượng thật ngăn nắp, phong phú cả vật
chất và tinh thần, một cuộc sống chủ động, làm chủ mình và có ích cho đời.
- Anh biết sống cho sự nghiệp chung lớn lao và cũng biết sống cho riêng mình. Anh trọng cái
đẹp: anh trồng hoa, một vườn hoa đầy màu sắc. Đó là vẻ đẹp của tâm hồn anh và anh hào phóng
tặng cho mọi người. Gian nhà của anh sạch sẽ, đồ đạc được sắp xếp gọn gàng. Anh chạy về trước là
để pha trà, cắt hoa tặng khách chứ không phải để thu dọn nhà cửa vì khách tới thăm bất ngờ như
họa sĩ tưởng. Anh trồng rau, nuôi gà là để tự cung cấp cho mình thức ăn. Như vậy, chính anh đã tự
làm cho c/s của mình phong phú cả vật chất và tinh thần.
- Ngoài giờ làm việc anh còn dành thời gian đọc sách. Sách đã trở thành người bạn thân thiết
của anh. Khi bác lái xe đưa gói sách cho anh, anh “mừng quýnh” như cầm được vàng. Anh nói với
cô gái: “ Cô thấy đấy, lúc nào tôi cũng có người trò chuyện. Nghĩa là sách ấy mà. Mỗi người viết
một vẻ”. Anh tự lo liệu xoay sở đẻ thường xuyên có sách đọc. Sách không chỉ giúp anh nâng cao
hiểu biết, nâng cao kiến thức, sách còn giúp anh khuây khoả trong những phút giây rảnh rỗi. Say mê
đọc sách là một thói quen, một đức tính đáng quý ở anh. Điều đó còn cho thấy anh là chàng trai có
nhiều ước mơ, khát vọng.
* Luận điểm 3: Anh là người rất khiêm tốn:
15
- Trong cuộc sống, anh là một người rất khiêm tốn, cuộc gặp gỡ diễn ra trong vòng ba mươi phút
nhưng anh chỉ xin có năm phút để nói về mình. Năm phút đủ để anh giãi bày những suy nghĩ, quan
niệm về cuộc sống và công việc. Điều đó cho ta thấy anh là người rất khiêm tốn.
- Anh luôn đề cao người khác. Thực tâm, anh thấy công việc và sự đóng góp của mình chỉ là nhỏ
bé, chỉ có đóng góp của những người khác mới là lớn lao và anh say sưa ca ngợi họ.
- Mặc dù ông hoạ sĩ già hết sức khâm phục anh, ông muốn vẽ chân dung của anh, nhưng anh một
mực từ chối, anh không muốn vì cảm thấy mình không xứng đáng được hưởng ân huệ ấy. Anh đã
kể những người xứng đáng khác. Anh nói thành thực: “những người khác đáng kể, đáng vẽ hơn
anh. Một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phăng -xi -păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia
mới một mình hơn cháu. Cháu giới thiệu với bác ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa!… Hay là bác vẽ
đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan cháu…”. Đức tính khiêm tốn ấy của anh đã làm cho ông

hoạ sĩ, bác lái xe và cô gái hết sức yêu mến và khâm phục.
* Luận điểm 4: Chân thành, hiếu khách, cởi mở:
- Không chỉ say mê công việc, say mê đọc sách , anh thanh niên còn là một con người rất đáng
mến ở sự cởi mở, chân thành, hiếu khách. Anh luôn khao khát được gặp gỡ, trò chuyện với những
người khác.
- Khi gặp khách, anh đã mời họ lên chơi với thái độ vồn vã, chân thành. Anh đã đón tiếp họ bằng tất
cả t/c, tấm lòng, bằng tất cả những gì ngon nhất, quý nhất ở Sa Pa mà anh có. Đó là món chè thơm
như nước hoa, là những sản vật mà anh tạo ra từ chính sức lao động của mình.
- Anh trò chuyện với khách cởi mở chân tình như những người đã quen thân từ lâu. Chính anh đã
nói to lên đầy tiếc rẻ : « Trời ơi, chỉ còn năm phút ». Câu chuyện của anh tuôn ra như suối khi gặp
mọi người. Anh « nói to những điều người ta chỉ nghĩ và cũng ít nghĩ ».
- Anh rất quan tâm đến người khác: Anh rất lưu luyến với khách khi chia tay. Trước khi chia tay,
anh còn dành tặng cho mỗi người món quà. Đó là chè cho ông hoa sĩ, bó hoa cho cô kĩ sư, củ tam
thất cho vợ bác lái xe vừa ốm dậy và làn trứng cho những người đi đường, Những món quà đó tuy
không có giá trị cao về vật chất nhưng lại có ý nghĩa lớn về tinh thần. Vì đó chính là t/c, tấm lòng,
là sự quan tâm mà anh dành cho mọi người.
=> Thái độ vui vẻ, niềm nở, hiếu khách và sự quan tâm chân thành của anh đã để lại trong lòng
mọi người những ấn tượng khó quên.
Có thể nói ở anh thanh niên mang một vẻ đẹp trong sáng của người thanh niên thời đại mang
trong mình những hiểu biết về tri thức, sống tận tuỵ, yêu nghề, yêu đời, hiểu được việc làm và chỗ
đứng của mình từ đó mà hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Ở anh còn toả sáng và sưởi ấm
cho bao tâm hồn khác dẫu chỉ một lần gặp gỡ ngắn ngủi cho những người đến Sa Pa.
2. Nhân vật ấy giúp em hiểu thêm nét đẹp ở những con người lao động ở chốn Sa Pa :
- Đó là hình ảnh những con người lao động mới với phong cách sống đẹp, suy nghĩ đẹp, sống
có lý tưởng, quên mình vì cuộc sống chung, vô tư, lặng thầm, cống hiến hết mình cho đất
nước, say mê, miệt mài, khẩn trương làm việc.
- Họ có tấm lòng nhân hậu thật đáng quý, có tác phong sống thật đẹp. Cuộc sống của họ âm
thầm, bình dị mà cao đẹp biết bao.

III – Kết luận:

Trong cái “lặng lẽ”của Sa Pa trên đỉnh Yên Sơn bốn mùa mây phủ mấy ai biết được có một
chàng trai đang sống, đang âm thầm làm việc. Người cán bộ trẻ ấy được Nguyễn Thành Long xây
dựng khá sắc nét với những đặc điểm, suy nghĩ, hành động tích cực, một mẫu người của một giai
đoạn lịch sử có nhiều gian khổ hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ. Những trang viết của
Nguyễn Thành Long khiến ta thêm yêu con người và cuộc sống, thấy được trách nhiệm của mình
16
với sự nghiệp chung của đất nước. Tâm hồn và những việc làm của anh thanh niên trong truyện đã
gieo vào lòng người đọc nhiều tình cảm, thôi thúc chúng ta muốn cống hiến, muốn làm gì đó có ích
cho đất nước. Đọc truyện, hiểu thêm về những con người đó ta càng nhận thấy trách nhiệm của
mình với đ/n. Nhất là giờ đây, chủ quyền lãnh hải của chúng ta đang bị đe dọa nghiêm trọng. Mỗi
chúng ta hãy nhận thức đúng đắn, sáng suốt, có những hành động cụ thể thiết thực để góp phần bảo
vệ chủ quyền biển – đảo của quê hương.
* Đề 2: Về truyện “ Lặng lẽ Sa Pa “ có ý kiến cho rằng: “ Lặng lẽ Sa Pa có dáng dấp như
một bài thơ. Chất thơ bàng bạc trong toàn truyện”.
Em hiểu điều đó như thế nào? Hãy phân tích để làm sáng rõ.
Dàn ý chi tiết.
1.Mở bài:
2. Thân bài:
* Nêu nhận xét về ý kiến đánh giá bài thơ: Lời nhận định trên là hoàn toàn đúng về đặc điểm của
truyện “ Lặng lẽ Sa Pa”. Quả thật “ truyện có dáng dấp như một bài thơ”. Điều đó có nghĩa là
truyện rất ngắn gọn, súc tích, lời ít ý nhiều. Tác phẩm còn đậm chất trữ tình qua vẻ đẹp của nội
dung và hình thức của tác phẩm.
* Phân tích:
a. Luận điểm 1: Truyện giống như một bài thơ: LLSP là tác phẩm có dung lượng ngắn, số trang ít,
số nhân vật ít chỉ xoay quanh cuộc gặp gỡ trong vòng ba mươi phút giữa ba nhân vật thuộc hai thế
hệ.
b. Luận điểm 2: Chất thơ bàng bạc trong toàn truyện:
b1: Chất thơ toát lên từ nội dung của tác phẩm
* - Chất trữ tình toát lên từ phong cảnh thiên nhiên đẹp và đầy thơ mộng của Sa Pa được
miêu tả qua cái nhìn của người hoạ sỹ già : Hình ảnh thiên nhiên Sa Pa mang vẻ đẹp thơ mộng, độc

đáo, kỳ lạ. Càng kì lạ hơn khi thiên nhiên và con người như hòa nhập tạo nên một vẻ đẹp huyền ảo.
+ Đó là nơi núi cao, thác đổ trắng xoá, với mây, nắng, sương đều rất lạ. Sự bắt đầu của Sa Pa là
những rặng đào ven đường hay những đàn bò lang cổ có đeo chuông la đặc trưng hữu hình của cuộc
sống muôn màu, muôn vẻ nơi đây. Hình ảnh rừng cây đầu mùa bao bọc lấy nhau “Những cây thông
chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng, những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những
cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng”. Nhất là vẻ đẹp của
nắng khiến cảnh sắc thêm lộng lẫy “Nắng bây giờ bắt đầu len tới đốt cháy rừng cây”; “nắng đã mạ
bạc cả con mèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Nắng chiếu làm cho bó hoa
càng thêm rực rỡ và làm cho cô gái cảm thấy mình rực rỡ theo”. Người ta cảm thấy như bị cuốn
theo nhịp chạy của mây hay đầy xúc cảm trong sự cuốn hút của nắng. Có một Sa Pa của nắng, nắng
đem lại cho Sa Pa một vẻ đẹp mới: rực rỡ và bất ngờ. Ánh nắng dường như sáng dần lên trong
khung cảnh thiên nhiên. Cái nắng chói chang được Nguyễn Thành Long miêu tả “đốt cháy rừng
cây” và cái nắng vào cuối buổi trưa lại gay gắt hơn “ánh nắng như phủ khắp, mạ bạc cả con đèo”.
Cảnh được quan sát từ trên cao trở xuống. Và ở góc độ ấy, thiên nhiên càng trở nên khoáng đạt,
hùng vĩ hơn. Rừng cây như “một bó đuốc khổng lồ”, ánh nắng khiến thiên nhiên Sa Pa lặng lẽ, trầm
17
mặc mà đầy sức sống. “Nắng bắt đầu len tới đốt cháy rừng cây”, đọc câu văn, ta cảm giác như nắng
đang di chuyển, đang chạy dần trên các triền núi. Có thể nói câu văn miêu tả thiên nhiên đã làm
thêm chất trữ tình cho câu chuyện
+ Chỉ là những nét phác hoạ nhưng cảnh thiên nhiên hiện lên đẹp như những bức tranh, đẹp đến
hai lần – cái đẹp tự nhiên của nó và cái đẹp qua tâm hồn người nghệ sỹ của hoạ sỹ.
+ Thiên nhiên đẹp làm nền tôn thêm vẻ đẹp con người nơi đây. Những đỉnh Yên Sơn, Phan-xi-
păng cao vòi vọi gợi nghĩ tới những con người ở tầm cao của sự cống hiến và hy sinh. Cái hừng
hực của nắng, của gió gợi đến nhiệt huyết hừng hực cháy của con người lao động nơi đây. Thiên
nhiên thơ mộng, trong sáng như tâm hồn những con người ở Sa Pa trong sáng, mộng mơ.
+ Có thể thấy, thiên nhiên Sa Pa êm đềm trong trẻo nhưng cũng luôn thay đổi sắc màu. Chính
thiên nhiên đã góp phần tô điểm cho vẻ đẹp của con người và cuộc sống nơi đây.
- Nhưng chất trữ tình chủ yếu toát lên từ con người, từ ý thức trách nhiệm của họ. Họ
thuộc đủ mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề nhưng đều giống nhau ở ý thức trách nhiệm và sự lặng
thầm cống hiến ( Phân tích ngắn gọn để thấy được tinh thần làm việc của các nhân vật: Những con

người đang ở Sa Pa, những người khách đến với Sa Pa)
- Chất thơ được tạo nên từ tình người đằm thắm ấm áp: Tình người được gợi qua các chi
tiết bình dị mà xúc động. Đó là hành động hạ cây chắn ô- tô để được gặp người, là món qua nhỏ
nhưng ý nghĩa mà anh thanh tặng cho mọi người. Tình người còn được bộc lộ qua những lời kể,
những suy nghĩ của anh thanh niên về công việc, về con người. Tất cả họ đã tìm thấy sự đồng điệu
trong tâm hồn, sự bừng sáng của lí tưởng, của hoài bão và khát vọng.
B2: Chất thơ toát lên từ hình thức của tác phẩm:
- Tình huống truyện đơn giản, nhẹ nhàng
- Ngôn ngữ nhẹ nhàng, trong sáng đã tạo nên giọng văn dịu ngọt như cảnh sắc và thiên nhiên Sa
Pa. Chính ngôn ngữ góp phần làm đẹp thêm chân dung của những con người đang lặng thầm cống
hiến. Những trang tả cảnh thì ngân nga, những trang tả tình thì đằm thắm.
=> Có thể nói, truyện Lặng lẽ Sa Pa có dáng dấp như một bài thơ, chất thơ bàng bạc trong toàn
truyện, từ phong cảnh đẹp hết sức thơ mộng của thiên nhiên vùng núi cao đến hình ảnh những con
người sống và làm việc trong cái lặng lẽ mà không hề cô độc bởi sự gắn bó của họ đối với đất nước,
với mọi người. Tác giả đã tạo được không khí trữ tình cho tác phẩm, nâng cao ý nghĩa và vẻ đẹp
của những sự việc, con người rất bình dị được miêu tả trong truyện, nhờ thế mà chủ đề của truyện
được rõ nét và sâu sắc hơn.
Đề 3: Nêu cảm nhận về những người khách đến trong truyện “Lặng lẽ Sa Pa”.
* Ông họa sĩ :
- Dù không phải là nhân vật chính nhưng ông hoạ sĩ có vai trò rất quan trọng trong truyện: người kể
chuyện đã nhập vào cái nhìn và những ý nghĩ của ông hoạ sĩ để trần thuật, để quan sát và miêu tả từ
cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của truyện. Qua nhân vật này, tác giả muốn gửi gắm những suy
nghĩ về con người, về cuộc sống, về nghệ thuật.
- Ông hoạ sĩ là người nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm. Ông là một nghệ sỹ chân chính, một trí
thức lịch duyệt, một nhân cách đẹp có đời sống nội tâm phong phú.
- Ngay từ những lời giới thiệu của bác lái xe về anh thanh niên, ông hoạ sĩ đã xúc động mạnh khi
nhìn thấy người con trai tầm vóc bé nhỏ, nét mặt rạng rỡ từ trên sườn núi trước mặt chạy lại chỗ xe
đỗ”. Sau đó ông lại ngạc nhiên khi thấy anh thanh niên đang hái hoa, cảm động và bị cuốn hút trước
sự cởi mở chân thành của anh. Rồi ông lại cảm giác “ bối rối” khi nghe anh thanh niên kể về công
việc. Bằng sự từng trải nghề nghiệp và niềm khao khát của người nghệ sĩ sáng tạo đi tìm đối tượng

của nghệ thuật, ông biết mình đang xúc động và bối rối vì đã “bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao
ước được biết, một nét thôi dù khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới dù là
18
giá trị một chuyến đi dài”. Anh thanh niên là một con người như thế và có thể là nhân vật tương lai
trong một tác phẩm của ông.
- Cảm hứng được khơi gợi đã thôi thúc người hoạ sĩ sáng tác. Anh thanh niên muốn dành 20
phút để nghe chuyện dưới xuôi. Ông hoạ sĩ hứa mười ngày nữa trở lại, còn bây giờ ông muốn dành
trọn vẹn 20 phút ngắn ngủi để hiểu thật kỹ về người thanh niên, về đối tượng mà ông đang định thể
hiện trong bức tranh của mình. Ông muốn làm một bức phác hoạ chân dung về anh thanh niên
nhưng làm thế nào “cho người xem hiểu được anh ta, mà không phải hiểu như mộtngôi sao xa? Và
làm thế nào đặt được chính tấm lòng của nhà hoạ sĩ vào giữa bức tranh đó? Chao ôi, bắt gặp một
con người như anh ta là một cơ hội hãn hữu cho sáng tác, nhưng hoàn thành sáng tác còn là một
chặng đường dài”.
Ông chấp nhận những thử thách của quá trình sáng tác, đã bắt cảm hứng của mình hiện lên trang
giấy: “cũng may mà bằng mấy nét, hoạ sĩ đã ghi xong, lần đầu gương mặt của người thanh niên,
người con trai ấy đáng yêu thật nhưng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm cho người ta suy
nghĩ về anh. Và về những điều anh suy nghĩ”.
Những xúc cảm và suy tư của ông hoạ sĩ về anh thanh niên và về những vấn đề của nghệ thuật,
của đời sống được gợi lên từ câu chuyện của anh thanh niên đã làm cho chân dung nhân vật chính
thêm sáng đẹp và tạo nên chiều sâu tư tưởng.
* Cô gái.
- Góp phần làm câu chuyện thêm hấp dẫn, và làm nổi bật tính cách anh thanh niên. Cô đã điểm
một nét vẽ nhẹ nhàng, duyên dáng vào câu chuyện.
- Cô là cô kỹ sư trẻ mới ra trường, hăng hái xung phong lên Lào Cai công tác. Bước qua cuộc
đời học trò chật hẹp, bước vào cuộc sống bát ngát mới tinh, cái gì cũng làm cô háo hức.
- Đây là cô gái dám rời Hà Nội, bỏ lại sau lưng “mối tình đầu nhạt nhẽo” để lên công tác ở miền
cao Tây Bắc. Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, những điều anh nói, câu chuyện anh kể về
những người khác đã khiến cô “bàng hoàng”, cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt
đẹp của người thanh niên, về cái thế giới những con người như anh mà anh kể và về con đường có
đang đi tới?”. Nhờ cái bàng hoàng ấy, cô mới nhận ra mối tình của mình bấy lâu nay nhạt nhẽo biết

bao, cuộc sống của mình lâu nay tầm thường biết bao, thế giới của mình lâu nay nhỏ bé biết bao!
Khoảnh khắc bàng hoàng ấy chính là sự bừng dậy của những tình cảm lớn lao, cao đẹp khi người ta
bắt gặp được những ánh sáng đẹp đẽ toả ra từ cuộc sống, từ tâm hồn người khác. Chính anh thanh
niên là một tấm gương, tự soi để tự hiểu mình. Nghe anh thanh niên cô mới bàng hoàng nhận ra con
đường đi cho mình, càng vững tin vào những gì mình sẽ làm.
Cùng với sự bàng hoàng ấy là “một ấn tượng hàm ơn khó tả dạt lên trong lòng cô gái. Không
phải chỉ vì bó hoa rất to sẽ đi theo cô trong chuyến đi thứ nhất ra đời. Mà vì một bó hoa nào khác
nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh dành cho thêm cô”. Cuộc gặp gỡ đã
khơi lên trong tâm tư cô gái trẻ những tình cảm và suy nghĩ mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc
sống. Cô khao khát đất rộng trời cao, cô có thể đi bất kỳ đâu, làm bất kỳ việc gì.
=> Làm bừng dậy những tình cảm lớn lao, cao đẹp khi phát hiện ánh sáng đẹp đẽ toả ra từ
cuộc sống và tâm hồn con người khác.
=> Cô kỹ sư đẹp như những bông hoa cô đang cầm trên tay.
* Bác lái xe:
- Tốt bụng, vui chuyện như một nhân vật dẫn chuyện nhưng làm ta khó quên. Bác rất vui tính,
cởi mở, nhiệt tình với khách.
- Yêu nghề, yêu mảnh đất Sa Pa
- Nhân vật này đã dẫn dắt truyện, kích thích sự tò mò cho ông hoạ sỹ và cô kỹ sư, sơ lược về anh
thanh niên trước khi 2 người gặp anh.
Dẫn chứng: “… Tôi sắp giới thiệu với bác một người cô độc nhất thế gian. Thế nào bác cũng
thích vẽ hắn”.
19
=> Ta thấy hình ảnh anh thanh niên rõ ràng, đẹp đẽ hơn, chủ đề truyện cũng được mở rộng hơn,
gợi nhiều ý nghĩa hơn.
* Đề 4: Phân tích hình ảnh con người trong truyện “ Lặng lẽ Sa Pa”
* Đảm bảo được các ý:
- Những người đang sống và làm việc ở Sa Pa:
+ Anh thanh niên + Anh cán bộ nghiên cứu sét
+ Ông bố + Anh bạn trên đỉnh Pan xi phăng.
+ Ông kĩ sư vườn rau

- Những người khách đến với Sa Pa : Bác lái xe, ông học sĩ, cô kĩ sư
=> Họ tạo thành một thế giới những con người vô danh lặng lẽ âm thầm làm việc và cống hiến.
- Đó là hình ảnh những con người lao động mới với phong cách sống đẹp, suy nghĩ đẹp, sống có lý
tưởng, quên mình vì cuộc sống chung, vô tư, lặng thầm, cống hiến hết mình cho đất nước, say mê,
miệt mài, khẩn trương làm việc.
- Họ có tấm lòng nhân hậu thật đáng quý, có tác phong sống thật đẹp. Cuộc sống của họ âm thầm,
bình dị mà cao đẹp biết bao.
- Chính họ đã tạo nên những âm vang trong c/s, để từ đó khơi gợi trong biết bao thế hệ đọc tác
phẩm này tình yêu con người, tình yêu c/s biết suy nghĩ và sống đẹp hơn.
…………………………………………………………
ChiÕc lîc ngµ
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN.
I. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
- Nguyễn Quang Sáng (1932 – 2014) , quê ở làng Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
20
- Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau
1954, tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mỹ ông trở về
Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học.
- Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và
hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong 2 cuộc kháng chiến cũng như sau hoà
bình.
- Phong cách: Truyện của NQS thường có những tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí, mạch kể
từ tốn, chậm rãi mà đượm chất xung đột kịch.
II. Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác: truyện ngắn "Chiếc lược ngà” được viết năm 1966 khi tác giả hoạt động
ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên.
2. Khái quát nội dung và nghệ thuật :
* Nội dung: Thể hiện tình cha con cảm động và sâu nặng trong hoàn cảnh éo le, khắc nghiệt của
chiến tranh.
* Nghệ thuật:

- Tác giả xây dựng được một cốt truyện chặt chẽ, có những yếu tố bất ngờ nhưng hợp lí….
- Tình huống bất ngờ, tự nhiên, hợp lí.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lý và xây dựng tính cách nhân vật, đặc biệt là nhân vật trẻ em (bé Thu).
- Chọn ngôi kể phù hợp: Tác giả vừa là người kể chuyện vừa là người thân thiết gần gũi của các
nhân vật. Người kể chủ động xen vào câu chuyện để dẫn dắt người đọc. Đồng thời qua ý nghĩ, cảm
xúc của người kể chuyện, các chi tiết, sự việc và nhân vật khác bộc lộ rõ hơn ý nghĩa tư tưởng của
truyện thêm sức thuyết phục.
- Ngôn ngữ truyện mang đậm sắc thái địa phương Nam Bộ.

3. Tóm tắt: Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi ông mới có dịp về
thăm nhà, thăm con. Bé Thu – con ông – không nhận ra cha vì vết thẹo trên mặt làm ông không
giống với người cha trong bức ảnh mà em biết. Em đối xử với ba như với người xa lạ. Cho đến lúc
em nhận ra cha, tình cha con trỗi dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi.
- Ở khu căn cứ, người cha ấy đã dồn hết tình cảm yêu thương và nỗi nhớ mong con vào một việc
làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn, ông đã hy sinh.
Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược ngà nhờ người bạn gửi về cho con gái của mình.
4. Chủ đề: Truyện ca ngợi tình cha con trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Đó là t/c thiêng liêng
muôn đời bất diệt mà không có bất kì một thế lực nào dập tắt được. Đông thời truyện còn lên án, tố
cáo chiến tranh phi nghĩa đã gây ra bao mất mát, đau thương cho biết bao gia đình VN.
B MỘT SỐ CÂU HỎI XOAY QUANH TÁC PHẨM .
Câu 1: Truyện được kể theo ngôi kể nào ? Tác dụng ?
Chuyện được kể ở ngôi thứ nhất, người kể là bác Ba– người bạn thân chiến đấu của ông Sáu,
một người chứng kiến toàn bộ câu chuyện. Việc sử dụng ngôi kể này không gian truyện được mở
rộng, tính chất khách quan được nâng lên, người kể có thể kể nhiều sự việc diễn ra đồng thời. Bên
cạnh đó vì là người trực tiếp chứng kiến nên có điều kiện đi sâu miêu tả thế giới nội tâm của các
nhân vật một cách chân thực, sinh động hơn. Ngôi kể này còn tạo được giọng điệu kể chuyện thủ thỉ
tâm tình, gợi cảm giác chân thực, gần gũi với người đọc. Người kể hoàn toàn điều khiển nhịp kể.
Khi cần có thể bày tỏ trực tiếp cảm xúc, thái độ đối với sự kiện và nhân vật. Nhờ thế mà câu chuyện
trở nên đáng tin cậy.
21

Câu 2: Nêu tình huống truyện và ý nghĩa của tình huống? Truyện ngắn đã thể hiện tình cha con
sâu sắc của hai cha con ông Sáu trong hai tình huống:
- Tình huống thứ nhất: cha con ông Sáu gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là
bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi.
Đây là tình huống cơ bản của truyện.
- Tình huống thứ hai: ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con
vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông Sáu đã hy sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho
con gái.
=> Nhà văn đã xây dựng được tình huống éo le, bất ngờ nhưng hợp lí. Đặt nhân vật vào tình
huống éo le bất ngờ đó đã góp phần thể hiện một cách cảm động tình cha con trong chiến tranh.
Nếu tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với cha thì tình huống thứ hai bộc lộ
sâu sắc tình cảm của cha với con. Tình huống đó còn giúp tác giả lên án tố cáo chiến tranh phi nghĩa
đã gây ra biết bao đau thương mất mát cho nhiều gia đình VN.
Câu 3 : Giải thích ý nghĩa nhan đề của truyện « Chiếc lược ngà ».
Truyện viết về tình cha con nhưng lại được đặt tên là « Chiếc lược ngà ». Đây là một nhan đề
hay và giàu ý nghĩa đồng thời thể hiện được chủ đề của tác phẩm. Bởi vì :
- Chiếc lược ngà là hình ảnh xuyên suốt câu chuyện. Đây là chi tiết nghệ thuật độc đáo. Nó là chiếc
cầu nối tình cảm của hai cha con ông Sáu, là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm, kỳ
diệu, là hiện hữu của tình cha con bất tử giữa ông Sáu và bé Thu và là minh chứng chứng kiến lòng
yêu thương vô bờ bến của ông Sáu với con. Có thể chiếc lược ấy chưa chải được mái tóc của bé
Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng của ông.
- Đó không phải là chiếc lược bình thường mà là chiếc lược của hi vọng, của niềm tin, của tình yêu
thương. Đồng thời đây cũng là vật kỉ niệm duy nhất của người cha để lại cho con trước lúc hi sinh.
- Là chi tiết nghệ thuật làm cho mạch truyện phát triển tự nhiên và hợp lí đồng thời có tác dụng gắn
kết các nhân vật : ông Sáu – bé Thu – bác Ba. Chiếc lược ngà Chiếc lược ngà xuất hiện đánh dấu
một kết cấu vòng tròn cho câu chuyện và cũng là bài ca đẹp tồn tại vĩnh cửu của tình cha con
C. Thực hành :
* Đề bài 1: Suy nghĩ của em về nhân vật bé Thu:
1. Mở bài:
Câu chuyện khắc họa hình ảnh một nhân vật bé Thu đầy ấn tượng và tinh tế,một đứa bé cá tính

và ương bướng nhưng lại có tình yêu cha sâu sắc, mãnh liệt.
2. Thân bài;
Câu truyện xoay quanh tình huống gặp mặt của bé Thu và ông Sáu.Khi ông Sáu đi kháng chiên
chống Pháp,lúc đó bé Thu chưa đầy một tuổi.Khi ông có dịp thăm nhà thì con gái đã lên 8 tuổi.Song
bé Thu lại không chịu nhận cha vì vết thẹo trên má làm ông Sáu không giống như bức ảnh chụp
chung với má.Trong ba ngày ở nhà, ông Sáu dùng mọi cách để gần gũi nhưng con bé vẫn không
chịu gọi một tiếng “Ba”. Đến khi bé Thu nhận ra cha mình thì cũng là khi ông Sáu phải ra đi. Ông
hứa sẽ mang về tặng con một cái lược ngà.Những ngày chiến đầu trong rứng, ông cặm cụi làm chiếc
lược cho con gái.Chiếc lược làm xong chưa kịp trao cho con gái thì ông đã hi sinh.Trước khi nhắm
mắt ông chỉ kịp trao cây lược cho người bạn nhờ chuyển lại cho con mình.
a) LĐ1: Bé Thu – một bé bướng bỉnh, cứng đầu và gan lì.
Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế
và nhạy bén, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và lì lợm đến ghê gớm
- Khi gặp ông Sáu ở bến xuồng, nghe tiếng gọi tên mình, Thu “giật mình tròn mắt nhìn”. Nó ngơ
ngác, lạ lùng, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “má, má”.
22
- 3 ngày nghỉ phép:
+ Thu xa lánh ông Sáu trong lúc ông tìm cách vỗ về, gần gũi. Thu nhất quyết không chịu gọi
tiếng ba.
+ má doạ đánh, Thu buộc phải gọi ông Sáu vô ăn cơm, nó phải nghe má nhưng chỉ nói trống.
Đến cả khi gặp phải tình huống cấp bách ( Chắt nước cho nồi cơm sôi) nó vẫn không chịu. Sợ cơm
bị nhão nó gọi ông Sáu chắt giúp nhưng vẫn lại nổi trổng.
+ Bác Ba nói mẫu nhưng Thu vẫn không gọi.
+ Bị dồn vào thế bí, nó nhăn nhó muốn khóc nhưng tự lấy rá chắt nước chứ không chịu gọi “ba”.
+ Thu đã hất tung cái trứng cá ra mâm, cơm văng tung toé – bị đòn, không khóc, chạy sang nhà
bà ngoại, cố ý khua cho dây xuồng kêu thật to.
-> Bé Thu thật là bướng bỉnh, cứng đầu và gan lì. Đến bác Ba cũng phải nghĩ “con bé đáo để
thật”, còn ông Sáu thì không nén được: “Sao mày cứng đầu quá vậy?”.
=> Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu,
nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé. Dù bị mẹ quơ đũa

dọa đánh, dù bị dồn vào thế bí, dù bị ông Sáu đánh, bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết ,
mạnh mẽ. Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”, nhưng chính thái
độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý.Trong
tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”.
Người cha ấy không giống ông Sáu. Không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo
trên má. Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu. Có lẽ
trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt
của bom lửa đạn, biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người
chiến sỹ. Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách
mà là sự kiên định, thẳng thắn, có lập trường bền chặt. Đó là một phần trong tính cách cứng cỏi
ngoan cường của cô gian liên giải phóng sau này.
Nhưng dù cô bé ấy có bướng bỉnh, gan góc, tình cảm có sâu sắc, mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn
chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. Nhà văn tỏ ra rất am
hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ,
thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy. Khi bị ba đánh, bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng
cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm”. Có cảm giác bé Thu sợ ông Sáu sẽ nhìn
thấy những giọt nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình
có lỗi? Lại một loạt hành động tiếp theo “Xuống bến nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói, cố làm cho
dây lòi tói khua rổn rang , khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông”. Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm
nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý. Có lẽ cô bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi mà
chạy ra vỗ về, dỗ dành. Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu, giữa một bên là sự
cứng cỏi, già giặn hơn tuổi, nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về. Song khi
“Chiều đó, mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”. Cái cá tính cố chấp một cách trẻ con
của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi, vừa tinh tế. Dù như thế thì bé Thu vẫn chỉ là một
đứa trẻ 8 tuổi hồn nhiên, dẫu có vẻ như cứng rắn và mạnh mẽ trước tuổi. Và chính thái độ ương
ngạnh, ngang bướng đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cha con. Lý do nó không nhận ba thật đơn
giản, trẻ con, bất ngờ mà hợp lý.
b) LĐ2: Bé Thu – Một cô bé có tình yêu thương cha tha thiết.
- Suốt tám năm sống xa cha cô bé rất mong nhớ cha. Bé thường lấy gương ra soi và xem mình
có giống ba không. Trong ước mơ được giống ba của bé Thu ta thấy bé yêu ba biết chứng nào.

- Nhưng khi ba về, cô bé lại kiên quyết không nhận ba. Tình cảm mãnh liệt trong nó ngăn
không cho nó nhận bất cứ người đàn ông nào là bố ngoại trừ người chụp chung ảnh với má.Tình
yaeeu ấy được thể hiện một cách cảm động trong thời khắc trước lúc ông Sáu lên đường.
23
* Trước lúc ông Sáu lên đường
+ Tình cha con của ông đã trở lại vào thời khắc ngắn ngủi nhất, đem lại cho người đọc nỗi xúc
động nghẹn ngào nhất.
+ Trong cái ngày trước khi ông Sáu lên đường vào chiến khu, con bé cùng ngủ với bà ngoại.
Trong đêm ấy, bà đã giảng giải cho nó nghe, phân tích cho nó hiểu. Con bé đã biết được rằng ông
Sáu chính là cha mình. Nó cũng hiểu vết sẹo ghê sợ trên mặt ông là vết thương của ông trong chiến
đấu. Sau khi hiểu được nguồn gốc lai lịch vết sẹo trên mặt cha, con bé lăn lộn suốt một đêm không
ngủ được. Có lẽ nó hối hận lắm vì đã từng đối xử không tốt với ông. Lúc này, không chỉ yêu cha, nó
còn rất thương ba nữa.
+ Người đọc đã chứng kiến một cuộc chia tay cảm động sáng hôm sau, trước khi cha nó lên
đường Thu cũng có mặt trong buổi đưa tiễn cha nhưng lại mang tâm trạng hoàn toàn khác trước:
“Nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu”. Khi đối diện với
ông Sáu, “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”. Người đọc cảm nhận được đằng sau đôi
mắt mênh mông, xôn xao ấy đang xáo động biết bao tình cảm.
+ Tiếng gọi ba vỡ oà từ sâu thẳm trong tâm hồn bé bỏng của nó. Sự khao khát tình cha con lâu
nay bị kìm nén bỗng bật lên. Bắt đầu là tiếng thét “Ba…a…a ba”, tiếng gọi thân thương, tiếng gọi
ông Sáu chờ đợi suốt 9 năm ròng, cuối cùng ông cũng được nghe.Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái
tim bé Thu, tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua, tiếng gọi ba gần
gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói, tiếng gọi mà ba nó tha thiết
được nghe một lần. Bao nhiêu mơ ước, khao khát như muốn vỡ òa ra trong một tiếng gọi cha. Tiếng
gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó. Lần đầu tiên nó
cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha.
+ Thế rồi “nó vừa kêu vừa chạy xô tới… dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”. Nó hôn khắp người
ông Sáu, hôn cả vết sẹo dài trên má ông, cái vết sẹo trước kia nó ghê sợ và cảm thấy xấu xí vô cùng.
Đến bây giờ, hiểu được vì sao cha có vết sẹo, Thu thương cha nó lắm. Hành động của em như muốn
xoa dịu nỗi đau đã gây ra cho cha. Sau khi nghe ông Sáu nói: “Ba đi rồi ba về với con”, bé Thu thét

lên: “Không!”, hai tay ôm chặt lấy cổ cha, hai chân bấu chặt người nga. Em khóc vì thương cha, vì
ân hận đã không phải với cha, vì không biết đến bao giờ mới được gặp lại cha. Lúc này tất cả hành
động của Thu đều gấp gáp dồn dập, trái hẳn lúc dầu. Đó chính là sự vỡ òa của các cung bậc cảm
xúc
+ Trong tâm hồn cô bé, tình yêu với cha đã có sự thay đổi. Ngoài tình yêu còn có tình thương
rồi cao hơn cả là niềm tự hào vô bờ bến, niềm kiêu hãnh vô cùng vì người cha chiến sĩ, người cha
hy sinh tuổi thanh xuân, cống hiến cả cuộc đời cho cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Giờ đây
người cha ấy lại tiếp tục đi theo con đường vinh quang mà cả dân tộc ta đang đi.
3. Kết bài: Bằng sự am hiểu tâm lí trẻ thơ tinh tế, nghệ thuật miêu tả tâm lý đặc sắc và cách xây
dựng tình huống bất ngờ cùng với tình yêu thương trẻ thơ, NQS đã diễn tả sinh động tình cảm của
bé Thu trong cuộc chia tay cha con đầy cảm động.
Đề 2: Suy nghĩ của em về nhân vật ông Sáu:
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Suy nghĩ của em về nhân vật ông Sáu : một người chiến sĩ, một người cha nhất mực thương
yêu con.
2. Thân bài : Không chỉ khắc họa thành công nhân vật bé Thu, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” ca
ngợi tình cha con sâu đậm mà đẹp đẽ. Bên cạnh hình ảnh bé Thu, hình ảnh ông Sáu được giới thiệu
là người lính chiến tranh, vì nhiệm vụ cao cả mà phải tham gia chiến đấu, bỏ lại gia đình, quê
hương để đi chiến đấu. Nhưng hoàn cảnh của chiến tranh càng khiến cho tình yêu con trong ông sâu
sắc và mãnh liệt.
24
a) Lúc còn ở khu căn cứ:
- Ông nhớ thương con vô cùng.
- Khao khát được gặp con, được sống trong tình yêu của con.
- Biết tin chuẩn bị về phép: Tâm trạng “ nôn nao” -> Mong đợi, ngóng chờ, vui mừng, sốt
ruột….
b) Khi gặp con (ở bến sông)
- Bằng linh cảm của người cha yêu con, ông Sáu đã nhận ra ngay đứa bé mặc áo hoa là con
mình.

- Ông đã không thể chờ xuồng cập bến “nhón chân nhảy thót lên bờ, xô chiếc xuồng tạt ra”. Rồi
“bước vội vàng với những bước dài”, “kêu to tên con, vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ
con” > Nôn nóng, sốt ruột, khao khát được gặp con, được ôm con vào lòng.
- Vét thẹo dài trên má phải anh lại đỏ ửng lên, giần giật. Giọng nói lập bập, run run: “ba đây
con, ba đây con”.
-> Tâm trạng xúc động mạnh mẽ, sau 7-8 năm xa nhà, tình cảm cha con bị nén lại trong lòng,
giờ đây trào dâng mãnh liệt.
- Ngược lại, bé Thu giật mình, ngơ ngác, hốt hoảng và vụt bỏ chạy -> điều đó hoàn toàn bất ngờ
với ông Sáu khiến “mặt ông sầm lại” và “hai tay buông xuống như bị gãy”.
-> Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí -> Thể hiện tâm trạng đau khổ tột cùng, ông sung sướng,
náo nức, nôn nóng muốn được ôm con vào lòng, nhưng đứa con lại xa lánh, hoảng sợ khiến người
cha bị hụt hẫng, ông đau đớn không hiểu nguyên nhân vì sao, ông vừa thất vọng, vừa bất lực.
c) Trong 3 ngày nghỉ phép:
- Ông chẳng đi đâu xa, chỉ tìm cách gần gũi để được nghe một tiếng gọi “ba” của con bé.
- Mọi cố gắng của ông từ việc “giả vờ không nghe” đến việc “dồn nó vào thế bí” (chắt nước
cơm) nhưng không có kết quả.
- Tình yêu thương con của ông Sáu đã không được bé Thu đón nhận, đáp lại, nó kiên quyết
không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong mỏi - điều đó làm ông Sáu thực sự đau lòng, ông chỉ
biết lắc đầu cam chịu, bởi tình cảm không dễ gì gượng ép. Cho nên đã có lúc ông phải cười. Cái
cười thể hiện sự khổ tâm đến cùng cực bởi ông yêu con mà không được con chấp nhận t/y ấy.
- Trong bữa ăn, do nôn nóng, bực tức, không kịp suy nghĩ, ông đã đánh con bé -> con bé bỏ
sang nhà ngoại. Và ông Sáu ngữ mình sẽ không thể được nghe tiếng gọi “ ba” thiêng liêng từ đứa
con gái mà ông vô cùng yêu quý.
- Nhưng hạnh phúc đã đến với ông. Trước khi chia tay ông đã được nghe con mình goi “ ba”.
Đó là tiếng gọi mà ông đã chờ đợi suốt tám năm qua. Ai có thể ngờ được một người lính dạn dày
nơi chiến trường, quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng yếu mềm trước con gái mình. Những
giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả lại rơi khi lần đầu tiên ông
cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự! (“Không ghìm được xúc động và không muôn cho
con thấy mình khóc, anh Sáu một tày ôm con,một tay rút khăn lau nước mắt”). Đó không còn là giọt
nước mắt khổ tâm nữa mà là giọt nước mắt hạnh phúc dâng trào.

d) Khi ông Sáu ở chiến trường miền Đông. Tình yêu thương con của ông Sáu còn được nhà
văn đặt trong hoàn cảnh éo le khi ông lại phải xa con vào chiến trường miền Đông.
- Ông thương con, ân hận vì mình đã đánh con.
- Nhớ lời con nhưng ông không mua mà có ý tự tay làm chiếc lược tặng con. Có lẽ ông muốn
dùng chiếc lược ấy để thể hiện tình yêu với con và cả sự ân hận của mình. Ông đã làm chiếc lược ấy
bằng tất cả tình thương.
+ Tự mình đi tìm ngà voi -> Khi tìm thấy khúc ngà, ông sung sướng như đứa trẻ bắt được quà.
Ông sung sướng vì ông đã có cơ hội để thực hiện lời hứa với con.
25

×