Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) và nguy cơ “chệch hướng xã hội chủ nghĩa” – từ lý luận đến hiện thực.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.02 KB, 16 trang )

Đề 10. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) và nguy cơ
“chệch hướng xã hội chủ nghĩa” – từ lý luận đến hiện thực.


LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển và xây dựng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đối
mặt với nhiều thách thức và thay đổi đáng kể trong tư tưởng và chiến lược.
Trong bối cảnh đó, Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, diễn
ra vào năm 1994, đã được xem là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát
triển của Đảng. Tuy nhiên, nó cũng đặt ra những câu hỏi và lo ngại về nguy cơ
"chệch hướng xã hội chủ nghĩa", làm đe dọa tầm quan trọng của lý luận và lý
tưởng xã hội chủ nghĩa mà Đảng đã nỗ lực hướng tới.
Tiểu luận này sẽ tập trung nghiên cứu sâu hơn về Hội nghị đại biểu tồn
quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, từ các lý luận đến thực tế, qua đó làm rõ ràng về
sự hiểu biết và thực hiện của Đảng trong việc đối phó với nguy cơ "chệch
hướng xã hội chủ nghĩa". Qua việc phân tích và đánh giá kỹ càng, chúng ta có
thể hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của Hội nghị, đồng thời cảnh báo và tìm ra
những hướng đi phù hợp để bảo vệ và phát triển lý tưởng cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam.


NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Bối cảnh lịch sử và chính trị của Việt Nam vào năm 1994
1.1. Tình hình kinh tế và xã hội
Năm 1994, Việt Nam đã trải qua một số biến đổi quan trọng trong bối cảnh lịch
sử và chính trị, đặc biệt là về tình hình kinh tế và xã hội.
Tình hình kinh tế:
Đổi mới kinh tế: Việt Nam đã bắt đầu quá trình đổi mới kinh tế vào cuối
thập kỷ 1980 và năm 1994 là giai đoạn quan trọng của q trình này. Chính
phủ Việt Nam đã áp dụng các biện pháp cải cách và mở cửa cửa đất nước. Cải


cách kinh tế bao gồm loại bỏ các rào cản trong thương mại, tăng cường quyền
sở hữu tư nhân và nâng cao hiệu suất sản xuất. Đổi mới kinh tế đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài.
Tăng trưởng kinh tế: Nhờ các biện pháp đổi mới, nền kinh tế Việt Nam
đã đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng. Các ngành công nghiệp như cơng
nghiệp dầu khí, chế biến và sản xuất điện tử, và dịch vụ đã phát triển nhanh
chóng. Tăng trưởng GDP trong giai đoạn này đạt mức khoảng 8-9% mỗi năm,
đẩy mạnh sự giàu có và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.
Xuất khẩu và đầu tư nước ngoài: Việt Nam đã tập trung vào việc mở
rộng thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Các ngành sản xuất và
xuất khẩu như may mặc, giày da, và thủy sản đã trở thành điểm sáng trong kinh
tế quốc gia. Việt Nam đã ký kết nhiều thỏa thuận thương mại quốc tế, bao gồm
tham gia vào Hiệp định ASEAN và các cuộc đàm phán thương mại với nhiều
quốc gia khác.
Tình hình xã hội:
Cải cách giáo dục và y tế: Chính phủ đã tập trung vào cải cách giáo dục
và y tế để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Cải cách giáo dục bao
gồm nâng cao sự tiếp cận giáo dục cơ bản và phát triển hệ thống giáo dục cao
cấp. Hệ thống y tế cũng được cải thiện để đảm bảo người dân có quyền tiếp cận
dịch vụ y tế cơ bản.


Xã hội và văn hóa: Việt Nam đã duy trì và bảo tồn các giá trị văn hóa
truyền thống, trong khi cũng mở cửa cho ảnh hưởng văn hóa quốc tế. Xã hội
đang trải qua sự biến đổi và hội nhập với thế giới bên ngoài, đặc biệt là qua các
phương tiện truyền thông và internet.
Vào năm 1994, Việt Nam đã chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế và cải thiện
trong các lĩnh vực như giáo dục và y tế nhờ vào quá trình đổi mới kinh tế và
mở cửa cửa đất nước. Đây là giai đoạn quan trọng trong lịch sử và chính trị của
Việt Nam, khi đất nước này đang trong quá trình thay đổi và phát triển.

1.2. Thách thức và cơ hội đối diện với Đảng Cộng sản Việt Nam
Về thách thức:
Khó khăn trong quản lý kinh tế: Việt Nam đối mặt với thách thức quản
lý kinh tế trong quá trình đổi mới. Quản lý kinh tế thị trường địi hỏi kiến thức
chun mơn và khả năng đánh giá thị trường. Điều này đòi hỏi Đảng Cộng sản
phải thích nghi và học hỏi để hiệu quả quản lý kinh tế.
Tăng cường quyền sở hữu tư nhân: Quá trình đổi mới kinh tế u cầu
mở rộng vai trị của tư nhân và doanh nghiệp cá nhân. Điều này đã đặt ra thách
thức về cách Đảng Cộng sản duy trì sự kiểm sốt và điều hành kinh tế trong bối
cảnh ngày càng phát triển của sektor tư nhân.
Thất nghiệp và bất bình đẳng: Tăng trưởng kinh tế khơng điều đều và đã
gây ra sự gia tăng về bất bình đẳng và thất nghiệp. Đảng Cộng sản cần đối mặt
với áp lực giải quyết vấn đề này để duy trì sự ủng hộ của người dân và đảm bảo
ổn định xã hội.
Tham nhũng: Tham nhũng đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng và phổ
biến trong chính phủ và các cơ quan nhà nước. Điều này gây ra sự mất lịng tin
từ phía người dân và đe dọa sự trong sạch và đạo đức của Đảng Cộng sản.
Về cơ hội:
Tăng trưởng kinh tế và phát triển: Thách thức kinh tế cũng mang theo cơ
hội phát triển. Tăng trưởng kinh tế nhanh chóng có thể giúp cải thiện chất


lượng cuộc sống của người dân và tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư vào
các lĩnh vực quan trọng như hạ tầng, giáo dục và y tế.
Hội nhập quốc tế: Việt Nam tham gia vào các thỏa thuận thương mại
quốc tế và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Điều này mở ra cơ hội cho việc
tăng cường thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển các ngành công
nghiệp và dịch vụ mới.
Cải cách xã hội và giáo dục: Cải cách xã hội và giáo dục giúp nâng cao
chất lượng cuộc sống và nâng cao trình độ dân trí của người dân. Đây cũng có

thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và thăng tiến xã hội.
Mở rộng quan hệ đối ngoại: Đảng Cộng sản Việt Nam có thể tận dụng
cơ hội để mở rộng quan hệ đối ngoại với các quốc gia khác, xây dựng mối quan
hệ hợp tác và tìm kiếm cơ hội hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực.
Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1994 đối mặt với nhiều thách thức và cơ hội
trong quá trình đổi mới kinh tế và xã hội. Việc đảm bảo sự ổn định và phát
triển bền vững của đất nước đòi hỏi Đảng phải đối mặt với những thách thức
này một cách có hiệu quả và tận dụng những cơ hội có sẵn.
2. Tầm quan trọng của Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
2.1. Mục tiêu và nhiệm vụ của Hội nghị
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII là một sự kiện quan trọng
trong hệ thống chính trị của một quốc gia. Trong trường hợp của Việt Nam,
Hội nghị đại biểu toàn quốc này thường được tổ chức sau mỗi khoảng thời gian
cố định, để đánh giá tình hình quốc gia, thảo luận về các vấn đề quan trọng, và
đặt ra các hướng dẫn chính trị cho tương lai. Dưới đây là một số mục tiêu và
nhiệm vụ chính của Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII:
Về mục tiêu chính:
Đánh giá tình hình quốc gia: Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa VII thường mục tiêu đánh giá mức độ thực hiện các mục tiêu, chính sách
và quyết định đã được đưa ra tại Hội nghị đại biểu tồn quốc trước đó. Điều


này giúp xác định thành công và khuyết điểm của các chính sách và định
hướng đã được đề ra.
Xây dựng kế hoạch phát triển quốc gia: Hội nghị đại biểu tồn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII cũng thường đặt ra nhiệm vụ xây dựng và thông qua
kế hoạch phát triển quốc gia trong tương lai, với những mục tiêu cụ thể về kinh
tế, xã hội, văn hóa, và các lĩnh vực khác.
Bầu chọn và quyết định chính trị: Hội nghị này cũng thường đánh giá và
chọn ra những quan chức chính trị quan trọng, như chủ tịch nước, thủ tướng, và

các vị trí quan trọng khác. Nó cũng thơng qua các quyết định chính trị quan
trọng và định hướng chính trị của quốc gia.
Về nhiệm vụ cụ thể:
Thảo luận và đưa ra quyết định về các vấn đề quốc gia quan trọng: Hội
nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII thường tập trung thảo luận và
đưa ra quyết định về các vấn đề quan trọng như chính sách kinh tế, chính sách
xã hội, quốc phịng và an ninh, giáo dục, y tế, môi trường, và nhiều lĩnh vực
khác.
Phê duyệt và thông qua luật, nghị quyết, và các văn kiện pháp luật quan
trọng: Hội nghị cũng có nhiệm vụ phê duyệt và thông qua các luật, nghị quyết,
và các văn kiện pháp luật quan trọng để điều hành quốc gia và xây dựng xã hội
pháp quy.
Bầu cử và xác nhận các vị trí chính trị quan trọng: Hội nghị đại biểu
tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII cũng có nhiệm vụ bầu cử và xác nhận các vị
trí chính trị quan trọng, như chủ tịch nước, thủ tướng, và các thành viên của
Chính phủ và các cơ quan quốc hội khác.
2.2. Lý tưởng và mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới
Lý tưởng và mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới thường
phụ thuộc vào nền văn hóa, lịch sử, và cơ cấu xã hội của mỗi quốc gia. Tuy
nhiên, có một số mục tiêu và lý tưởng chung mà xã hội chủ nghĩa có thể hướng
đến trong bối cảnh mới:


Công bằng xã hội: Mục tiêu quan trọng của xã hội chủ nghĩa là đảm bảo
mọi người đều được đối xử cơng bằng và có cơ hội truy cập vào các tài nguyên
và dịch vụ cơ bản như giáo dục, y tế, lao động và chỗ ở. Điều này giúp giảm
bớt khoảng cách xã hội và tạo ra một xã hội bình đẳng hơn.
Chăm sóc xã hội và bảo vệ quyền con người: Xã hội chủ nghĩa thường
hướng đến việc bảo vệ và nâng cao quyền con người. Điều này bao gồm việc
đảm bảo quyền tự do, quyền công dân, quyền lao động, và quyền tự do ngôn

luận, cũng như việc đối phó với bất cơng xã hội và bảo vệ các tầng lớp yếu thế.
Phát triển kinh tế và xã hội bền vững: Mục tiêu xây dựng xã hội chủ
nghĩa thường bao gồm phát triển kinh tế và xã hội bền vững, tức là đảm bảo sự
phát triển không gây hại cho môi trường và không để lại nợ cho thế hệ sau. Nó
cũng bao gồm việc đảm bảo tiến bộ trong lĩnh vực giáo dục, y tế, và văn hóa.
Hợp tác quốc tế và hịa bình: Xã hội chủ nghĩa thường tơn trọng ngun
tắc hịa bình và sẵn sàng hợp tác với các quốc gia khác để giải quyết các vấn đề
tồn cầu như biến đổi khí hậu, chất độc hóa học, và giải quyết xung đột quốc tế.
Tự quản lý xã hội: Lý tưởng xã hội chủ nghĩa thường tôn trọng quyền tự
quản lý của cộng đồng và người dân. Nó hướng đến việc đảm bảo rằng quyết
định quan trọng về cuộc sống xã hội và kinh tế được thực hiện dựa trên ý kiến
của cộng đồng và người dân, thay vì bị quyết định từ trên cao.
Sự đoàn kết và tương thân tương ái: Xã hội chủ nghĩa thường khuyến
khích sự đồn kết và tương thân tương ái trong xã hội. Điều này có thể thể hiện
qua sự hỗ trợ và chia sẻ trong cộng đồng, cũng như thơng qua chính sách xã hội
như bảo hiểm xã hội và chăm sóc sức khỏe cơng cộng.
3. Lý luận về nguy cơ "chệch hướng xã hội chủ nghĩa"
Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa là khả năng hiện thực bởi các
nhân tố hỗn hợp đã và đang tồn tại trong xã hội ta hiện nay cần được nhận diện
đúng và có các giải pháp phịng ngừa hiệu quả. Chệch hướng, lệch hướng hay
sai đường đều nói đến sự vật, hiện tượng có khuynh hướng khơng đúng tâm,
đúng đích. Chệch hướng xã hội chủ nghĩa là “lệch” mục tiêu, mục đích của xã


hội tương lai. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn
xã hội tư bản chủ nghĩa và đó là một quá trình phát triển, hồn thiện lâu dài.
Theo nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhân dân Việt Nam thì xã hội
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có đặc trưng chủ yếu là “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Và như vậy, khi xa rời mục tiêu đã đề cập hay có
những dấu hiệu của một xã hội cạnh tranh bất bình đẳng, “cá lớn nuốt cá bé”,

phá hủy mơi trường sống, quyền lực chính trị thuộc về số ít... cho thấy sự “lệch
pha” xã hội xã hội chủ nghĩa.
Với tư duy khoa học và cách “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, nói rõ sự thật” được xác lập tại Đại hội VI, Hội nghị đại biểu tồn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng đã nêu rõ 4 nguy cơ: “nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất
phát thấp, nhịp độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên
trong môi trường cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa
nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ
đạo thực hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn biến
hịa bình” của các thế lực thù địch” và lưu ý: “Các nguy cơ đó có liên quan mật
thiết với nhau, tác động lẫn nhau”. Trong những năm qua, các nguy cơ ấy
khơng những chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà cịn có những mặt gia tăng,
trong đó đáng lo ngại nhất là “nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa”. Với
nhiều người tâm huyết và gắn bó với chế độ chính trị hiện hành, sự quan ngại
càng sâu sắc hơn bởi nguy cơ này đôi khi diễn tiến “âm thầm”,“êm dịu”. Sự
“thầm lặng” của nó do các nhân tố bên ngồi và bên trong rất hiện hữu và có
tính “chính đáng”.
II. Vận dụng
1. Nguy cơ "chệch hướng xã hội chủ nghĩa" trong thực tiễn
Sau Hội nghị Đại biểu tồn quốc khóa VII năm 1994, Việt Nam đã trải qua
nhiều thay đổi đáng kể trong kinh tế, xã hội và chính trị. Mặc dù quá trình đổi
mới đã đem lại nhiều thành công, nhưng cũng tồn tại nguy cơ "chệch hướng xã
hội chủ nghĩa."


Về các nhân tố bên ngồi. Trước hết, có thể nhận thức rõ tính khách
quan khơng thể cưỡng lại được của xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế buộc các chủ thể phải ứng xử theo những
nguyên tắc chung nhất định. Tất cả lực hút - đẩy của các yếu tố về kinh tế,

chính trị và tín ngưỡng, văn hóa và xã hội đều ảnh hưởng, đan xen, thẩm thấu
lẫn nhau. Chỉ nói riêng yếu tố kinh tế, sinh thời, Lênin từng cảnh báo: “sản xuất
hàng hóa từng ngày, từng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản”. Tính chất hội nhập, hóa
nhập làm cho mức độ “hịa tan” của xã hội xã hội chủ nghĩa là rất có thể.
Thứ đến, sự chi phối, tác động làm ngăn chặn, hủy hoại hay thay đổi
mục tiêu luônlà ý đồ xuyên suốt của các thế lực thù địch. Lịch sử đã chỉ ra rằng,
ngay từ khi cịnlà “bóng ma” (Mác đề cập trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản),
một “liên minh thần thánh” đã hình thành để trừ khử xã hội xã hội chủ nghĩa.
Từ đó đến nay và mãi sau này, âm mưu ấy sẽ khơng bao giờ từ bỏ. Với nhiều
hình thức, thủ đoạn tinh vi hơn,các thế lực đều rắp tâm triệt phá các nước xã
hội xã hội chủ nghĩa. Đây là cuộc đấu tranh một mất một còn. Lơ là, mất cảnh
giác hay ngộ nhận là tự hủy diệt đối với xã hội xã hội chủ nghĩa.
Về các nhân tố bên trong. Một là, chủ thể lãnh đạo, quản lý có thể có
những dự báo, tính tốn sai lầm. Rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan của
tình hình quốc tế và trong nước, chủ thể ra các quyết sách có thể phạm phải
những sai lầm. Sai lầm ở các quyết sách cụ thể làm rối loạn xã hội và giảm uy
tín của cơ quan lãnh đạo. Sai lầm trên phương diện đường lối chính trị sẽ đưa
“con tàu” chệch “đường ray” không thể cứu vãn được. Liên Xô và một số quốc
gia xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũ đã cho thấy rõ về tínhnguy hại của kiểu sai
lầm này. Hai là, các “nhóm lợi ích” có thể làm lệch, thậm chí khuynh đảo xu
hướng phát triển. Các bài học từ các nước xã hội xã hội chủ nghĩa và ngay ở
nước ta trong thời gian gần đây cho thấy sức mạnh của các thế lực “ngầm”,
“sân sau”. Những con sâu mọt có khả năng đục khoét, hủy hoại mọi thành quả
sự nghiệp cách mạng mà Đảng và Nhân dân gây dựng. Những kẻ ấy làm gì cịn
lý tưởng xã hội chủ nghĩa và hếtlòng, hết sức phục vụ Nhân dân. Những nhân
tố làm “chệch hướng xã hội chủ nghĩa” được đề cập trên đây chứa đựng cả tính
khách quan và chủ quan. Một lần nữa, nó địi hỏi Đảng phải có lời giải thỏa


đáng và kịp thời. Đảng Cộng sản Việt Nam được Nhân dân giao trọng trách “là

lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, “chịu trách nhiệm trước Nhândân về
những quyết định của mình”. Thật ra, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng dự báo
và đưa ra các giải pháp để khắc phục các khuynh hướng lệch lạc. Và “cẩm
nang” để đảm bảo Đảng Cộng sản Việt Nam tránh được nguy cơ chệch hướng
chính ngay những điều đã được nêu: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc vàchủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định
các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích Quốc gia - dân tộc
trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác,
cùng có lợi để xây dựng vàbảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống cịn đối với chế độ
ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng,
dao động”. Trước mắt và quan trọng nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như
toàn bộ hệ thống chính trị phải xử lý căn bản tệnạn tham nhũng, tiêu cực; kiện
tồn hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; củng cố và tăng cường niềm tin
của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Và, với bản chất cách mạng chân
chính, có bề dày lịch sử chiến đấu ngoan cường, đượcNhân dân tin yêu, Đảng
sẽ có sức mạnh to lớn, lãnh đạo dân tộc viết tiếp những kỳ tích mới trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhận thức đúng vấn đề là tiền đề cho hành
động đúng. Hầu như ai cũng tán thànhcâu nói: Biết địch, biết ta trăm trận bất
bại. Thấu hiểu đầy đủ hồn cảnh bên ngồi và nội tình, có kế sách đúng đắn và
quyết tâm cao, toàn Đảng và cả dân tộc ViệtNam tiếp tục hành trình vững vàng
hướng theo mục tiêu đã chọn: “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh”.
Về công bằng xã hội. Một trong những dấu hiệu đáng lo ngại của nguy
cơ "chệch hướng xã hội chủ nghĩa" là sự gia tăng chênh lệch thu nhập và quyền
lực. Mặc dù Việt Nam đã đạt được một số thành tựu trong việc giảm đói nghèo
và nâng cao chất lượng cuộc sống, sự chênh lệch giữa tầng lớp giàu và nghèo
vẫn còn tồn tại và đang tăng lên. Việc phát triển kinh tế tạo ra cơ hội cho một



số người, trong khi kháng đoàn đất đai, lao động nông nghiệp và các tầng lớp
dân lao động khác vẫn đối diện với sự kém may mắn và không công bằng.
Một dấu hiệu khác của nguy cơ "chệch hướng xã hội chủ nghĩa" là thất
bại trong đảm bảo các quyền cơ bản của con người. Bất kỳ xã hội chủ nghĩa
nào cũng phải đảm bảo quyền đất đai, giáo dục, chăm sóc sức khỏe và quyền
cơng bằng xã hội cho mọi người. Tuy nhiên, nhiều trường hợp xã hội chủ nghĩa
đã gặp khó khăn trong việc đảm bảo rằng những quyền này được thực hiện cho
tất cả người dân.
Về quản lý tài nguyên. Nguy cơ "chệch hướng xã hội chủ nghĩa" cũng
phản ánh trong việc quản lý tài nguyên. Trong một số trường hợp, tài nguyên
quý báu của đất nước như đất đai, nước, và khống sản đã khơng được quản lý
một cách cơng bằng và bền vững. Thay vì đảm bảo lợi ích cộng đồng và bảo vệ
mơi trường, có những tình huống tài ngun này được sử dụng một cách bất
công và không bền vững để phục vụ lợi ích của một số tầng lớp hoặc cá nhân.
Điều này khơng chỉ gây thiệt hại mơi trường mà cịn tạo ra sự không công bằng
trong việc tiếp cận tài nguyên cho cả xã hội.
Về tương tác chính trị-kinh tế. Sự tương tác chính trị-kinh tế cũng có thể
tạo ra nguy cơ "chệch hướng xã hội chủ nghĩa." Nếu không có sự kiểm sốt và
giám sát thích hợp, có thể xảy ra tình trạng tham nhũng và lạm quyền. Các
quyền lực chính trị có thể được sử dụng để bảo vệ lợi ích cá nhân hoặc tầng lớp
gia đình thay vì lợi ích xã hội. Điều này có thể dẫn đến sự mất đi tính minh
bạch và tương tác khơng cơng bằng trong quyết định chính trị và kinh tế.
Về phản ứng và giải pháp. Để đối phó với nguy cơ "chệch hướng xã hội
chủ nghĩa," cần phải có sự theo dõi chặt chẽ, kiểm tra, cải cách, và ứng phó
quyết liệt từ phía chính quyền, tổ chức xã hội và nhân dân. Điều này đòi hỏi sự
cam kết đối với nguyên tắc cơ bản của xã hội chủ nghĩa và tạo ra các cơ chế để
đảm bảo công bằng, minh bạch, và thực hiện các mục tiêu xã hội chủ nghĩa một
cách bền vững. Cần tạo ra một hệ thống quản lý mạnh mẽ và đúng đắn để đảm

bảo tài nguyên và quyền cơ bản của con người được bảo vệ và phát triển cho
mọi người, không chỉ cho một số tầng lớp hay cá nhân cụ thể.


Nguy cơ "chệch hướng xã hội chủ nghĩa" không phải lúc nào cũng xuất hiện
một cách rõ ràng, nhưng nó có thể tiềm ẩn trong nhiều khía cạnh của xã hội và
kinh tế. Để đảm bảo phát triển xã hội chủ nghĩa là bền vững và cơng bằng, cần
có sự quan tâm và hành động quyết liệt để kiểm soát nguy cơ này và đảm bảo
rằng mục tiêu xã hội chủ nghĩa không bị "chệch hướng" khỏi lý tưởng ban đầu.
2. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994)
Yêu cầu đặt ra cho Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳlà kiểm
điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tổng
kết một bước gần 10 năm đổi mới, làm sáng tỏmột sốvấn đềlý luận và thực tiễn
trong quá trình xây dựng đất nước.
Từ ngày 24-11 đến ngày 1-12-1993, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VII đã họp Hội nghị lần thứ sáu để chuẩn bị Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ. Hội nghị đã thảo luận và nhất trí nhiều vấn đề quan trọng của
dựthảo Báo cáo chính trị: chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
cơng nghiệp hố, hiện đại hố; đẩy mạnh đổi mới và chỉnh đốn Đảng bảo đảm
cho quá trình đổi mới đi đúng hướng và đạt thành tựu cao. Thành công của Hội
nghị lần thứ sáu là tiền đề cho thành cơng của Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa
nhiệm kỳ.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳđã họp từngày 20 đến ngày
25-1-1994 tại Hà Nội. Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã đọc Báo cáo chính trị,
chỉrõ ba thành tựu quan trọng: Khắc phục một bước quan trọng tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội; Tiếp tục giữ vững và củng cố sự ổn định chính trị;
Quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế của nước ta trên thế giới được nâng lên,
tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những thành tựu quan trọng đạt được tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển
dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước cơng nghiệp hố,

hiện đại hố đất nước. Báo cáo chính trị cũng vạch ra những mặt yếu kém và
những vấn đề mới nảy sinh. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã chỉ
ra bốn nguy cơ: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; Nguy cơ chệch hướng xã


hội chủ nghĩa; Nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; Nguy cơ "diễn biến
hồ bình".
Đồng thời, Hội nghị khẳng định những thuận lợi cơ bản và thời cơ trong
q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới: đường lối của Đảng đúng đắn; nhân dân
ta yêu nước, tin Đảng; những thành tựu đổi mới đang tạo ra thế và lực mới;
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và xu thế hợp tác, phát triển trên thế giới.
Nắm vững thời cơ và đẩy lùi nguy cơ là tư tưởng chỉ đạo nổi bật của Hội nghị
đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ. Hội nghị xác định những nhiệm vụ cho
những năm còn lại của nhiệm kỳ Đại hội VII: Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố; Thực hiện nhất quán chính
sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo động lực và môi trường thuận lợi
hơn nữa cho các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển
nhanh và có hiệu quả; Xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Chăm lo các vấn đề văn hố, xã
hội; Tăng cường quốc phịng, an ninh, quán triệt tư tưởng chỉ đạo và tiếp tục
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh mà Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương đề ra; Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại; Xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Đổi mới
và chỉnh đốn Đảng, mở rộng khối đại đoàn kết, củng cố mối quan hệ mật thiết
giữa Đảng và quần chúng. Tích cực tiến hành tổng kết công tác xây dựng Đảng,
chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
Hội nghị bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương 20 đồng chí,
đồng ý để một số đồng chí vì lý do sức khoẻ tự nguyện xin rút khỏi Ban Chấp
hành Trung ương.
Sau Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, các tỉnh, thành uỷ, các

đảng uỷ khối cơ quan trung ương đã tiến hành Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ,
vạch chương trình công tác hai năm 1994-1995, bầu bổ sung cấp uỷ. Kết quả
hội nghị các cấp tạo nên khí thế mới trong tồn Đảng, tồn dân. Tiếp tục thực
hiện chương trình cụ thể hoá và phát triển đường lối do Đại hội VII đề ra, Hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (từ ngày 25 đến ngày 30-7-1994)
ra nghị quyết về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng


cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong
giai đoạn mới, phấn đấu đến năm 2000 đạt và vượt các chỉtiêu đã xác định
trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Hội nghị
đã xác định sáu quan điểm cơ bản của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước: một là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; hai là, giữ vững độc
lập, tự chủ phải đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ; ba là, cơng nghiệp hố, hiện đại hố là sự nghiệp của toàn dân,
của mọi thành phần kinh tế; bốn là, phát huy nguồn lực con người làm yếu tố
cơ bản cho sự phát triển; năm là, khoa học và công nghệ là nền tảng của cơng
nghiệp hố, hiện đại hố; sáu là, hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn cơ bản.
Nghị quyết cũng vạch rõ hướng bố trí các ngành cơng nghiệp, kết cấu hạ tầng,
các vùng, các địa bàn quan trọng; đề ra các chính sách để thực hiện.Về xây
dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, Nghị quyết xác định: cần xây
dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững
vàng về chính trị, tư tưởng; có trình độ học vấn, tay nghề cao, có năng lực tiếp
thu, sáng tạo công nghệ mới; lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả,
vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung
ương khoá VII (tháng 1-1995) ra Nghị quyết về Tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền
hành chính nêu lên những quan điểm chỉ đạo việc xây dựng và hồn thiện Nhà
nước, việc cải cách hành chính và những nội dung cơ bản trong phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội và Chính phủ. Trong hệ thống chính trị,

Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết, quyết
định, nguyên tắc, giải quyết các vấn đề trọng đại của quốc kế dân sinh, bảo
đảm ổn định, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong bước ngoặt
của cách mạng.


KẾT LUẬN
Trong lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội nghị đại biểu tồn
quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII năm 1994 là một sự kiện quan trọng, đánh dấu
một bước ngoặt quyết định trong việc đối mặt với nguy cơ "chệch hướng xã hội
chủ nghĩa." Cuộc họp này đã cung cấp cơ hội quý báu để lý luận về nguy cơ
này, đánh giá tình hình hiện thời và xác định chiến lược nhằm đảm bảo sự phát
triển bền vững và hài hòa của xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính sách và biện
pháp đã được đưa ra sau Hội nghị là sự thể hiện của sự đoàn kết và tôn trọng tư
tưởng của Đảng, chứng minh cam kết của Đảng và nhân dân Việt Nam trong
việc duy trì xã hội chủ nghĩa đúng đắn và sáng tạo.
Tuy nhiên, tiến trình đối phó với nguy cơ "chệch hướng xã hội chủ
nghĩa" là một hành trình dài hơi và địi hỏi sự nhạy bén, quản lý hiệu quả và
quyết tâm trong việc thực hiện chính sách và quyết định đã được đưa ra. Sự
thăng tiến và phát triển của Việt Nam là một cuộc đua khơng có đích đến, và sự
hiểu biết về lịch sử và lý luận sẽ tiếp tục là nguồn động viên và hướng dẫn cho
những bước tiến mới trong tương lai. Việc theo đuổi một xã hội chủ nghĩa đúng
đắn và bền vững vẫn là mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam, và tầm nhìn và
lý luận về nguy cơ "chệch hướng xã hội chủ nghĩa" cần được duy trì và phát
triển để đảm bảo tương lai tươi sáng cho đất nước và dân tộc.


DANH MỤC THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
2. "Hội nghị đại biểu tồn quốc khóa VII" - Bản tài liệu chính thức về Hội nghị

đại biểu tồn quốc khóa VII.
3. "Cộng sản Việt Nam 1991-1998: Những bước đầu của mở cửa và đổi mới"
của Hà Mạnh Hùng.
4. "Nhiệm kỳ khóa VII của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam: Bất đồng và thỏa thuận" của Trương Ngọc Nhất.
5. "Nhận định về mối đe dọa đối với xã hội chủ nghĩa và con đường đổi mới ở
Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của Nguyễn Thanh Hóa.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1994). Tài liệu Hội nghị Đại biểu Toàn quốc lần
thứ VII.
7. Trần, D. K. (2009). Xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Thực tế và định
hướng. Hanoi: Nxb. Chính trị Quốc gia.



×