Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) và bài học kinh nghiệm trong quan điểm lấy dân làm gốc trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.36 KB, 20 trang )

Đề tài 8: Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) và bài học kinh nghiệm trong
quan điểm "lấy dân làm gốc" trong mọi giai đoạn phát triển của đất nươc.


MỞ ĐẦU
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, khai mạc vào tháng
12 năm 1986, đánh dấu một bươc ngoặt quan trọng trong con đường phát
triển của Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế và xã hội đang gặp nhiều
thách thức, quốc gia cần một sự đổi mơi tồn diện để thích ứng vơi biến
động của thế giơi. Tại đại hội này, Đảng đã đưa ra quan điểm "lấy dân
làm gốc" như một hương dẫn chiến lược, thể hiện sự nhạy bén và hiểu
biết sâu sắc về vai trò quyết định của nhân dân trong mọi giai đoạn của
phát triển quốc gia. Bài luận này sẽ tìm hiểu về Đại hội Đảng lần thứ VI
và rút ra những bài học kinh nghiệm quan trọng từ quan điểm "lấy dân
làm gốc," đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành và phát triển đất
nươc.
Đại hội Đảng lần thứ VI khơng chỉ là nơi thể hiện sự đồng lịng và
đồn kết của Đảng, mà còn là đỉnh cao của sự chín chắn trong tư duy lãnh
đạo. Quan điểm "lấy dân làm gốc" được khẳng định là tâm điểm của
chiến lược phát triển, đặt nhân dân vào trung tâm mọi quyết định và hành
động của đất nươc. Sự lựa chọn này khơng chỉ thể hiện lịng tin vào sức
mạnh của cộng đồng, mà còn là cam kết thực hiện một xã hội công bằng,
dân chủ và phồn thịnh. Việc chấp nhận quan điểm này đã giúp nươc ta
vượt qua những khó khăn, thách thức, và tạo nên sự phồn thịnh bền vững
trong các giai đoạn phát triển tiếp theo.


NỘI DUNG
I. Cơ sơ ly ln
1. Hồn canh và nơi dung cua Đai hơi Đang VI (12/1986)
1.1. Hồn canh


Đại hội VI của Đảng diễn ra giữa bối cảnh có nhiều chuyển biến
trong tình hình thế giơi và trong nươc.
Trên thế giơi, các nươc đế quốc, đứng đầu là Mỹ đang tập trung tìm cách
chống phá hệ thống xã hội chủ nghĩa và nhà nươc xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Mặt khác, trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, cả Liên Xô và Trung
Quốc đang lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, và họ đang bươc
vào cải cách, cải tổ vơi các hình thức và mức độ khác nhau, có nươc
thành cơng, có nươc thất bại. Bối cảnh đó cho Đảng ta những bài học để
định hương được con đường đổi mơi đúng đắn nhất cho nươc nhà.
Còn ở nươc ta, trong hơn một thập kỷ thực hiện hai kế hoạch Nhà nươc 5
năm (1976 - 1985), cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nươc ta đạt được
những thành tựu và ưu điểm đáng kể trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Song cách mạng cũng gặp khơng ít khó khăn, đất nươc lâm vào tình
trạng khủng hoảng, trươc hết là khủng hoảng kinh tế - xã hội. Một trong
những nguyên nhân cơ bản của khó khăn, yếu kém là do mắc phải “sai
lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lơn, sai lầm về chỉ
đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”. Để khắc phục sai lầm, khuyết điểm,
đưa đất nươc vượt qua khủng hoảng và đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ
nghĩa tiến lên, Đảng và Nhà nươc ta phải tiến hành đổi mơi.
Như vậy, đổi mơi là vấn đề cấp bách, có ý nghĩa sống cịn đối vơi chủ
nghĩa xã hội ở nươc ta, đồng thời là vấn đề phù hợp vơi xu thế chung của
thời đại.


1.2. Nôi dung cua Đai hôi Đang VI (12/1986)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp từ ngày 15
đến ngày 18/12/1986 tại Hà Nội. Đến dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay
mặt cho gần 2 triệu đảng viên cả nươc và có 32 đồn đại biểu quốc tế.
Đại hội đã thông qua các văn kiện chính trị quan trọng, khởi xương
đường lối tồn diện, bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 124 ủy viên

chính thức, bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức; bầu đồng chí
Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư của Đảng. Nhìn chung, Đại hội khẳng
định tiếp tục đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối
xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa do các Đại hội IV và V của Đảng đề ra.
Tuy nhiên, đến Đại hội VI, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
thời kỳ quá độ tiếp tục được cụ thể hóa trên cơ sở nâng cao nhận thức về
đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “cả một thời
kỳ lịch sử lâu dài, khó khăn, trải qua nhiều chặng và hiện đang ở chặng
đường đầu tiên”. Cụ thể, đường lối đổi mơi toàn diện do Đại hội VI đề ra
được thể hiện trên các lĩnh vực nổi bật sau:
Về tư tưởng: đường lối Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng
sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá thành tựu, nghiêm túc kiểm điểm, chỉ rõ
những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1975 - 1986. Đó là
những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lơn, sai
lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Khuynh hương tư tưởng
chủ yếu của những sai lầm, khuyết điểm đó, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh
tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng
vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan. Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa tả
khuynh vừa hữu khuynh. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân bắt nguồn
từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán
bộ của Đảng.


Đại hội cũng đã rút ra được bốn bài học q báu: Một là, trong tồn bộ
hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc vơi
sức mạnh thời đại trong điều kiện mơi. Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng
ngang tầm vơi một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa.

Về kinh tế: Đại hội khẳng định việc thực hiện nhất quán chính sách phát
triển nhiều thành phần kinh tế; đổi mơi cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế kế
hoạch hóa, tập trung, quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang cơ chế
hạch toán, kinh doanh, kết hợp vơi thị trường, phát triển nhiều thành phần
kinh tế. Nhiệm vụ bao trùm trong những năm còn lại của chặng đường
đầu tiên là sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy, bươc đầu tạo ra một cơ
cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng Ba chương trình kinh tế
lơn là lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó
là sự cụ thể hóa nội dung cơng nghiệp hóa trong chặng đường đầu của
thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, muốn thực hiện những mục tiêu của Ba
chương trình kinh tế thế thì nơng nghiệp, kể cả lâm nghiệp và ngư nghiệp,
phải được đặt đúng vị trí là mặt trận hàng đầu và được ưu tiên nhu cầu về
vốn đầu tư, về năng lực, vật lực, lao động, kỹ thuật,... Bên cạnh đó, Đại
hội cũng tuyên bố thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa thường xun vơi
hình thức, bươc đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp và lực
lượng sản xuất phát triển; đổi mơi cơ chế quản lý kinh tế, giải quyết cho
được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông; xây dựng và tổ
chức thực hiện một cách thiết thực, có hiệu quả các chính sách xã hội.
Đảm bảo nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh. Năm phương hương
lơn phát triển kinh tế là: bố trí lại cơ cấu sản xuất; điều chỉnh cơ cấu đầu
tư xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; sử dụng và cải


tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; đổi mơi cơ chế quản lý kinh tế, phát
huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả
kinh tế đối ngoại. Đại hội VI nhấn mạnh: “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch
và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có,
khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nươc và sử dụng có hiệu quả sự
giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi vơi xây
dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”.

Về xã hội: Đại hội khẳng định chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của
cuộc sống con người, cần có chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được
những nhiệm vụ, phù hợp vơi yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu
tiên. Bốn nhóm chính sách xã hội là: kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc
làm cho người lao động; thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an tồn xã
hội, khơi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực xã hội; chăm lo đáp
ứng các nhu cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe của
nhân dân; xây dựng chính sách bảo trợ xã hội.
Về quốc phịng, an ninh: Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc
phòng và an ninh của đất nươc, quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá
hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo
vệ Tổ quốc.
Về đối ngoại: Đối ngoại góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giơi vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác tồn diện vơi Liên Xơ và các
nươc xã hội chủ nghĩa; bình thường hóa quan hệ vơi Trung Quốc vì lợi
ích của nhân dân hai nươc, vì hịa bình ở Đơng Nam Á và trên thế giơi.
Kết hợp sức mạnh của dân tộc vơi sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ
vững hịa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế giơi, tăng cường


quan hệ đặc biệt giữa ba nươc Đông Dương, quan hệ hữu nghị và hợp tác
tồn diện vơi Liên Xơ và các nươc trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, đổi mơi sự lãnh đạo của Đảng cần phải đổi mơi tư duy, trươc
hết là tư duy kinh tế, đổi mơi công tác tư tưởng; đổi mơi công tác cán bộ
và phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt
Đảng; tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng. Đảng cần phát huy quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”; tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nươc là điều
kiện tất yếu để huy động lực lượng của quần chúng.

2. Những nôi dung thê hiên sư thay đôi trong chu trương cua Đang so
vơi giai đoan trươc
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, diễn ra vào tháng 12 năm
1986, là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu bươc ngoặt lơn trong
lịch sử phát triển của Việt Nam. Trong khuôn khổ này, Đảng đã tiến hành
một cuộc tái cấu trúc tồn diện về cả chính trị, kinh tế, và xã hội, phản
ánh sự nhận thức rõ ràng về những thách thức và cơ hội mơi trong bối
cảnh thế giơi đang thay đổi.
Chính Sách Kinh Tế: Một trong những điểm đặc biệt lơn nhất của Đại hội
lần này là quyết định chấm dứt chính sách kinh tế trươc đó, tập trung vào
mơ hình đổi mơi và đổi mơi sâu rộng. Việc này được thể hiện rõ trong
Quyết định số 10, mở đường cho chuyển từ nền kinh tế trọng điều chỉnh
vào một nền kinh tế thị trường có tự chủ và tích cực hơn trong quản lý.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ ràng rằng để đạt được mục tiêu
phát triển, cần phải giảm sự can thiệp của nhà nươc trong nền kinh tế và
tạo điều kiện thuận lợi cho sự đổi mơi, sáng tạo và tích hợp quốc tế. Các


biện pháp như tăng cường đầu tư nươc ngoài và mở cửa cửa hàng quốc tế
đã thể hiện sự sáng tạo và sự mở cửa mơi trong chuẩn trương kinh tế.
Chính Sách Xã Hội: Trong lĩnh vực xã hội, Đại hội đã thay đổi nhiều
chính sách để cải thiện đời sống của nhân dân. Điều này bao gồm cải
thiện chất lượng giáo dục và y tế, vơi việc tăng cường đầu tư vào hạ tầng
và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển công bằng và bền vững. Các biện
pháp như chính sách giảm nghèo và phát triển cộng đồng cũng được chú
trọng, thể hiện tầm quan trọng của việc tăng cường sự cộng đồng trong
quá trình phát triển quốc gia.
Chính Sách Ngoại Giao và Quốc Tế: Trong bối cảnh thế giơi biến động,
Đảng đã nhận ra tầm quan trọng của quan hệ quốc tế. Việc mở rộng quan
hệ đối tác quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và đầu tư, đã thể hiện

sự chủ động và tích cực trong việc hội nhập quốc tế. Điều này đã mang
lại lợi ích lơn cho Việt Nam, đưa đất nươc này trở thành một đối tác đáng
kể trên sân khấu quốc tế.
Chính Sách Đối Nội: Trong nươc, Đảng đã chú trọng đến việc củng cố và
phát triển mối quan hệ vơi các tầng lơp nhân dân, đặc biệt là nơng dân và
cơng nhân. Chính sách hỗ trợ cho các đối tượng này đã được đổi mơi để
đảm bảo sự cơng bằng và bền vững trong q trình phát triển.
Các Mục Tiêu Phát Triển và Chiến Lược Dài Hạn: Cuối cùng, Đại hội đã
đề ra những mục tiêu phát triển và chiến lược dài hạn quan trọng, đặt nền
móng cho sự phát triển bền vững của Việt Nam trong thời gian tơi. Các
mục tiêu này không chỉ tập trung vào kinh tế mà cịn liên quan đến chính
trị, xã hội và quốc phịng, thể hiện quan điểm tồn diện về phát triển quốc
gia.


Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã đánh dấu một giai đoạn
mơi, vơi sự chuyển đổi lơn từ mơ hình kinh tế đóng cửa và tự chủ q
mức sang một mơ hình kinh tế mở và tích cực hơn trong hội nhập quốc tế.
Các biện pháp chính trị và xã hội đồng bộ, tạo ra cơ sở vững chắc cho sự
phát triển bền vững và đồng đều của Việt Nam trong thời kỳ đầy thách
thức này.
II. Vân dụng
1. Quan điêm “lây dân làm gôc”
Từ bao đời nay, “Lấy dân làm gốc” là quan điểm trị quốc chủ đạo của cha
ông ta. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng, Nhà nươc ta tiếp tục củng cố,
phát huy và nâng lên tầm mơi.
“Lấy dân làm gốc” là kim chỉ nam xuyên suốt trong lịch sử dựng nươc và
giữ nươc. Hiểu dân, vì dân và tập hợp, đồn kết được toàn dân sẽ tạo nên
nguồn sức mạnh to lơn. Danh nhân Nguyễn Trãi đã đúc kết: “Việc nhân
nghĩa cốt ở an dân. Quân điếu phạt trươc lo trừ bạo”. Khi nhà vua hỏi

tương quân Trần Hưng Đạo về kế sách giữ nươc, ông đã khuyên: “Khoan
thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc là thượng sách giữ nươc”.
Thấy được sức mạnh của Nhân dân nên từ khi giành được độc lập
(năm1945), bên cạnh bảo vệ chính quyền non trẻ thì chăm lo cuộc sống
người dân được Đảng, Bác Hồ đặt lên hàng đầu. Các phong trào “Hũ gạo
cứu đói”, "bình dân học vụ”, “chia ruộng cho người cày” đã được phát
động, đặt người dân làm chủ đất nươc, quan tâm chăm lo về vật chất, tinh
thần.


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta khơng có lợi ích
nào khác ngồi lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp, của dân tộc; bao nhiêu
lợi ích đều vì dân”. Đến Đại hội Đảng lần thứ VI đã tổng kết và đề ra
phương châm “Lấy dân làm gốc” làm tư tưởng chiến lược trong đường
lối cách mạng Việt Nam. Đại hội Đảng lần thứ XIII năm 2021 xác định,
bổ sung thêm quyền “dân giám sát, dân thụ hưởng” vào phương châm
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra...” được đề ra từ nhiệm kỳ khóa
7. Cũng lần đầu tiên Đảng ta đưa chiến lược “thế trận lòng dân” đặt lên
trươc thế trận quốc phòng, an ninh trong văn kiện đại hội. Trong bài viết
mơi đây về “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng tiếp tục khẳng định: “Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nươc và Nhân
dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích;
mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà
nươc đều vì lợi ích của Nhân dân, lấy hạnh phúc của Nhân dân làm mục
tiêu phấn đấu”. Đó cũng là mơ hình chính trị tổng qt, xác định quan
điểm “lấy dân làm gốc” của Đảng, Nhà nươc ta.
Nhìn lại lịch sử từ ngày thành lập đến nay, dù phải trải qua những khó
khăn, thăng trầm của đất nươc nhưng Đảng ta đã tập hợp, quy tụ được
mọi tầng lơp Nhân dân làm nên những trang sử hào hùng.

Trong 2 năm đại dịch COVID-19 xảy ra nghiêm trọng, chưa có tiền lệ
nhưng Đảng, Chính phủ đã chỉ đạo đối phó kịp thời vơi dịch bệnh. Chủ
trương “chấp nhận thiệt hại kinh tế để bảo vệ sức khỏe người dân”,
“khơng để ai bị bỏ lại phía sau” nên chủ trương “ngoại giao vắc-xin”
được đặt ra, chủ động có đủ nguồn vắc-xin tiêm miễn phí cho tồn dân.
Chính phủ phát động và được tồn dân hưởng ứng đóng góp hàng ngàn tỷ
đồng phòng, chống dịch, những “cây ATM gạo”, “ATM oxy”,“siêu thị 0


đồng”, hỗ trợ cho người dân bị cách ly... là mối quan hệ tương hỗ tích cực
giữa Chính phủ và người dân.
Những chủ trương, chính sách thích ứng kịp thời của Đảng, Chính phủ đã
làm cho kinh tế đất nươc tiếp tục đạt tốc độ dương, Nhân dân phấn khởi,
tin tưởng. Tuy nhiên, cần nhìn thẳng vào sự thật để đánh giá đúng những
tồn tại. Có một bộ phận cán bộ được Nhân dân che chở, đùm bọc trong
chiến tranh nhưng đã nhanh quên quá khứ, quên ơn người dân che chở,
ni dưỡng trong gian khó. Nơi này nơi khác đã có một bộ phận quan
liêu, xa dân, chưa thật sự tôn trọng, bảo vệ quyền lợi của dân.
Để tiếp tục sự nghiệp của Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta đã lựa chọn thì
“xây dựng thế trận lịng dân”, củng cố niềm tin vơi Đảng, Nhà nươc
mang ý nghĩa quyết định sống còn. Đòi hỏi người đảng viên, cán bộ lãnh
đạo phải nói và làm thực tâm theo ý chí, nguyện vọng chính đáng của
người dân.
Cần đề cao vai trò của Nhân dân được xác định trong Cương lĩnh xây
dựng đất nươc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Đại hội Đảng lần
thứ VII: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân”. Quyết liệt trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao đạo đức cách
mạng người cán bộ, đảng viên. Tăng cường kỷ cương, xử lý nghiêm minh,
khơng có ngoại lệ, khơng có vùng cấm trong cuộc đấu tranh chống tham
nhũng, tiêu cực, những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”,“tự chuyển

hóa”. Đảng viên, cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo cần nêu cao vai trị tiền
phong, gương mẫu, có lối sống trong sáng, “cần kiệm, liêm chính, chí
cơng, vơ tư”, trở thành người công bộc, là chỗ dựa, niềm tin yêu của
Nhân dân. Cần chống cho được biểu hiện độc đốn, chun quyền, quan
liêu, thờ ơ, vơ cảm trươc những khó khăn, bức xúc của người dân.


Chúng ta cần thấm nhuần bài học “Nươc lấy dân làm gốc”; khơi dậy
mạnh mẽ tinh thần yêu nươc, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đồn
kết dân tộc, khát vọng xây dựng đất nươc phồn vinh, hạnh phúc, phát huy
giá trị văn hóa của con người Việt Nam. Người dân không chỉ được làm
chủ thật sự mà còn được “giám sát” và “thụ hưởng” những thành quả của
chế độ xã hội mang lại, khích lệ tinh thần tích cực của Nhân dân, phát
huy vai trị, vị trí người dân trong mọi quan hệ xã hội. Như đồng chí Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng chỉ dặn: “Cái gì quần chúng Nhân dân
hoan nghênh, ủng hộ thì phải quyết tâm làm và làm cho bằng được;
ngược lại cái gì Nhân dân khơng đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối
thì chúng ta cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiệm các sai
phạm”. Đó chính là ý nghĩa lý sâu xa của “Lấy dân làm gốc” mà Đảng ta
đã đề ra và tiếp tục hương tơi.
2. Vai tro cua nhân dân đôi vơi sư phat triên cua đât nươc qua mọi
thơi kỳ
Nươc lấy dân làm gốc là một chân lý đúng ở mọi nơi và mọi thời đại. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói “Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần
dân liệu cũng xong”. Từ Hiến pháp đầu tiên của nươc ta năm 1946 cho
đến Hiến pháp năm 1992 đều khẳng định và đề cao vai trị của người dân
thơng qua việc cụ thể hoá các quyền con người, ghi nhận và phát triển các
quyền cũng như cơ chế thực hiện các quyền của người dân. Các bản Hiến
pháp cũng đều khẳng định nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nươc thuộc về
nhân dân và xác định bản chất Nhà nươc ta là Nhà nươc của dân, do dân

và vì dân. Trong cơng cuộc xây dựng nhà nươc pháp quyền, vai trò của
người dân là yếu tố khơng thể thiếu, có ý nghĩa quyết định. Chính vì vậy,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trở thành tư tưởng chỉ đạo mọi lĩnh
vực hoạt động của Đảng và Nhà nươc ta, từ hoạch định chủ trương, xây


dựng pháp luật, đề ra chính sách đến xây dựng bộ máy, tổ chức-cán bộ
cho tơi việc cải tiến phương thức lãnh đạo, phong cách làm việc của các
cơ quan Đảng và chính quyền ở các cấp, các ngành. Đồng thời, mỗi cơng
dân cũng ý thức được vai trị và trách nhiệm lơn lao của mình, để thực
hiện quyền lực nhân dân thông qua các cơ quan đại diện cho mình.
Vai trị của người dân trong việc xây dựng pháp luật. Thời gian qua, trong
quá trình xây dựng pháp luật, các cơ quan soạn thảo văn bản đã thường
xuyên gặp gỡ, đối thoại trực tiếp vơi người dân và công bố dự thảo để lấy
ý kiến đóng góp của người dân. Các hoạt động khác của Nhà nươc cũng
đã và đang tạo ra cơ chế hữu hiệu để lắng nghe ý kiến của người dân, tiếp
thu có chọn lọc để hình thành nội dung văn bản pháp luật, nhất là những
văn bản quan trọng liên quan đến quốc kế dân sinh, đến quyền và nghĩa
vụ của đông đảo tầng lơp nhân dân. Vì vậy, nội dung các văn bản pháp
luật ngày càng gần vơi tâm tư, nguyện vọng của người dân, được nhân
dân đồng tình ủng hộ và tạo tính tự giác, tích cực của người dân trong
việc thực hiện. Điều đó góp phần nâng cao hiệu lực của pháp luật và góp
phần khơng nhỏ vào sự nghiệp đổi mơi toàn diện ở nươc ta. Tuy nhiên, ở
nhiều địa phương, hiện tượng thiếu dân chủ, không tôn trọng ý kiến và lợi
ích của người dân vẫn cịn khá phổ biến. Việc cơng khai hố hoạt động
của các cơ quan chính quyền chưa thực sự được tôn trọng. Ngay cả vơi
những việc pháp luật bắt buộc phải cơng khai hố như: quy hoạch đô thị,
biểu giá đền bù khi thu hồi đất, đối tượng được vay các nguồn vốn ưu
đãi…thì ở nhiều địa phươngvẫn cịn thiếu cơng khai, minh bạch, tạo cơ
hội cho một số cá nhân vụ lợi, xâm hại đến quyền lợi của nhân dân, vi

phạm pháp luật. Ngoài ra, việc trưng cầu ý kiến người dân vẫn còn diễn
ra một cách hình thức. Một đạo luật, một Bộ luật khi công bố để lấy ý
kiến người dân lại chỉ quy định tiến hành trong một thời hạn rất ngắn. Để
người dân có thể thực sự tham gia vào công tác xây dựng pháp luật, Đại
hội Đảng cộng sản Việt nam lần thứ IX đã xác định “đổi mơi phải dựa


vào nhân dân” và cần phải tiến hành xây dựng Luật trưng cầu ý dân. Đây
được coi là bươc đột phá trong quan điểm của Đảng về phát huy dân chủ,
khắc phục mọi biểu hiện dân chủ hình thức và tăng cường hoạt động giám
sát của nhân dân.
Vai trò của người dân trong việc giám sát hoạt động của nhà nươc. Trong
quá trình xây dựng nhà nươc pháp quyền, sự tham gia giám sát trực tiếp
của người dân đối vơi mọi lĩnh vực hoạt động của nhà nươc là một yêu
cầu tất yếu. Nhận thức được vấn đề này, trong các Văn kiện của Đại hội
Đảng ta những năm qua đã nhấn mạnh vai trò và nhiệm vụ của người dân
trong việc tăng cường giám sát, coi đây là những hoạt động có ý nghĩa
thiết thực trong việc mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, nhằm xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong
thời gian qua, thông qua sự giám sát của người dân, việc ngăn chặn tệ nạn
tham nhũng, lãng phí, làm ăn gian dối…đã có nhiều thành cơng, thể hiện
rõ nhất là trong việc giám sát xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng,
đặc biệt là các cơng trình đưa về để cộng đồng dân cư thực hiện. Tinh
thần đấu tranh chống tiêu cực của người dân ngày càng cao, hiện có tơi
90% số vụ tham nhũng, tiêu cực do nhân dân phát hiện và báo chí nêu lên,
để các cơ quan có thẩm quyền điều tra, xử lý. Tuy nhiên, hiện nay vai trò
của người dân trong việc giám sát vẫn chưa được phát huy đầy đủ. Có hai
lý do gây nên tình trạng này:

thứ nhất, về mặt khách quan, nhà nươc


chưa ban hành đầy đủ các quy định cụ thể đối vơi mỗi lĩnh vực cần kiểm
tra, giám sát và thứ hai, việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật còn
chưa thực sự hiệu quả nên người dân chưa nắm rõ được vai trò, quyền
hạn và trách nhiệm của mình trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nươc. Thực tế chỉ ra rằng, quyền giám sát của người dân
đã được ghi nhận trong Hiến pháp từ những năm 80 của thế kỷ 20, song
đa số người dân chưa coi giám sát là một quyền của mình nên hầu như
khơng sử dụng đến quyền này. Do đó, quyền giám sát của nhân dân mơi


chỉ là một sự ghi nhận mang tính nguyên tắc. Hiện nay, người dân mơi
chỉ thực hiện quyền giám sát của mình đối vơi hoạt động của bộ máy nhà
nươc chủ yếu thơng qua các hình thức như: kiến nghị vơi cơ quan nhà
nươc qua các phương tiện thông tin đại chúng và Mặt trận tổ quốc Việt
Nam, thực hiện quyền khiếu nại tố cáo, giám sát hoạt động của đại biểu
dân cử thông qua hoạt động tiếp xúc cử tri, giám sát thông qua tổ chức
thanh tra nhân dân ở cơ sở. Những hình thức giám sát này đã bộc lộ nhiều
bất cập, hạn chế bởi ngoài các quy định của Luật Khiếu nại tố cáo, Pháp
lệnh phòng, chống tham nhũng, ta còn thiếu nhiều văn bản pháp lý quy
định về thẩm quyền, thủ tục, trình tự thực hiện quyền giám sát của người
dân. Đặc biệt chưa có một văn bản luật riêng quy định về hình thức giám
sát, phương pháp giám sát, hiệu quả pháp lý của hoạt động giám sát của
nhân dân nên nhiều vấn đề, nhiều sự việc nhân dân biết, đoàn thể xã hội
biết, nhưng không biết triển khai thực hiện quyền giám sát của nhân dân
trên thực tế như thế nào. Trong khi đó, từ năm 1998, trong Nghị quyết về
chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của mình, Quốc hội đã đề ra kế
hoạch xây dựng Pháp lệnh về tổ chức giám sát của nhân dân. Đến nay đã
bảy năm trôi qua, kế hoạch này vẫn chưa được triển khai trên thực tế,
khiến cho hoạt động giám sát của nhân dân chưa được chú trọng và chưa

có hiệu quả, hiệu lực.
Vai trị của người dân trong việc xã hội hoá các hoạt động của nhà nươc.
Thời gian qua, chủ trương xã hội hoá trong một số lĩnh vực (nh ư xây
dựng cơ bản, y tế, giáo dục, thể thao…), tuy còn gặp một số vương mắc
về tổ chức thực hiện, song về cơ bản đã gặt hái được nhiều kết quả khả
quan. Các mơ hình huy động vốn và cơng sức của người dân trong việc
xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn (hàng nghìn kilơmét đường nơng thơn,
đường ngõ được làm mơi, được nâng cấp, sửa chữa, kéo lươi điện quốc
gia về các hộ; xây mơi và mở mang bệnh viện, trường học…), các
chương trình xóa đói giảm nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa, xã hội hố


giáo dục, thể thao…đã thực sự lôi cuốn người dân. Thực tế cho thấy
những chương trình kinh tế-xã hội nếu được người dân tham gia, ủng hộ
đóng góp cơng sức, tiền bạc thì được thực hiện nhanh hơn, tốt hơn và nhờ
công tác tự quản của nhân dân nên chống được tiêu cực. Do khả năng tài
chính của nhà nươc còn hạn hẹp nên xu hương “nhà nươc và nhân dân
cùng làm” ngày càng phát triển. Các cuộc vận động có sự tham gia của
người dân như: “đền ơn đáp nghĩa”, “xố đói giảm nghèo”, “chống tệ nạn
xã hội trong khu dân cư”, “gia đình văn hố, khu phố văn hoá”… đang
phát triển rất tốt. Việc xã hội hoá các hoạt động kinh tế – xã hội, mở rộng
sự tham gia của người dân đã thực sự tạo được những nguồn lực hết sức
mơi mẻ. Tất cả phong trào trên thực chất là huy động sự tham gia của
quần chúng, cho thấy một tiềm lực không nhỏ trong dân và khả năng huy
động tiềm lực nếu biết cách đáp ứng đúng nhu cầu chính đáng của người
dân. Ngồi ra, cũng nhờ sự tham gia các phong trào trên, người dân cũng
có thể sẽ tự mình thay đổi cách ứng xử.
Vai trò của người dân trong sự nghiệp phát triển kinh tế. Quyền được tự
do kinh doanh và quyền sở hữu của công dân đã được ghi nhận trong
Hiến pháp 1992 (điều 57 và 58) - đây là hai điều quy định hoàn toàn mơi,

thể hiện sự đổi mơi từng bươc trong tư duy về quyền cơng dân. Bên cạnh
đó, cịn có rất nhiều văn bản pháp quy, các chương trình hành động nhằm
khuyến khích, tạo mơi trường thuận lợi cho mọi người dân tham gia phát
triển kinh tế, tôn vinh vai trò của người dân trong sự nghiệp thúc đẩy nền
kinh tế-xã hội của đất nươc. Chính vì vậy, thời gian qua, vơi sự hỗ trợ từ
phía Nhà nươc và vơi sự năng động, sáng tạo của người dân trong hoạt
động kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân ở nươc ta đã từng bươc phát triển
mạnh mẽ. Biểu hiện rõ nhất là số lượng doanh nghiệp đăng ký hoạt động
và số vốn đăng ký kinh doanh đã tăng lên gấp nhiều lần so vơi giai đoạn
trươc. Tỷ trọng kinh tế tư nhân trong GDP chiếm khoảng 45,6% (năm
2004). Để đề cao vai trò của người dân (các doanh nhân) trong phát triển


kinh tế - xã hội, bắt đầu từ năm 2004, Nhà nươc ta đã lấy ngày13/10 hàng
năm là ngày Doanh nhân. Sự kiện này đã góp phần tạo động lực và niềm
tin to lơn cho các cá nhân (doanh nhân) phát huy tiềm năng, tự khẳng
định vị trí của mình trươc xã hội và đồng thời, ghi nhận sự đánh giá rất
cao từ phía nhà nươc về tầm quan trọng cũng như ảnh hưởng của người
dân tơi sự nghiệp phát triển đất nươc. Như vậy, cùng vơi sự đổi mơi từng
bươc trong tư duy, trong hệ thống chính trị, việc tăng cường dân chủ hoá
đời sống xã hội, nhất là việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo tiền
đề để các tầng lơp nhân dân tham gia ngày càng đơng đảo và tồn diện
vào các hoạt động chính trị của đất nươc, góp phần xố bỏ dần những
ngăn cách và làm cho các thành viên trong xã hội cởi mở, xích lại gần
nhau hơn. Bên cạnh đó, cùng vơi chất lượng cuộc sống được nâng lên và
trình độ trí tuệ của con người càng phát triển thì xu hương tự khẳng định
vai trị của mình càng mạnh mẽ hơn. Vai trò của người dân trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội đang trở thành một động lực to lơn, một sức
mạnh quyết định sự thành công của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nươc.

3. Môt sô giai phap nhằm phat huy vai tro cua nhân dân
Một trong những biện pháp quan trọng nhất để phát huy vai trò của nhân
dân là đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục và đào tạo. Chính phủ có thể thiết
lập các chính sách hỗ trợ tài chính và tạo điều kiện thuận lợi để mọi cơng
dân có thể tiếp cận giáo dục chất lượng. Đặc biệt, chương trình giáo dục
cần phản ánh tinh thần "lấy dân làm gốc," tập trung vào việc phát triển kỹ
năng, kiến thức và lòng yêu nươc từ nhân dân.
Tăng cường sự tham gia của nhân dân trong quá trình ra quyết sách và
quản lý chính trị là quan trọng. Chính phủ có thể tạo ra các cơ chế và cơ
hội để nhân dân có thể tham gia vào các quyết định chính trị cấp địa


phương và quốc gia. Việc này không chỉ tăng cường tính dân chủ mà cịn
làm cho nhân dân cảm thấy họ có vai trị quan trọng trong việc định hình
tương lai của đất nươc.
Tạo điều kiện để nhân dân có thể thể hiện sự sáng tạo và khởi nghiệp là
một cách hiệu quả để kích thích sự phát triển. Chính phủ có thể hỗ trợ
thơng qua việc cung cấp tài trợ, nguồn lực kỹ thuật, và giáo dục về quản
lý kinh doanh. Sự sáng tạo và khởi nghiệp từ cộng đồng có thể làm nổi
bật những giá trị đặc sắc và giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Cộng đồng đoàn kết là nền tảng cho sức mạnh của nhân dân. Chính phủ
có thể thúc đẩy sự đồn kết thơng qua việc hỗ trợ các hoạt động cộng
đồng, tăng cường liên kết giữa các tầng lơp xã hội, và khuyến khích tinh
thần trách nhiệm và chăm sóc xã hội.
Một giao tiếp minh bạch và hiệu quả giữa chính phủ và nhân dân là chìa
khóa. Chính phủ cần cung cấp thơng tin rõ ràng về chính sách, chiến lược
phát triển, và những cơ hội mà nhân dân có thể tham gia. Việc này khơng
chỉ tạo ra sự tin tưởng mà cịn làm cho nhân dân hiểu rõ hơn về hương
phát triển của đất nươc.
Chính phủ cần đảm bảo rằng nhân dân được bảo vệ đầy đủ quyền lợi lao

động của họ. Việc thiết lập và thực thi chính sách an sinh xã hội, bảo vệ
quyền lao động, và đảm bảo mức lương cơng bằng sẽ giúp tăng cường
động lực và lịng cam kết của nhân dân đối vơi sự phát triển của đất nươc.
Những giải pháp này, khi được thực hiện đồng thời và có kế hoạch, có thể
tạo ra một mơi trường phát triển tích cực và bền vững, phát huy tối đa vai
trò của nhân dân trong mọi giai đoạn phát triển của đất nươc.


KẾT LUẬN
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986 đánh dấu
một bươc ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của Đảng và đất nươc.
Qua quan điểm "lấy dân làm gốc," Đảng không chỉ chấp nhận mà cịn đặt
lợi ích của nhân dân lên hàng đầu, thể hiện sự nhạy bén và sáng tạo trong
quá trình xây dựng và đổi mơi. Bài học kinh nghiệm từ Đại hội lần này
không chỉ là nguồn động viên mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế-xã hội,
mà còn là tín hiệu về sự quan tâm chặt chẽ đến đời sống của người dân.
Trải qua mọi giai đoạn phát triển của đất nươc, quan điểm "lấy dân làm
gốc" không chỉ là một nguyên tắc lý thuyết mà còn là triển khai thực tế, là
chìa khóa mở cửa cho sự phồn thịnh và bền vững. Nó giúp tạo ra một mơi
trường chính trị ổn định, gắn kết lực lượng nhân dân và Đảng, từ đó mạnh
mẽ hóa nguồn lực xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng đất nươc. Bằng
cách này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khơng chỉ duy trì uy tín và sự lãnh
đạo mạnh mẽ mà cịn xây dựng được lòng tin vững chắc từ nhân dân, làm
nền tảng cho sự phồn thịnh của Việt Nam trong thời kỳ đương đại.


DANH MỤC THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng Việt Nam.
2. GS.TS. Trần Quốc Vượng; Lịch sử cách mạng Việt Nam.
3. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Tập 4 (1945 – 1946), NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội, 2011, tr. 3.
4. Trần Thị Thu Hương, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW, bài viết
“Vai trị của nhân dân trong cơng cuộc xây dựng nhà nươc hiện nay”.
5. Trần Văn Thọ, "Đổi mơi và phát triển kinh tế Việt Nam: 30 năm qua",
2016.
6. Võ Trí Thành, Nền kinh tế Việt Nam: Những thách thức và cơ hội",
2018.



×