CHUYÊN ĐỀ 17: “Nói với con” – Y Phương.
* Khái quát về tác giả, tác phẩm:
- Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và
trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi.
- Bài thơ “Nói với con” thể hiện tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui, tình yêu quê hương
tha thiết, sâu nặng, ngợi ca truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân
tộc.
Đề bài: Cảm nhận bài thơ “Nói với con” của Y Phương.
I.M ở bài:
Quê hương là gì hở mẹ?
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ?
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều
Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã diễn tả tình yêu quê hương của mình bằng những vần thơ thật
giản dị. Quả thật ai cũng có một quê hư ơng nơi đón nhận tiếng khóc chào đời. Viết về
quê hương, mỗi nhà thơ có một cách thể hiện khác nhau. Nếu như với Đỗ Trung Quân là
“chiếc cầu tre nhỏ ”, với Tế Hanh là “chiếc buồm vôi”, là “mùi nồng mặn quá” thì nhà thơ
Y Phư ơng lại biểu lộ tình yêu và niềm tự hào về quê hương qua lời tâm sự với con. Bài
thơ “ Nói với con” được in trong “Thơ Việt Nam 1945 – 1985” là tiếng lòng của một tấm
hồn chân thật, mạnh mẽ, trong sáng của người cha dành cho con. Qua đó, thể hiện tình
yêu quê hương thắm thiết và diễn tả niềm tự hào về cội nguồn dân tộc.
II. Thân bài.
Những lời thơ giản dị nhưng có sức ám ảnh lạ thường trong tâm trí độc giả. Những điều
người cha nói với con trong bài thơ phải chăng cũng chính là lời căn dặn yêu thương mà
biết bao nhiêu người cha muốn con mình thấu hiểu ? Mỗi lần đọc bài thơ là một lần ta cúi
đầu thành kính trở về với cội nguồn, với những gì thân thương nhất. Mượn lơì cha tâm
tình với con,nhà thơ nhắc nhở về cội nguồn của mỗi con người, qua đó bộc lộ niềm tự
hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ và phẩm chất tốt đẹp của dân tộc mình, quê hư ơng
mình.
1. Cội nguồn sinh dưỡng c ủa mỗi con người.
- Đến với bài thơ, ta thấy điều đầu tiên Y Phương muốn nói với con chính là cội nguồn
sinh dưỡng mỗi con người – tình yêu thương vô bờ bến mà cha mẹ dành cho con – tình
gia đình:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
+ Nhịp thơ 2/3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại, tạo ra một âm điệu tươi vui,
quấn quýt: “chân phải” – “chân trái”, rồi “một bước” – “hai bước”, rồi lại “tiếng nói” –
“tiếng cười”….
+ Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu chất thơ kết hợp với nét độc đáo trong tư duy, cách
diễn đạt của người miền núi, bốn câu thơ mở ra khung cảnh một gia đình ấm cúng, đầy ắp
niềm vui, đầy ắp tiếng nói cười.
+ Lời thơ gợi vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh em bé đang chập chững tập đi, đang bi
bô tập nói, lúc thì sa vào lòng mẹ, lúc thì níu lấy tay cha.
+ Ta có thể hình dung được gương mặt tràn ngập tình yêu thương, ánh mắt long lanh rạng
rỡ cùng với vòng tay dang rộng của cha mẹ đưa ra đón đứa con vào lòng.
+ Từng câu, từng chữ đều toát lên niềm tự hào và hạnh phúc tràn đầy.Cả ngôi nhà như
rung lên trong “tiếng nói”, “tiếng cười” của cha, của mẹ.Mỗi bước con đi, mỗi tiếng con
cười đều được cha mẹ đón nhận, chăm chút mừng vui. Trong tình yêu thư ơng, trong sự
nâng niu của cha mẹ, con lớn khôn từng ngày.
-> Tình cha mẹ - con cái thiêng liêng, sâu kín, mối dây ràng buộc, gắn kết gia đình bền
chặt đã được hình thành từ những giây phút hạnh phúc bình dị, đáng nhớ ấy. Lời thơ
ngay từ đầu đã chạm đến sợi dây tình cảm gia đình sâu kín của mỗi con người nên tạo
được sự đồng cảm, rung động sâu sắc đến độc giả.
- Cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người được Y Phương nói đến không chỉ là gia đình
mà còn là quê hương, là thiên nhiên tươi đẹp và thấm đượm nghĩa tình. Như bầu sữa tinh
thần thứ hai, quê hư ơng với cuộc sống lao động, với thiên nhiên tư ơi đẹp, tình nghĩa đã
nuôi dư ỡng, sẻ chia giúp cho con trưởng thành. Đó là:
Người đồng mình yêu lắm, con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát.
+ Quê hương hiện ra qua hình ảnh của người đồ ng mình. Nói với con về những “người
đồng mình”, nhà thơ như đang giới thiệu ân cần đây là những người bản mình, người
vùng mình, người dân quê mình gần gũi, thân thương.
-> Cách gọi như thế, cùng với hô ngữ “con ơi” khiến lời thơ trở nên tha thiết, trìu mến.
+ Người đồng mình là những con ngư ời đáng yêu, đáng quý: “Đan lờ cài nan hoa – Vách
nhà ken câu hát”. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của họ được gợi ra qua những
hình ảnh thật đẹp! Những nan nứa, nan tre dưới bàn tay tài hoa của người quê mình đ ã trở
thành “nan hoa”. Vách nhà không chỉ ken bằng tre, gỗ mà còn được ken bằng những câu
hát si, hát lượn.
+ Các động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả chính xác động tác khéo léo trong lao động vừa
gợi sự gắn bó, quấn quýt của những con người quê hương trong c uộc sống lao động.
-> Cái “yêu lắm” của “người đồng mình” là gì nếu không phải là cốt cách tài hoa, là tinh
thần vui sống? Phải chăng, ẩn chứa bên trong cái dáng vẻ thô mộc là một tâm hồn phong
phú, lãng mạn biết bao?
+ Quê hương với những con người tài hoa, tâm hồn lãng mạn, cũng là quê hương với
thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Nếu như hình dung về một vùng núi cụ thể, chắc hẳn mỗi người có thể gắn nó với những
hình ảnh khác cách nói của Y Phương: là thác lũ, là bạt ngàn cây hay rộn rã tiếng chim
thú hoặc cả những âm thanh “gió gào ngàn, giọng nguồn thét núi”, những bí mật của rừng
thiêng… Nhưng Y Phương chỉ chọn một hình ảnh thôi, hình ảnh “hoa” để nói về cảnh
quan của rừng. Nhưng hình ảnh ấy có sức gợi rất lớn, gợi về những gì đẹp đẽ và tinh tuý
nhất. Hoa trong “Nói với con” có thể là hoa thực - như một đặc điểm của rừng - và khi
đặt trong mạch của bài thơ, hình ảnh này là một tín hiệu thẩm mĩ góp phần diễn đạt điều
tác giả đang muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương đã hun đúc nên tâm
hồn cao đẹp của con người ở đó. Quê hư ơng còn hiện diện trong những gì gần gũi, t hân
thư ơng. Đó cũng chính là một nguồn mạch yêu thương vẫn tha thiết chảy trong tâm hồn
mỗi người, bởi “con đường cho những tấm lòng”. Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình.
Thiên nhiên đem đến cho con người những thứ cần để lớn, giành tặng cho con người
những gì đẹp đẽ nhất.Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con ngư ời cả về tâm hồn và lối
sống.
-> Bằng cách nhân hoá “rừng” và “con đường” qua điệp từ “cho”, người đọc có thể nhận
ra lối sống tình nghĩa của “ngư ời đồng mình”. Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con
vào cuộc sống êm đềm.
- Sung sư ớng ôm con thơ vào lòng, người cha nói với con về kỉ niệm có tính chất khởi
đầu cho hạnh phúc gia đình:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
=> Mạch thơ có sự đan xen, mở rộng: từ tình cảm gia đình mà nói tới quê hương.
=> Đoạn thơ vừa là một lời tâm tình ấm áp, vừa là một lời dặn dò đầy tin cậy của
người cha trao gửi tới co n.
=> Bằng những hình ảnh thơ đẹp,giản dị bằng cách nói cụ thể, độc đáo mà gần gũi
của người miền núi, người cha muốn nói với con rằng:vòng tay yêu thương của cha
mẹ, gia đình, nghĩa tình sâu nặng của quê hương làng bản- đó là cái nôi đã nuôi con
khôn lớn, là cội nguồn sinh dưỡng của con. Con hãy khắc ghi điều đó.
2. Đức tính tốt đẹp của người đồng mình. hocvanlop9
- Trong cái ngọt ngào của kỉ niệm về gia đình và quê hương, người cha đã tha thiết nói
với con về những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình.
a. Người đồng mình biết lo toan và giàu mơ ước ( Giàu ý chí, nghị lực ).
- Người đồng mình không chỉ là những con ngư ời giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao
động mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước:
Người đồng mình thương lắm con ơi!
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chi lớn.
+ Nếu trên kia “ yêu lắm con ơi”– yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ mộng,
yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình, thì đến đây người cha nói “thương lắm con ơi”–
bởi sau từ “thương” đó là những những nỗi vất vả, gian khó của con người quê hương ->
Người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân, thử thách cùng ý chí mà
người đồng mình đã trải qua.
+ Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y Phương đã lấy cái cao vời vợi của trời
để đo nỗi buồn, lấy cái xa của đất để đo ý chí con người.
+ Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơ cho thấy khó khăn, thử thách
càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ.
=> Có thể nói, cuộc sống của ngư ời đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề
thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào
tương lai tốt đẹp của dân tộc.
b. Người đồng mình dù s ống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với
quê hương, cội nguồn.
Sống trên đá không chê đá gập gềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
+ Phép liệt kê với những hỉnh ảnh ẩn dụ “đá gập gềnh”, “thung nghèo đói” -> gợi cuộc
sống đói nghèo, khó khăn, cực nhọc.
+ Vận dụng thành ngữ dân gian “Lên thác xuống ghềnh”, ý thơ gợi bao nỗi vất vả, lam lũ.
-> Những câu thơ dài ngắn, cùng những thanh trắc tạo ấn tượng về cuộc sống trắc trở,
gian nan, đói nghèo của quê hương.
+ Điệp ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc câu cùng hình ảnh đối xứng đã nhấn
mạnh: người đồng mình có thể nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất nhưng họ không thiếu ý
chí và quyết tâm. hocvanlop9 Ngư ời đồng mình chấp nhận và thủy chung gắn bó cùng
quê hương, dẫu quê hương có đói nghèo, vất vả. Và phải chăng, chính cuộc sống nhọc
nhằn, đầy vất vả khổ đau ấy đã tôi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu quê hương sẽ tạo nên
sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả.
+ Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng
mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình
ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sống
trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người.
c. Người đồng mình có ý thức tự lập, tự cường và tinh thần tự tôn dân tộc:
- Phẩm chất của người của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách
nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất
đúng với người miền núi:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
+ Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình.
+ Cụm từ “thô sơ da thịt” là cách nói bằng hình ảnh cụ thể của bà con dân tộc Tày, ngợi
ca những con người mộc mạc, giản dị, chất phác, thật thà, chịu thương, chịu khó.
+ Cụm từ “chẳng nhỏ bé” khẳng định sự lớn lao của ý chí, của nghị lực, cốt cách và niềm
tin.
-> Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng giàu
chí khí, niềm tin. Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí,
về mong ước xây dựng quê hương:
- Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
+ Lối nói đậm ngôn ngữ dân tộc – độc đáo mà vẫn chứa đựng ý vị sâu xa.
+ Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực ( chỉ
truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi), vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu
sắc.
+ Người đồng mình bằng chính bàn tay và khối óc, bằng sức lao động đã xây dựng và
làm đẹp giàu cho quê hương, xây dựng để nâng tầm quê hương.
+ Còn quê hương là điểm tựa tinh thần với phong tục tập quán nâng đỡ những con người
có chí khí và niềm tin.
-> Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo tồn
những truyền thống quê hương tốt đẹp của người đồng mình.
- Khép lại đoạn thơ bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ trìu mến với biết bao niềm tin
hi vọng của người cha đặt vào đứa con yêu:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
+ Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” và “không bao giờ nhỏ bé” được lặp lại với bốn câu thơ
trước đó càng trở nên da diết, khắc sâu trong lòng con về những phẩm chất cao đẹp của
“người đồng mình”. hocvanlop9 Nhưng hai tiếng “Lên đường” cho thấy người con đã lớn
khôn và tạm biệt gia đình – quê hương để bước vào một trang đời mới.
+ Trong hành trang của ngư ời con mang theo khi “lên đường” có một thứ quí giá hơn mọi
thứ trên đời, đó là ý chí, nghị lực, truyền thống quê hương. Lời dặn của cha thật mộc
mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp
tục vững bước trên đư ờng đời, tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương.
+ Hai tiếng “Nghe con” lắng đọng bao cảm xúc, ẩn chứa tình yêu thương vô bờ bến của
cha dành cho con. Câu thơ còn gợi ra một cảnh tượng cảm động đang diễn ra lúc chia li:
cha hiền từ âu yếm nhìn con, xoa đầu con và người con ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe
lời cha dặn.
=> Ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, cha mong con sống có tình
nghĩa với quê hương, phải giữ đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của cha ông từ bao
đời để lại. Hơn nữa, con phải biết chấp nhận gian khó và vươn lên bằng ý chí của
mình.
=> Người cha muốn con hiểu và cảm thông với cuộc sống khó khăn của quê hương,
tự hào về truyền thống quê hương, tự hào về dân tộc để vững bước trên con đường
đời, để tự tin trong cuộc sống.
=> Người cha trong bài thơ của Y Phương đã vun đắp cho con một hành trang quí
vào đời. Nếu mẹ là bông hoa cho con cài lên ngực thì cha là cánh chim cho con bay
thật xa. Nếu mẹ cho con những lời ngọt ngào yêu thương vỗ về thì cha cho con tinh
thần ý chí nghị lực, ước mơ khát vọng, lối sống cao đẹp.
=> Giọng thơ thiết tha, trìu mế n nhưng lại trang nghiêm. Các hình ảnh thơ cụ thể
mà có tính khái quát, mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ.
=> Đoạn thơ chứa chan ý nghĩa,mộc mạc, đằm thắm mà sâu sắc. Nó tựa như một
khúc ca nhẹ nhàng mà âm vang. Lời thơ tâm tình của người cha sẽ là hành trang đi
theo con suốt cuộc đời và có lẽ mãi mãi là bài học bổ ích cho các bạn trẻ - bài học về
niề m tin, nghị lực,ý chí vươn lên.
III. Kết bài:
“Nói với con”, Y Phương không chỉ sắp xếp hành trang cho riêng đứa con yêu quí của
mình, mà cũng là hành trang ông muốn trao gửi cho tất cả những ai đang bước đi trên
đường đời.
Đề bài: Cảm nhận khổ 2 bài thơ “Nói với con” của Y Phương.
Theo cô Nguyễn Thị Kim Lan – Chuyên viên Sở GD&ĐT Hải Phòng
Dàn bài đại cươ ng Dàn bài chi tiết
1.M ở bài:
- Tác giả: Y Phương.
- Tác phẩm “Nói với
con”
- Đoạn trích: Đoạn 2
- Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày. Thơ ông thể hiện tâm hồn
chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của
người miền núi.
- “Nói với con” là một trong những bài thơ tiêu biểu viết về tình
cảm gia đình ấm cùng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống
mạnh mẽ của quê hư ơng và dân tộc.
- Đoạn hai của bài thơ (16 câu) thể hiện lòng tự hào về sức sống
mạnh mẽ, bền bỉ, về truyền thống cao đẹp của quê hương và niềm
mong ư ớc con hãy kế tục xứng đáng truyền thống ấy.
2.Thân bài:
* Khái quát: Dẫn dắt
vào bài
- Bài thơ không đưa ra những chân lý to tát mà là lời tâm sự chân
thành của một người cha dành cho đứa con yêu quý, dạy con hãy
biết yêu thương, quý trọng và phát huy truyền thống của quê
hương. Qua đó tình cảm cha con hiện lên thật ấm áp và cao cả
biết bao!
- Đoạn đầu của bài thơ, tác giả giới thiệu cảnh gia đình, quê
hương thật đầm ấm, yên vui mà từ đó người con được khôn lớn
trưởng thành. Trong mạch nguồn tâm sự, người cha còn cho con
hiểu thêm về truyền thống đáng tự hào của người đồng mình, của
quê hương, của bản làng:
* Ba câu đầu: ý chí,
nghị lực của người
đồng mình
Ý nghĩa của hình
ảnh “cao” và “xa”
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
- “Người đồng mình” là cách nói mộc mạc, mang tính địa phương
của người Tày.
+ Đó là những người vùng mình, ngư ời miền quê mình.
+ Hay rộng hơn là những người sống cùng trên một đất nước, một
dân tộc.
- Ba tiếng “Người đồng mình” điệp đi điệp lại bốn lần trong bài
thơ vừa làm cho âm điệu, nhạc thơ ngân vang, dào dạt, vừa làm
cho người đọc vấn vương bâng khuâng nhớ về tuổi thơ, nhớ về
giọng nói dịu hiền của mẹ, nhớ về đất mẹ linh thiêng.
- Nhà thơ đã đưa vào thi phẩm cách đo đếm của người dân quê
mình khiến cho lời thơ mang đậm phong vị dân tộc, giản dị mà
sâu sắc:
“Cao đo nỗi buồn – Xa nuôi chí lớn ”
+ “Cao” và “xa” là những khoảng cách của đất trời. Con người
muốn thử sức mình thường phải vượt qua những khoảng cách ấy.
Đó là những trở ngại, những thách thức, khó khăn trong cuộc đời
mà con người nếm trải, nó luôn luôn ngăn bước con người.
+ Tác giả lấy khoảng cách cụ thể (cao,xa) để đo những đại lượng
vô hình (nỗi buồn,chí lớn) để khẳng định và ngợi ca đức tính cao
đẹp của “ngư ời đồng mình”: họ sống thật sâu sắc và có ý chí
mạnh mẽ; người đồng mình có một trái tim ấm áp và nghị lực phi
Nhận xét đánh giá
thư ờng.
=> Hai câu thơ đăng đối như một câu tục ngữ ngắn gọn, đúc kết
một thái độ, một cách ứng xử cao quí: người biết sống là người
biết vượt qua nỗi buồn, biết vượt qua những gian nan, thử thách,
bão giông…Không chỉ có vậy mà còn phải luôn luôn nuôi chí
lớn. Nỗi buồn sẽ làm con ngư ời ta biết sống chịu đưng; ý chí làm
con người ta luôn luôn nỗ lực phấn đấu đi lên. Con ngư ời không
thể quyết định được hoàn cảnh của mình nhưng cần có nghị lực
để vượt lên hoàn cảnh đó.
=> Người biết sống như thế chắc chắn sẽ thành công trên con
đường đời, chắc chắn gặt hái được nhiều hoa thơm, quả ngọt…
=> Những câu thơ của Y Phương như gợi nhắc ta nhớ đến những
câu tục ngữ của cha ông:
+ Có công mài sắt có ngày nên kim
+ Có chí thì nên.
Hay những câu thơ của Hồ Chí Minh:
Nghĩ mình trong bước gian truân
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng
(Tự khuyên mình)
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công
(Nghe tiếng giã gạo)
* Năm câu tiếp: vấn
đề lẽ sống
Ý nghĩa phép tu từ
so sánh
- Rồi ngư ời cha muốn hướng người con đến vấn đề sâu xa hơn –
vấn đề lẽ sống:
Sống trên đá không chê đá gập gềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
- Những hình ảnh “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói” là những
hình ảnh ẩn dụ chỉ những gian lao, vất vả mà người đồng mình đã
phải gồng mình gánh chịu. Mặc dù “người đồng mình” chịu
thư ơng chịu khó, cần cù sáng tạo trong lao động nhưng cuộc đời
vẫn chưa đủ đầy. Phải chẳng do đất bạc màu, sỏi đá khô cằn? Phải
chăng do thiên tai rình rập?
- Cho dù cuộc sống như vậy song người đồng mình vẫn không
chê bai, không một lời than thở. Họ quả là những con người biết
chịu đựng và suốt đời gắn bó thủy chung với nơi chôn nhau cắt
rốn. Họ vượt lên hoàn cảnh, sống mạnh mẽ và tràn đầy sinh lực.
Dường như cuộc sống càng khó khăn thì con người càng vươn lên
không ngừng đấu tranh vượt qua nó.
=> Cụm từ “Không chê” được lặp lại hai lần nhằm khẳng định ý
chí mạnh mẽ của con người.
- Đặc biệt, câu thơ “Sống như sông như suối” có biện pháp tu từ
so sánh càng làm ngời sáng đức tính cao đẹp của người miền núi.
Đời ngư ời giống như dòng chảy của một con sông. Có đoạn ào ào
Nhận xét đánh giá
Đối chiếu so sánh
thác đổ; có đoạn sục sôi lũ rừng; có đoạn êm ả của đồng bằng và
cuối cùng là cái mênh mông vĩnh hằng của biển cả. Đó là cái qui
luật muôn đời của tự nhiên. Con người hãy như con sống hãy biết
chấp nhận tất cả các thác ghềnh đó. Có điều khi băng qua con
thác cái ghềnh, con người phải biết rút ra những bài học quí báu.
Nếu biết sống như thế thì dù có “Lên thác xuống ghềnh” cũng
“Không lo cực nhọc”. Người đồng mình đã có một niềm tin vào
ngày mai tươi sáng. Cực nhọc, đói nghèo dần sẽ được xua tan.
Những đêm đen dần được tan biến… Đó là trọn vẹn một niềm tin
chân thật và hết sức mãnh liệt. Niềm tin ấy mang tính thực tiễn và
thấm nhuần tinh thần nhân văn trong lẽ sống của người lao động
mới.
=> Như vậy núi cao, vực sâu, sông dài, thác hiểm…không chỉ là
thư ớc đo vật lí mà là thước đo của lòng dũng cảm, sự kiên trì của
người đồng mình.
Đó là điều cần thiết cho mỗi ngư ời khi bư ớc chân vào đường đời
lắm chông gai.
=> Nếu nhà thơ Tố Hữu đã viết về lẽ sống “cho” và “nhận” ở đời:
“Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Hay nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn qua ca từ đã đề cập đến lẽ sống yêu thương “Sống trong đời
sống, cần có một tấm lòng” thì nhà thơ dân tộc Tày – Y Phương
qua cách nói mộc mạc mà sâu sắc ý tình đã đem đến bài học: sống
phải có ý chí, niềm tin. Lời thơ tuôn chảy như dòng sữa ngọt lịm,
tràn vào cái bể khô của những kiếp nghèo ngư ời đồng mình, của
người miền núi.
=> Phải có một tình yêu chân tình, thấm thía sâu sắc những ngọt
bùi, đắng cay của người đồng mình, Y Phương mới có thể nói với
con như vậy!
* Bốn câu tiếp: Vẻ
đẹp mộc mạc nhưng
không hề nhỏ bé
Ý nghĩa của cụm từ
“thô sơ da thịt”
- Người cha không chỉ đưa ra một lẽ sống mà còn chứng minh ý
chí, nghị lực đã trở thành truyền thống của “người đồng mình”:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
- Nếu người Kinh dùng lối nói: “Ăn chắc mặc bền”, “Chém to
kho mặn”, “Chân đất lưng trần” để ca ngợi bản chất mộc mạc,
giản dị, chân thật… của những người dân quê sớm khuya vất vả
thì Y Phư ơng dùng cách nói cụ thể của bà con dân tộc Tày “thô
sơ da thịt” để khẳng định phẩm chất này của “người đồng mình”.
Họ hiền lành như hạt lúa, củ khoai nhưng “Chẳng mấy ai nhỏ bé”.
Trong xã hội xưa, cũng như bao ngư ời dân quê khác, ngư ời đồng
mình bị coi thư ờng, khinh rẻ như con kiến, cọng rơm…thì bây
giờ họ lại không tầm thư ờng trước thiên hạ bởi họ có trái tim
nhân hậu, giàu tình yêu thương, bởi họ luôn có ý chí vư ợt lê n gian
khó, tự mình xây dựng quê hương đẹp giàu. Và tâm hồn của họ
sáng trong, lãng mạn lạc quan trong cuộc sống. Sự đơn giản bề
Ý nghĩa của cụm từ
“tự đục đá kê cao
quê hương”
Quê hương nuôi
dưỡng tâm hồn mỗi
người
Mối quan hệ giữa cá
nhân và cộng đồng
* Bốn câu kết: Con
lên đường
Ý thơ lặp lại trong
bốn câu thơ trước
Hàng trang vào đời
của con
Ý nghĩa của hai
tiếng “Nghe con”
Nhận xét, đánh giá
ngoài như càng làm tăng thêm sức mạnh niềm tin, ý chí bên trong
của mỗi con người.
- Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hư ơng” vừa
mang tính tả thực (chỉ truyền thống làm nhà kê đá cho cao của
người miền núi), vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Người đồng
mình đã tự tay xây dựng nên truyền thống quê hương đẹp giàu
sánh tầm với các miền quê khác trên mảnh đất hình chữ S thân
yêu. Câu thơ ngầm chứa niềm tự hào kiêu hãnh bởi họ vẫn giữ
được bản sắc văn hóa dân tộc.
- Và để đáp lại sự cống hiến của mỗi người, cuộc sống cộng đồng
sẽ đem lại cho mỗi cá nhân bầu không khí nhân văn, phong tục.
=> Hai câu cuối thể hiện mối quan hệ đúng đắn giữa cá nhân với
cộng đồng. Mỗi người, mỗi cuộc đời là một “mùa xuân nho nhỏ”
tạo nên mùa xuân cộng đồng và chính cộng đồng sẽ là cái nôi
nâng đỡ cho mùa xuân tâm hồn mỗi người.
- Khép lại đoạn thơ bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ trìu
mến với biết bao niềm tin hi vọng của người cha đặt vào đứa con
yêu:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
- Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” và “không bao giờ nhỏ bé” được lặp
lại với bốn câu thơ trước đó càng trở nên da diết, khắc sâu trong
lòng con về những phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”.
Nhưng hai tiếng“Lên đường” cho thấy người con đã lớn khôn và
tạm biệt gia đình – quê hương để bư ớc vào một trang đời mới.
- Trong hành trang của người con mang theo khi “lên đường”có
một thứ quí giá hơn mọi thứ trên đời, đó là ý chí, nghị lực, truyền
thống quê hương. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm
thía, ẩn chứa niềm hivọng lớn lao của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp
tục vững bước trên đư ờng đời,tiếp nối truyền thống và làm vẻ
vang q uê hương.
- Hai tiếng “Nghe con” lắng đọng bao cảm xúc, ẩn chứa tình yêu
thư ơng vô bờ bến của cha dành cho con. Câu thơ còn gợi ra một
cảnh tượng cảm động đang diễn ra lúc chia li: cha hiền từ âu yếm
nhìn con, xoa đầu con và người con ngoan ngoãn cúi đầu lắng
nghe lời cha dặn.
=> Ca ngợi những đức tính tốt đẹp của ngư ời đồng mình, cha
mong con sống có tình nghĩa với quê hư ơng, phải giữ đạo lí
“Uống nước nhớ nguồn” của cha ông từ bao đời để lại. Hơn nữa,
con phải biết chấp nhận gian khó và vươn lên bằng ý chí của
mình.
=> Người cha muốn con hiểu và cảm thông với cuộc sống khó
khăn c ủa quê hư ơng, tự hào về truyền thống quê hư ơng, tự hào về
dân tộc để vững bư ớc trên con đường đời, để tự tin trong cuộc
sống.
=> Người cha trong bài thơ của Y Phư ơng đã vun đắp cho con
một hành trang quí vào đời. Nếu mẹ là bông hoa cho con cài lên
ngực thì cha là cánh chim cho con bay thật xa. Nếu mẹ cho con
những lời ngọt ngào yêu thương vỗ về thì cha cho con tinh thần ý
chí nghị lực, ước mơ khát vọng, lối sống cao đẹp.
3.Kết bài :
- Nghệ thuật: giọng
thơ, hình ảnh thơ
- Nội dung:
- Giọng thơ thiết tha, trìu mến nhưng lại trang nghiêm. Các hình
ảnh thơ cụ thể mà có tính khái quát, mộc mạc mà vẫn giàu chất
thơ.
- Đoạn thơ chứa chan ý nghĩa,mộc mạc, đằm thắm mà sâu sắc. Nó
tựa như một khúc ca nhẹ nhàng mà âm vang. Lời thơ tâm tình của
người cha sẽ là hành trang đi theo con suốt cuộc đời và có lẽ mãi
mãi là bài học bổ ích cho các bạn trẻ - bài học về niềm tin,nghị
lực,ý chí vươn lên.
Đề bài: Cảm nhận về vẻ đẹp của người đồng mình qua bài thơ “Nói với con”(Y
Phương).
Theo cô Hoàng Thị Vĩnh – GV trường THCS Đằng Hải – Hải Phòng.
I. M ở bài:
- Là nhà thơ dân tộc Tày, thơ Y Phương thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong
sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.
- Ra đời năm 1980, “Nói với con” là một trong những bài thơ hay nhất của ông.
- Mượn lời tâm sự với con, Y Phư ơng đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu
sắc về những đức tính tốt đẹp của “người đồng mình” – của con người quê hương miền
núi.
II. Thân bài:
1. Khái quát ( Dẫn dắt vào bài):
- Tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Y Phư ơng, bài thơ “Nói với con” gợi về cội
nguồn sinh dưỡng của mỗi người – gia đình và quê hương – đó là nôi êm tổ ấm nuôi
dưỡng, bồi đắp tâm hồn con – đó là cội nguồn của hạnh phúc. Để rồi từ trong những ngọt
ngào của kỉ niệm quê hương, người cha nói với con những đức tính tốt đẹp của người
đồng mình.
2. Phân tích, cảm nhận những vẻ đẹp ( đức tính tốt đẹp ) c ủa người đồng mình:
a. Người đồng mình đáng yêu bởi s ự giản dị và t ài hoa:
- Trên quê hương thơ mộng nghĩa tình, người đồng mình hiện lên trong cuộc sống lao
động cần cù mà tươi vui:
"Người đồng mình yêu lắm, con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát".
+ Giọng thơ vang lên đầy thiết tha và tự hào. “Người đồng mình” là người bản mình,
người quê mình – Y Phương có cách gọi rất độc đáo, rất gần gũi và thân thương về những
con người quê hương.
+ Với hình thức câu cảm thán, người đọc cảm nhận lời tâm tình đư ợc cất lên tự đáy lòng
thư ơng mến của ngư ời cha về người đồng mình.
+ Họ đáng yêu bởi họ là những con người yêu lao động. Với đôi bàn tay tài hoa, khéo
léo, họ đã “đan”, “cài”, “ken”… cuộc sống như nở hoa dưới đôi bàn tay cần cù, sáng tạo
của họ…
=> Chỉ với những câu thơ ngắn gọn, nhà thơ giúp ta hình dung được hình ảnh đáng yêu
của người đồng mình giữa núi rừng thơ mộng, hiền hòa. Vẻ đẹp của họ được gợi ra từ
cuộc sống lao động bình dị, từ bàn tay tài hoa và khối óc sáng tạo. Họ có niềm vui giản
dị, tinh tế ngay trong cuộc sống mộc mạc đời thường.
b. Người đồng mình biết lo toan và giàu mơ ước.
- Người đồng mình không chỉ là những con ngư ời giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao
động mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước:
"Người đồng mình thương lắm con ơi!
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chi lớn".
+ Với cách nói “Người đồng mình thương lắm con ơi!” người cha biểu lộ tình cảm yêu
thư ơng chân thành về gian truân, thử thách cùng ý chí mà người đồng mình đã trải qua.
+ Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y Phương đã lấy cái cao vời vợi của trời
để đo nỗi buồn, lấy cái xa của đất để đo ý chí con người.
+ Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơ cho thấy khó khăn, thử thách
càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ.
=> Có thể nói, cuộc sống của ngư ời đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề
thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào
tương lai tốt đẹp của dân tộc.
c. Người đồng mình dù s ống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với
quê hương, cội nguồn:
“Sống trên đá không chê đá gập gềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”.
+ Phép liệt kê với những hỉnh ảnh ẩn dụ “đá gập gềnh”,“thung nghèo đói” -> gợi cuộc
sống đói nghèo, khó khăn, cực nhọc.
+ Vận dụng thành ngữ dân gian “Lên thác xuống ghềnh”, ý thơ gợi bao nỗi vất vả, lam lũ.
-> Những câu thơ dài ngắn, cùng những thanh trắc tạo ấn tượng về cuộc sống trắc trở,
gian nan, đói nghèo của quê hương.
+ Điệp ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc câu cùng hình ảnh đối xứng đã nhấn
mạnh: người đồng mình có thể nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất nhưng họ không thiếu ý
chí và quyết tâm. hocvanlop9 Ngư ời đồng mình chấp nhận và thủy chung gắn bó cùng
quê hương, dẫu quê hương có đói nghèo, vất vả. Và phải chăng, chính cuộc sống nhọc
nhằn, đầy vất vả khổ đau ấy đã tôi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu quê hương sẽ tạo nên
sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả.
+ Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng
mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình
ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sông
trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người.
d. Người đồng mình có ý thức tự lập, tự cường và tinh thần tự tôn dân tộc:
- Phẩm chất của người của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách
nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất
đúng với người miền núi:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
+ Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình.
+ Cụm từ “thô sơ da thịt” là cách nói cụ thể về những con người mộc mạc, giản dị.
+ Cụm từ “chẳng nhỏ bé” khẳng định sự lớn lao của ý chí, của nghị lực, cốt cách và niềm
tin.
-> Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng giàu
chí khí, niềm tin. Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí.
- Cùng với ý thức tự lực, tự cường, người đồng mình còn ngời sáng tinh thần tự tôn dân
tộc và khát vọng xây dựng quê hương:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”.
+ Lối nói đậm ngôn ngữ dân tộc – độc đáo mà vẫn chứa đựng ý vị sâu xa.
+ Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực ( chỉ
truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi),vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc.
Người đồng mình đã tự tay xây dựng nên truyền thống quê hương đẹp giàu, sánh tầm với
các miền quê khác trên mảnh đất hình chữ S thân yêu.
+ Câu thơ ngầm chứa niềm tự hào kiêu hãnh bởi họ vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân
tộc.
3. Nhận xét, đánh giá:
Với thể thơ tự do, giọng điệu khỏe khoắn vừa tâm tình tha thiết vừa chứa chan hi vọng
cùng những hình ảnh, từ ngữ mộc mạc, cụ thể -> nhà thơ nói với con về những vẻ đẹp
của người đồng mình để rồi từ đó truyền cho con lòng tự hào về quê hương,dân tộc, nhắn
nhủ con biết sống đẹp, biết vượt qua gian khó bằng niềm tin, ý chí như người đồng mình.
III. Kết bài:
Qua lời thủ thỉ, tâm tình của người cha đối với con, hình ảnh của quê hương, của người
đồng mình hiện lên thật chân thực, cụ thể với bao phẩm chất tốt đẹp. Đó là mạch suối
ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn và ý chí cho con. Đọc bài thơ, hiểu về vẻ đẹp của những
con người quê hương, ta yêu hơn, trân trọng hơn những con người làm giàu đẹp quê
hương, đất nước.
* Tư liệu tham khảo:
LỜI TÂM SỰ CỦA NHÀ THƠ Y PHƯ ƠNG VỀ BÀI “NÓI VỚI CON”
1. Bài thơ NÓI VỚI CON viết những năm 80 của thế kỷ trước. Ngày đó cả
nước vừa ra khỏi cuộc kháng chiến chống Mỹ lâu dài và gian khổ. Đời sống của
con người trên mọi miền còn muôn vàn khó khăn. Đây là lúc cái tốt đẹp và cái xấu
xa cùng xuất hiện rõ ràng nhất. Trong khó khăn mới biết lòng người. Tôi muốn
nhắn nhủ lòng mình thông qua hình tượng trò chuyện với con. Hãy tin vào truyền
thống văn hóa tốt đẹp mà rèn đạo đức sống cho mình.
2. Bài thơ NÓI VỚI CON là tôi trò chuyện với cô con gái bé bỏng vừa mới
được một tuổi. Con tôi sau này vào thẳng Đại học thông qua kỳ thi học sinh giỏi
toàn quốc. Bây giờ cháu đã có gia đình và được 2 cô con gái nhỏ. Hiện cháu là
phóng viên, đang công tác tại Công ty Lối sống Việt - 65 Nguyễn Du - Hà Nội.
3. Sự độc đáo ở tác phẩm này là tôi đã tư duy hình tượng, diễn đ ạt bằng
ngôn ngữ Việt nhưng dựa vào các triết lý truyền thống văn hóa dân tộc Tày.
4. Các tác phẩm của tôi đều được viết bằng ti ếng Việt. Đơn giản vì đó là
tiếng phổ thông. Nếu viết tiếng Tày chỉ người Tày đọc được. Tôi muốn tác phẩm
của mình đến với mọi người trên khắp đ ất nước mình.
5. “Người đồng mình” là cách nói của người Tày. Nghiã là người cùng một
dân tộc, cùng một địa phương, cùng một lãnh thổ máu đỏ da vàng. Nói chung là
cùng một nguồn gốc văn hóa.
6. “Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát ” là nói đến các giá trị thẩm
mỹ. Tất c ả mọi sáng tạo đều phải tuân theo quy luật của cái đẹp. Bất cứ dân tộc
nào trên trái đất này đều nương theo quy luật đó. Đấy là lý tưởng thẩm mỹ mang ý
nghĩa toàn cầu.
7. Câu thơ “Con đường cho những t ấm lòng”: Con đường là biểu tượng của
tình yêu. Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo người Việt cũng nói thế. Hầu như dân
tộc nào cũng nói thế. Con người sống mà không có tình yêu thì chỉ là tồn tại dưới
dạng vật chất. Người sống cần có tính người và tình người. Con người phải tìm
đến nhau. Muốn đến với nhau phải đi trên đường. Dù có đi bằng máy bay thì cũng
phải đi từ nhà ra sân bay.
8. “Người đồng mình thô sơ da thịt/ Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con” ý nói
nội dung và hình thức. Người Việt nói “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Đừng nhìn vào
bên ngoài mà đánh giá bên trong. Kẻo bị mắc lừa. Nhỏ bé là một phạm trù mỹ học.
Nhó bé ngược với cao lớn. Xấu xa ngược với tốt đẹp. Cao cả ngược với thấp
hèn đó là những cặp phạm trù. Người miền núi tuy nhỏ con xấu xí nhưng chứa
đựng tâm hồn cao đẹp. Luôn giúp đỡ người khác. Không bao giờ làm điều
ác Không được nhỏ bé nghĩa là phải sống sao cho cao đẹp. Đó là lối sống c ủa
người Tày.
9. “Người đồng mình tự đục đá ” nghĩa là nêu cao tinh thần tự lực. Không
dựa vào bất cứ hoàn cành nào từ bên ngoài. Xã hội Tày Nùng không theo bất cứ
tôn giáo nào từ bên ngoài đến. Đó là một thực tế. Đạo Phật, đạo Ki tô , Tin
Lành không có đất sống trong xã hội Tày Nùng. Người Tày chỉ tôn thờ cha mẹ
ông bà tổ tiên.
10. Mạch cảm xúc đi từ gan ruột của chính mình. Tâm sự với đứa con cũng
là tâm sự với chính mình. Con là do mình sinh ra nhân đôi. Có cha mẹ có con là có
gia đình. Có gia đình là có xã hội. Xã hội nhỏ vươn ra xã hội lớn. Muốn xã hội
hiểu được mình chỉ có văn hóa. Văn hóa là nói đến sự khác biệt. Bài thơ này được
xây dựng từ những cảm xúc khác biệt.
CHÚC CÁC EM ÔN TẬP TỐT!