Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu Luận - Đề Tài - Một Số Biện Pháp Giải Quyết Nợ Công Việt Nam Trong Giai Đoạn Hiện Nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.24 KB, 22 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
BỘ MÔN KINH TẾ
-------------

Bài Tập Lớn
Mục lục
I.
Khái qt về nợ cơng
1. Nợ cơng là gì
2. Các loại nợ cơng
3. Mục đích vay nợ
4. Hình thức vay nợ
5. Nguồn trả
II.
Thực trạng nợ công ở nước ta
1. Thực trạng
2. Nguyên nhân nợ công tăng cao
3. Hậu quả
III.
Giải pháp
1. Bài học của các nước về nợ công
2. Biện pháp của các nước
3. Giải pháp cho vấn đề nợ công ở Việt Nam
Phản hồi bài tập lớn

2
3
3
3
4
4


4
7
10
11
15
17


BÀI TẬP LỚN
Một số biện pháp giải quyết nợ công của Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
I.

Khái quát về nợ cơng

1. Nợ cơng là gì?
Nợ cơng hay cịn gọi là Nợ Chính phủ là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ
thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay. Việc đi vay này là nhằm tài trợ
cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách khác, nợ công là thâm hụt ngân sách
luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ công, người ta
thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc
nội (GDP).
2. Các loại nợ cơng
Nợ chính phủ thường được phân thành: Nợ trong nước (các khoản vay từ người
cho vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước).
- Nợ trong nước:
 Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là một
tổng thể thì chính chủ chỉ nợ cơng dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ
trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm
méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vơ ích về phúc lợi xã

 Nhưng nếu khoản nợ cơng cộng lớn, dân chúng sở hữu nợ chính phủ thay vì sử
hữu cổ phiếu trái phiếu cơng ty. Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết
kiệm của dân cư đã chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và các
doanh nghiệp hạn chế đầu tư.
 Nợ nước ngồi:
 Trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có
cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn vì chính phủ có thể khơng có đủ ngoại tệ để
thanh tốn, thêm vào đó cịn có thể xảy ra rủi ro về tỷ giá hối đối.
 Nếu một quốc gia có nợ nước ngồi lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường
xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.
3. Mục đích vay nợ
2


 Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương
theo quy định của Luật ngân sách nhà nước.
 Bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước từ vay ngắn hạn.
 Cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh.
 Cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng, chính quyền địa phương vay lại
theo quy định của pháp luật.
 Các mục đích khác nhằm bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.
( />itemid=11772 )
4. Các hình thức vay nợ của chính phủ
a. Phát hành trái phiếu chính phủ.
Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân.
Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là khơng có rủi ro tín dụng vì
Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo
hạn. Trái phiếu chính phủ phát hành bằng ngoại tệ có rủi ro tín dụng cao hơn so với
khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể khơng có đủ ngoại tệ để thanh tốn và
ngồi ra cịn có rủi ro về tỷ giá hối đối.

b. Vay trực tiếp
Chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế
siêu quốc gia. Hình thức này thường được Chính phủ của các nước có độ tin cậy tín
dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu
chính phủ của họ khơng cao.
5. Nguồn trả nợ công
Nguồn thu ngân sách hằng năm của nước ta được bắt nguồn từ nguồn thu thuế, lệ
phí, phát hành tiền, vay nước ngồi, bán tài sản cơng,... nhưng trong điều kiện nguồn
thu eo hẹp hiện nay thì việc phải dành một phần ngân sách để trả nợ sẽ lấy đi nguồn
lực dành cho các khoản chi tiêu khác cũng như chi cho đầu tư và phát triển. Nếu cứ
như vậy, đến một lúc nào đó khoản nợ cộng với lãi tích tụ sẽ ăn hết vào chiếc bánh
ngân sách.Trong thời gian ngắn hạn, để có nguồn trả nợ nhưng vẫn phải đáp ứng nhu
cầu chi tiêu, phải đảo nợ, tức là đi vay nợ mới để trả nợ cũ.
II.

Thực trạng nợ công ở nước ta

1. Thực trạng nợ công tại Việt Nam
Sau 30 năm mở cửa kinh tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử. Tiềm lực của đất nước đã lớn mạnh hơn nhiều, đời sống vật chất và tinh
3


thần của người dân ngày càng được cải thiện, chính trị - xã hội ổn định. Trong vòng 10
năm trở lại đây, GDP của Việt Nam đã có bước tăng trưởng tới hơn 4 lần, nếu năm
2006 GDP cả nước chưa đạt 1.000 nghìn tỷ đồng và GDP/đầu người khoảng 715 USD
thì năm 2015 GDP đã đạt đến con số xấp xỉ 4.200 nghìn tỷ đồng và GDP/đầu người là
2.019 USD. GDP tăng trưởng tương đối bền vững, lạm phát được kiềm chế đáng kể.
( )
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy mơ nền kinh tế

của Việt Nam vẫn là nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới; nền kinh tế phụ thuộc
nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là chủ yếu. Do đó,
hiện tại và trong tương lai gần, việc tăng vay nợ chính phủ nói riêng và nợ cơng nói
chung là một nhu cầu tất yếu vì Việt Nam vẫn rất cần sự hỗ trợ về mặt tài chính (tức là
vay nợ và viện trợ phát triển chính thức) từ các tổ chức đơn phương, đa phương trên
thế giới để phát triển nền kinh tế hơn nữa.
- Về quy mô nợ công:
Theo Bản tin tài chính số 4 năm 2016, chỉ trong vịng 6 năm (2010-2015), nợ công
Việt Nam đã tăng gấp 3 lần. Đến cuối năm 2015, về số tuyệt đối, dư nợ công lên đến
2.608 nghìn tỷ đồng; về số tương đối, tỷ lệ nợ cơng/GDP ở mức 62,2%, áp sát ngưỡng
kiểm sốt 65% của Quốc hội. (Bảng 1)
Biểu đồ 1: Gánh nặng nợ công Việt Nam giai đoạn 2010-2015

4


(Nguồn : Bản tin nợ công số 4, Bộ Tài chính)
Theo nhiều chun gia, quy mơ nợ cơng thực tế có thể cao hơn so với mức cơng
bố do cách thức xác định nợ công của Việt Nam và một số tổ chức quốc tế có sự khác
biệt. Cụ thể, nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam dựa trên nguyên tắc: Trách nhiệm
thanh toán thuộc về chủ thể đi vay; cịn nợ cơng theo tiêu chuẩn quốc tế được xác định
trên cơ sở: Chủ sở hữu thực sự hay pháp nhân đứng sau chủ thể đi vay phải có trách
nhiệm thanh tốn. Theo đó, nợ cơng theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ bằng nợ công theo tiêu
chuẩn Việt Nam cộng với nợ của: Ngân hàng Nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước,
tổ chức bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội và một số địa phương.
Theo thông lệ quốc tế, ngưỡng nợ công tối ưu (nhằm đảm bảo nợ công là động
lực giúp tăng trưởng kinh tế) thông thường cho các nước phát triển là 90%, các nước
đang phát triển có nền tảng tốt là 60% và có nền tảng kém là 30 - 40%. Vì vậy, mức
ngưỡng nợ công/GDP được Quốc hội đề ra 65% là phù hợp với thông lệ quốc tế; và
việc vượt ngưỡng tối ưu có thể tiềm ẩn rủi ro.

Nếu chỉ số nợ cơng/GDP của một quốc gia thể hiện quy mô nợ công so với quy
mơ của nền kinh tế thì chỉ số nợ cơng trên bình qn đầu người thể hiện trung bình
mỗi người dân của quốc gia này đang gánh bao nhiêu nợ. (Biểu đồ 2)
Biểu đồ 2: Nợ cơng bình quân đầu người của Việt Nam giai đoạn 2006-2015
5


(Nguồn: Economist Intelligence Unit, Vietdata tổng hợp)

Tính đến khoảng tháng 11/2015, nợ cơng bình qn đầu người ở Việt Nam xấp
xỉ 1.000 USD. Xét về chỉ tiêu nợ cơng bình quân đầu người thì Việt Nam ở mức khá
thấp so với một số quốc gia khác trong khu vực Asean. Cũng số liệu năm 2015, nước
có chỉ số nợ cơng bình quân đầu người cao nhất là Singapore với 56.000 USD, tiếp
theo là Malaysia 7.696,9 USD, Thái Lan 3.450,8 USD. Việt Nam, Indonesia,
Philippines có chỉ số nợ bình qn đầu người năm 2015 xấp xỉ khoảng 1.000 USD.
Thật vậy, trong khối ASEAN, tương tự như Việt Nam, các nước Malaysia, Philippines
và Thái Lan đều duy trì tỷ lệ nợ cơng/GDP ở mức 45%-60%. Cá biệt có trường hợp
của Singapore có tỷ lệ nợ công/GDP rất cao ( gần 94% năm 2015) và Indonesia với tỷ
lệ nợ công/GDP rất thấp (khoảng 25%-26%). Theo đó, quy mơ nợ cơng ở Singapore
rất cao với khối nợ trên 278 tỷ USD. (Biểu đồ 3)

6


Biểu đồ 3: Nợ cơng bình qn đầu người một số nước Đơng Nam Á

( )

2. Ngun nhân tình trạng nợ công tăng cao ở Việt Nam
 Do sự bội chi ngân sách nhà nước

Hàng năm, Nhà nước phải bỏ ra một khoản ngân sách để chi cho công tác quản lý
nhà nước, trả lương cho cán bộ, CNVC nhà nước các cấp, chi phí cho các chương trình
kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phịng,…Dù vậy hiện nay vẫn có
đang cịn tồn tại một lượng lớn cán bộ làm việc không hiệu quả, thờ ơ, thiếu trách
nhiệm. Và như vậy số tiền lương từ ngân sách chi cho nhóm đối tượng này thực sự
lãng phí.. Bội chi ngân sách lớn và kéo dài khiến nhà nước phải vay nợ để bù đắp
thâm hụt ngân sách. Đây là nguyên nhân khiến nợ công ngày càng trở thành gánh nặng
kinh tế.
Biểu đồ 4: Thâm hụt ngân sách và nợ công của Việt Nam qua các năm:

7


( />Theo thống kê, chỉ tính riêng 9 tháng đầu năm 2016, ngân sách Nhà nước đã bội
chi trên 150 nghìn tỉ đồng bởi cùng thời điểm, tổng thu ngân sách chỉ đạt trên 665
nghìn tỉ đồng trong khi tổng chi trên 816 nghìn tỉ đồng.
 Sử dụng vốn vay khơng hiệu quả
Nhật Bản có quy mơ nợ cơng lớn nhất thế giới, Năm 2014, nợ trên GDP của Nhật
Bản là 40%. Tổng nợ của Nhật Bản tăng mạnh tới 64% điểm trong giai đoạn từ 20072014. Nhưng nợ công ở Nhật bản được đánh giá là an tồn, khơng cần lo ngại. Vậy
nên đánh giá sự an tồn nợ cơng 1 nước khơng chỉ đơn giản nhìn vào quy mơ của nó
mà phải nhìn vào hiệu quả của việc sự dụng đồng vốn vay với chỉ số
ICOR( Incremental Capital_Output Ratio). Chỉ số ICOR càng cao thì hiệu quả đầu tư
của nền kinh tế càng thấp. Theo tính tốn của Tổng cục Thống kê, hệ số ICOR của
Việt Nam mọi năm đều cao. Điều này cho thấy sự kém hiệu quả trong việc quản lý,
đầu tư và sự dụng đồng vốn vay.

Biểu đồ 5: Biểu đồ ICOR của Việt Nam giai đoạn 1981_2015

8



 Đầu tư công cao và kém hiệu quả
Trong những năm qua, nhiều dự án đã được thực hiện, phát huy, đem lại nhiều hiệu
quả to lớn cho nền kinh tế. Nhưng đằng sau đó vẫn có nhiều dư án của trung ương và
địa phương, tiêu tốn hàng chục nghìn tỉ nhưng vẫn đang “ nằm phơi, đắp chiếu” nhiều
năm với nhiều lý do, nguyên nhân.
Đầu tư công chưa hiệu quả là nguồn gốc lớn làm tăng nợ công. Khu vực doanh
nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ đầu tư công cao nhưng hiệu quả lại thấp nhất. Việc các
doanh nghiệp nhà nước cầu cứu Chính phủ xin ưu đãi, xin cơ chế đặc thù đã và đang
trở thành “truyền thống” và cho dù Chính phủ có “ném phao” cứu bằng cách nào thì
cũng phần lớn ảnh hưởng đến thu ngân sách và tạo ra sự không công bằng với những
doanh nghiệp tư nhân.
 Yếu tố lãi suất
Các khoản vay nước ngồi của Việt Nam đều có lãi suất thấp, chủ yếu ở mức
1%_2,99%. Tuy nhiên trong tương lai, chi phí vay chắc chắn sẽ tăng cao và khoản vay
với lãi suất thả nổi ngày càng tăng lên, gây áp lực nợ cho Chính phủ. Sự mất giá của
đồng tiền Việt Nam so với tiền của các nước mà Việt Nam vay vốn khiến các doanh
nghiệp khó khăn trong việc trả nợ, và nợ công ngày càng gia tăng.
 Cơ cấu các khoản nợ
Có thể thấy trong cơ cấu nợ cơng của Việt Nam, nợ nước ngoài chiếm tỷ trọng cao.
Tuy nhiên khi nợ nước ngồi q cao, Chính phủ sẽ mất đi tính chủ động để ứng phó
với các biến động trên thi trường tài chính thế giới. Và khó kiểm sốt các món nợ vay
phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái , tâm lý các nhà đầu tư quốc tế. Thấy rằng Nhật bản có
mức nợ cơng cao nhưng được đánh giá là bền vững do nợ công chủ yếu là của các nhà
đầu tư trong nước.
9


Biểu đồ 6: Cơ cấu các khoản nợ công của Việt Nam


1. Hậu quả của nợ công tăng cao
 Kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lỏe sẽ khiến việc quản lý nợ cơng tỏ ra
kém hiệu quả. Tình trạng tham nhũng, lãng phí tăng cao. Điều này gây ra mối
lo ngại cho sự an toàn, khả năng tài trợ của nợ công.
 Nợ công sẽ khiến tăng trưởng nền kinh tế giảm nếu các biện pháp can thiệp q
nhanh, q mạnh, làm vơ hiệu q chính sách kinh tế vĩ mô
 Nợ công ở Việt Nam tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân sách đã trở thành căn
bệnh kinh niên. Đầu tư không ngừng mở rộng kéo theo lạm phát và lãi suất tăng
khiến việc tài trợ nợ công ngày càng trở nên đắt đỏ và áp lực tín dụng dài hạn.
 Nền kinh tế bị hạ bậc mức tín nhiệm theo báo cáo của các tổ chức chun đi
đánh giá tín nhiệm các cơng ty và quốc gia khác. Niềm tin của người dân và
giới đầu tư bị lung lay. Khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của
các thế lực đầu cơ thế giới.
 Nợ công làm cho sự tăng trưởng của sản phẩm tiềm năng chậm lại
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài hạn một
khoản nợ cơng lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng trưởng của sản
lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau:
-

Nếu một quốc gia có nợ nước ngồi lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường
xuất khẩu để trả nợ nước ngồi và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.
Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân: thay vì
sở hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái phiếu
10


chính phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã
chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh nghiệp hạn chế
đầu tư.
- Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là một

tổng thể thì chính chủ chỉ nợ cơng dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ
trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm
méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vơ ích về phúc lợi xã hội.
( /> )
III.

Giải pháp

1. Bài học các của các nước vấn đề nợ công
( />Khủng hoảng nợ công của Argentina năm 2001
Để đi tìm lời giải thích thỏa đáng cho cuộc khủng hoảng nợ công tại nước này
người ta phải quay trở về quá khứ từ những năm 1980s. Trong giai đoạn này,
Argentina chìm đắm trong chế độ quân chủ chuyên chế và từ sau năm 1983 thì nước
này mới có sự thay đổi về chế độ. Tuy vậy, những hậu quả mà chế độ quân chủ chuyên
chế tạo ra là rất sâu sắc và kéo dài với các khoản nợ nước ngoài khổng lồ và một nền
kinh tế rối ren, hỗn loạn.
 Chính sách của chính quyền tổng thống Menem: Năm 1991, Argentina thơng qua
Luật Chuyển đổi (có hiệu lực từ 1 /4/1991) trong đó có các qui định: (i) Thiết lập
hệ thống "chuẩn tiền tệ" (currency board); (ii) Ban hành đồng tiền mới là Reso thay
thế đồng Austral với tỷ lệ qui đổi 1 Peso = 10.000 Austral; (iii) Ấn định tỷ lệ trao
đổi giữa ARA (ký hiệu ISO của Peso) và USD là 1 ARA = 1 USD; (iv) Kiểm soát
chặt việc in tiền, bảo đảm rằng lượng Peso lưu hành phải phù hợp với lượng USD
lưu hành.
 Nhược điểm của luật chuyển đổi:
- Việc duy trì tỷ giá 1 ARA = 1 USD mặc dù giúp kiểm sốt lạm phát (thơng qua
khống chế lượng Peso được phát hành phù hợp với lượng USD giao dịch trên thị
trường), nhưng điều này lại khiến cho ngân sách Chính phủ bị thâm hụt càng
nghiêm trọng. Nguyên do là với các qui định trong Luật Chuyển nhượng thì Chính
phủ khơng được in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách.
- Để duy trì được tỷ giá 1 ARA = 1 USD, NHTƯ Argentina phải có lượng dữ trữ

ngoại tệ lớn để sẵn sàng can thiệp thị trường bất cứ lúc nào và với bất cứ dung lượng
11


nào. Tuy vậy, Argentina lại khơng đáp ứng được địi hỏi tiên quyết này. Thực tế là họ
đã phải bù đắp lượng ngoại tệ bị thiếu hụt so với yêu cầu dự trữ để can thiệp thị trường
bằng việc tăng cường vay nợ nước ngồi
- Chính sách "chuẩn tiền tệ" cũng làm cho đồng Peso lên giá, hệ quả là hàng nhập
khẩu từ nước ngoài rẻ hơn đáng kể so với hàng sản xuất trong nước. Sự suy yếu về
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong nước so với quốc tế do chính sách vơ tình đã
tăng giá đồng nội tệ đã gây hậu quả hàng loạt doanh nghiệp trong nước bị phá sản, tỷ
lệ thất nghiệp gia tăng mạnh.
- Việc cho phép dân chúng tự do lựa chọn nắm giữ USD hay ARA đã vơ tình khiến
tình trạng "chảy máu ngoại tệ" trong nền kinh tế, do dân chúng tăng cường chuyển từ
đồng Peso sang nắm giữ USD để đi du lịch nước ngoài hay mua sắm các hàng hóa
nhập khẩu giá rẻ. Điều này đã làm cho dự trữ ngoại tệ bị sụt giảm nghiêm trọng. Điều
này khiến đồng Peso ngày càng bị mất giá so với USD. Xử lý bất cập nghiêm trọng
này buộc Chính phủ phải tăng cường vay nợ nước ngoài để bù đắp đúng lượng ngoại
tệ đã bị chảy ra nước ngoài.
- Cũng do chính sách "chuẩn tiền tệ" khiến ngân hàng trung ương khơng làm trịn
vai của mình khi là "cứu cánh cuối cùng". Khi hệ thống ngân hàng bị lâm vào khủng
hoảng và cần sự giải cứu từ ngân hàng trung ương thông qua các khoản cho vay tái
chiết khấu thì lại khống được đáp ứng.
- Đồng Peso được neo chặt với USD nên về nguyên lý thì lãi suất của ARA phải
tương đương với lãi suất USD. Nếu điều kiện này khơng được duy trì thì lập tức hoạt
động Arbitrage sẽ xảy ra. Điều này hàm ý rằng, NHTƯ Argentina đã bị mất đi sự chủ
động trong sử dụng chính sách tiền tệ để điều tiết kinh tế vĩ mơ (chẳng hạn có thể tăng
lãi suất để chống lạm phát hay giảm lãi suất để kích thích tăng trưởng kinh tế).
Bên cạnh đó cịn có tác động của cú sốc tài chính của khu vực Đơng Nam Á và
đồng USD tăng giá (làm đồng ARA cùng tăng theo do cơ chế tỷ giá chuẩn) như vậy

cuộc khủng hoảng thực sự lên đỉnh điểm vào năm 2001.
 Một số sự kiện quan trọng của cuộc khủng hoảng:
- Ngày 10/3/2000, IMF đồng ý một thỏa thuận cho vay dự phòng trị giá 7,2 tỷ
USD trong 3 năm cho Argentina với điều kiện nước này phải điều chỉnh tài
chính chặt chẽ và đạt mức tăng trưởng GDP 3,5% vào năm 2000 (thực tế tăng
trưởng GDP năm 2000 của nước này chỉ là 0 5%)
- Ngày 18/12/2000, chính quyền Tổng thống De La Rua thơng báo cần sự trợ
giúp cả gói 40 tỷ USD của IMF.
- Ngày 12/1/2001, do kinh tế của Argentina vẫn cịn suy thối mạnh, IMF tăng
thỏa thuận ngày 10/3/2000 lên 7 tỷ USD như một phần của gói 40 tỷ USD viện
trợ cả gói liên quan đến Ngân hàng Phát triển Trung Mỹ, WB, Tây Ban Nha và
12


tư nhân cho vay. Thỏa thuận này nhằm đảm bảo GDP của nước này sẽ tăng
trưởng ở mức 2,5% năm 2001 (thực tế năm 2001 GDP nước này tăng trưởng 5%)
- Ngày 17/6/2001, Chính phủ thơng báo khoản nợ trị giá 29.5 tỷ USD được hoán
đổi từ khoản nợ ngắn hạn thành khoản nợ mới với thời gian đáo hạn dài hơn và
lãi suất cao hơn.
- Ngày 7/9/2001, dựa trên những cam kết của Argentina thực thi Luật Thâm hụt
bằng bằng 0, IMF tăng cam kết cho vay lên 7,2 tỷ USD.
- Ngày 5/12/2001, IMF từ chối cho vay 1,24 tỷ USD với lý do Argentina khơng
có khả năng đáp ứng các mục tiêu tài chính.
- Ngày 7/12/2001, Argentina tuyên bố mất khả năng trả được nợ nước ngoài.
Bài học nợ công từ Hy Lạp
- Năm 2001: Hy Lạp tham gia vào khu vực Eurozone vào giữa năm 2001 và kể từ
thời điểm đó ln là nước nằm trong tình trạng thâm hụt với mức trung bình 5% GDP/
năm trong khi tính trung bình cho tồn khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu
(Eurozone), con số này chỉ dừng lại ở mức 2%/năm.
- Năm2005: Chính sách duy trì đồng Euro mạnh và lãi suất quá thấp tạo điều kiện

Hy Lạp vay những khoản nợ khổng lồ lên đến 400 tỷ USD nhằm mục đích bù đắp
thâm hụt ngân sách sau khi hoang phí ngân sách tổ chức Olympic 2004.
- Năm 2009: Cuộc khủng hoảng của Hy Lạp chính thức bắt đầu vào tháng 12/2009
khi nước này phát hiện ra tình trạng thâm hụt ngân sách khổng lồ 12,7% GDP, chứ
khơng phải 3,7% như chính phủ tiền nhiệm cơng bố trước đó. Điều này dấy lên nỗi lo
ngại của các chủ nợ và lãnh đạo các nước Eurozone.
- Năm 2010: Gói cứu trợ thứ nhất lên tới 52 tỉ euro mà liên minh châu Âu và Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) trao cho Hy Lạp năm 2010 trong khuôn khổ quỹ bình ổn tài
chính châu Âu (EFSF). Đổi lại Hy Lạp phải đồng ý các biện pháp thắt lưng buộc bụng,
giảm chi tiêu ngân sách. Nhưng gói cứu trợ này cũng không đủ lực để kéo kinh tế Hy
Lạp đi lên, nên một lần nữa Hy Lạp phải cầu cứu liên minh châu Âu gói cứu trợ lần
thứ 2 trị giá 130 tỷ euro để cứu quốc gia này cũng như để giảm thiểu tác động xấu đến
khu vực đồng euro. Đổi lại Hy Lạp cam kết cắt giảm nợ cơng xuống khoảng 121%
GDP.
- Năm 2015: Tính đến thời điểm hiện tại, sau 2 gói cứu trợ đã được đưa ra, tình
hình kinh tế Hy Lạp vẫn đang rất u ám. Mới đây cuộc họp giữa các chủ nợ với Hy Lạp
khơng được thống nhất. Chính phủ Hy Lạp từ chối chính gói cứu trợ thứ 3 và sẽ có
cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 5/7 tới. Hiện tại khoản nợ của Hy Lạp đã lên tới 320 tỷ
euro, tương đương 175% GDP, khoản nợ IMF 1,6 tỷ euro đáo hạn vào 30/6 tới. Chính
phủ đã khơng cịn nguồn tài chính để trả nợ. Các ngân hàng phải đóng cửa. Tính đến
27/6 có đến 500 trong số 7.000 cây ATM của nước này khơng cịn tiền. Người dân
13


thực sự bức xúc trong tình cảnh khó khăn này bởi mỗi người chỉ được rút 60 euro mỗi
ngày. Ngành du lịch Hy Lạp cũng gặp khơng ít vấn đề, như là hệ lụy, các du khách đến
Hy Lạp không có tiền để chi tiêu do khơng rút được tiền từ thẻ tín dụng do hệ thống
các Ngân hàng ở Hy Lạp đều đóng cửa.
Bài học rút ra từ 2 cuộc khủng hoảng nợ công
Không nên quá phụ thuộc vào vốn vay nước ngoài

Cuộc khủng hoảng Hy Lạp tiếp tục là hồi chuông cảnh báo cho vấn đề nợ công,
vốn đang là mối đe dọa sự phát triển bền vững của nhiều quốc gia trên thế giới, trong
đó có Việt Nam. Đồng hồ nợ cơng tồn cầu của Economist cho thấy tính đến ngày
1/7/2015, nợ cơng của Việt Nam ở mức 90,4 tỷ USD, chiếm 46,4% GDP, tăng 10% so
với cùng thời điểm năm ngoái. Con số này vẫn nằm trong phạm vi an toàn theo tiêu
chuẩn quốc tế là 65% GDP. Nếu nhìn vào con số thống kê, nguy cơ Việt Nam rơi vào
khủng hoảng nợ công không cao, song vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro về vấn đề bội chi ngân
sách và khả năng thanh toán nợ trong trung và dài hạn.
Quản lý chặt chẽ các khoản vay và có kế hoạch chi tiêu hợp lý
Khơng thể phủ nhận để có vốn tiến hành cơng nghiệp hố và hiện đại hố, việc vay
nợ nước ngồi là cần thiết. Nhiều quốc gia có những bước phát triển kinh tế đáng nể
như Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc đều phải vay nợ nước ngoài.Tuy nhiên, Việt
Nam cần lưu ý sử dụng các khoản vay vào đầu tư vào hạ tầng cơ sở thiết yếu nhất để
phục vụ phát triển kinh tế và xố đói giảm nghèo. Tiền vay được quản lý chặt chẽ và
sử dụng có hiệu quả chứ khơng dùng những món nợ phải trả trong tương lai này để
theo đuổi những siêu dự án trong khi hạ tầng kỹ thuật thiết yếu trong nước còn chưa
đầy đủ.Cơ hội được tiếp cận dễ dàng nguồn tín dụng rẻ từ khi gia nhập Eurozone đã
khiến cho chính phủ Hy Lạp chi tiêu quá tay mà quên mất những nghĩa vụ nợ phải trả
trong tương lai.
Xem xét lại cách tính nợ công
Theo Luật Quản lý nợ công của Việt Nam, nợ cơng bao gồm: nợ chính phủ, nợ
được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Nợ nước ngồi của quốc gia
là tổng các khoản nợ nước ngoài của chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh, nợ của
doanh nghiệp và tổ chức khác được vay theo phương thức tự vay, tự trả theo quy định
của pháp luật Việt Nam.Tuy nhiên, trong khi bảng tính nợ cơng của hầu hết các quốc
gia phát triển trong đó có Mỹ, Canada, Úc, Nhật đã tính nợ theo đúng tiêu chuẩn của
Liên hiệp quốc, tức là trong nợ cơng cịn có phần lương hưu (mỗi khi một công chức
nhận lương, họ phải đóng một phần vào quỹ hưu, cịn một phần khác do chính phủ
đóng) nhưng một số nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam thì phần lương hưu chính là nợ của nhà nước đối với công chức, đã khơng được tính vào nợ cơng.
14



Tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay của Việt Nam, trước những nhu cầu không nhỏ
về nguồn vốn đầu tư nước ngoài, cũng như sức ép từ thâm hụt cán cân thanh toán,
minh bạch là một trong những yếu tố quan trọng mà Việt Nam cần xây dựng để củng
cố hình ảnh của đất nước trong con mắt của các nhà đầu tư. Hiện tại, nợ công ở Việt
Nam do Bộ Tài chính quản lý và chịu trách nhiệm cơng bố công khai trên trang thông
tin của Bộ. Tuy nhiên, nếu theo dõi website của Bộ Tài chính, thì cho đến nay, thông
tin này mới chỉ dừng lại ở các khoản nợ nước ngồi chứ chưa phải tồn bộ nợ cơng.
Những con số thống kê được đưa ra đơi lúc cịn lẫn lộn giữa nợ cơng và nợ chính phủ.
Thống kê tài chính Việt Nam hiện nay vẫn chỉ tập trung vào nợ nhà nước, nên cũng
khó lịng cho thấy tồn cảnh vấn đề tài chính cơng vì khu vực doanh nghiệp nhà nước
rất lớn và nhà nước vẫn phải chịu trách nhiệm nợ nần với khu vực này.
2. Biện pháp cho các nước
Về kiểm soát thâm hụt ngân sách
Thâm hụt ngân sách là vấn đề có tính thường trực của hầu hết các Chính phủ, song,
nếu khơng kiểm sốt tốt thâm hụt ngân sách thì nguy cơ gia tăng nợ cơng là khó tránh
khỏi. Ngun tắc trong kiểm sốt nợ công là "mỗi đồng nợ công ngày hôm nay phải
được bù đắp bằng thặng dư ngân sách ngày mai". Nếu khơng đáp ứng được địi hỏi có
tính ngun tắc này, mà lại để tái diễn tình trạng thâm hụt ngân sách cao và kéo dài thì
sẽ gây nên những áp lực to lớn về nghĩa vụ trả nợ trong tương lai.
Đồng thời, nó cũng làm dấy lên các quan ngại về tính bất an của mơi trường kinh tế
vĩ mơ và kích thích các hoạt động đầu cơ thao túng thị trường. Những điều này khiến
nguy cơ khủng hoảng nợ cơng ln tiềm ẩn nhất là tại những nước có nền kinh tế thị
trường còn yếu kém. Đối với Việt Nam, vấn đế kiểm soát thâm hụt ngân sách cần
được đặt ra nghiêm túc, bởi thâm hụt ngân sách của Việt Nam vẫn là vấn đề tồn tại cố
hữu, thậm chí đã và đang tiếp tục gây những quan ngại nhất định đối với cộng đồng tài
chính quốc tế (Ngày 15/12/2010, Moody's đã quyết định hạ một bậc tín nhiệm của trái
phiếu Chính phủ Việt Nam từ Ba3 xuống B1. Đầu tháng 8/2011, hãng đánh giá tín

dụng cơng bố duy trì mức tín nhiệm nợ cơng của Việt Nam là B+ (đây là mức ngang
với Mông Cổ và Venezuela nhưng thua Philipines và Indonesia). Vì hãng này cho
rằng, họ chưa thấy sự chuyển biến rõ rệt trong việc cắt giảm chi tiêu công - điểm căn
bản để xác định nợ công của Việt Nam.
Hãng này cũng cho rằng nợ công của Việt Nam đã vượt ngưỡng 50% GDP đang
cao hơn mức trung bình đối với hạng B. Ngày 19/8 hãng Standar & Poor's đã hạ một
mức tín nhiệm của Việt Nam từ BA xuống BB - mức thấp nhất so với các nước Đông
Nam Á chỉ ngang bằng với Bangladesh và Mông cổ), Những chỉ báo về nợ công của
Việt nam có tốc độ tăng trưởng rất nhanh những năm gần đây đang đặt ra những vấn
15


đề rất cấp bách phải tăng cường quản lý nợ công nếu không muốn những hệ quả xấu
xảy ra như của Argentina.
Về hiệu quả sử dụng vốn vay
Sử dụng vốn vay để đầu tư là con dao hai lưỡi, thể hiện: Nếu như nguồn vốn vay
được sử dụng hiệu quả thì sẽ đem lại những tác động tích cực, bởi đầu tư công thường
hướng vào các khu vực kinh tế then chốt, tạo hiệu ứng lan tỏa, nên sự hiệu quả của các
lĩnh vực được đầu tư từ vốn ngân sách, cho dù là đi vay để đầu tư, thì cũng có tác động
kích thích các khu vực kính tế khác trong nền kinh tế quốc dân nâng cao hiệu quả.
Nhưng ngược lại, nếu như đầu tư từ vốn ngân sách dàn trải, kém hiệu quả, ít hướng
vào chi cho đầu tư phát triển mà chủ yếu hướng vào duy trì và nâng cao đời sống phúc
lợi phồn vinh giả tạo, thậm chí lãng phí, thất thốt xuất phát từ tình trạng tham nhũng,
sẽ có những tác động rất tiêu cực kìm hãm sự phát triển của các khu vực kinh tế khác
và dẫn tới hiệu quả kinh tế xã hội sẽ bị suy giảm. Không những thế, các nghĩa vụ trả
nợ sẽ thiếu cơ sở thực thi. Sự việc PMU 18, của Vinashin, Vinalines... gần đây đưa ra
các báo động đỏ về sử dụng vốn vay mà khơng có sự kiểm soát chặt chẽ khiến vốn bị
thất thoát lớn, đồng thời, cũng góp một phần khơng nhỏ khiến Việt Nam bị liệt vào
nhóm các nền kinh tế "có rủi ro tín dụng cao".
Về quản lý nợ cơng

Tất cả các nước lâm vào khủng hoảng nợ cơng đều có ngun nhân từ sự quản lý
nợ công lỏng lẻo, thiếu một chiến lược quản lý nợ quốc gia hiệu quả. Thêm vào đó, sự
thiếu minh bạch về thơng tin kinh tế xã hội nói chung, trong đó đặc biệt là thơng tin về
thực trạng nợ công quốc gia sẽ khiến những nguy cơ tiềm ẩn về khả năng xảy ra khủng
hoảng không được phát hiện và cảnh báo kịp thời.
Một thực tế là, một số quốc gia việc thống kê tình hình nợ quốc gia thiếu trung
thực, thậm chí che giấu những thông tin bất lợi để tiếp tục nhận được các khoản trợ
giúp của nước ngoài và các tổ chức quốc tế; hoặc lợi dụng uy tín của quốc gia được
nâng cao để tăng cường vay nợ tài trợ cho các khoản chi tiêu để duy trì đời sống phúc
lợi giả tạo. Nếu như các quốc gia khơng có cơ chế để ngăn chặn những bất cập này thì
khủng hoảng nợ trước sau cũng sẽ bùng phát, bởi khơng có bất cứ cơ sở tài chính nào
để các quốc gia này có thể thực thi được các nghĩa vụ nợ của mình và làm khủng
hoảng niềm tin từ các nhà đầu tư nước ngồi.
Về kiểm sốt năng lực trả nợ của nền kinh tế
Về nguyên lý thì để các quốc gia có thể thanh tốn được các khoản nợ gốc thì các
món vay cơng phải được chính phủ kiểm sốt chặt, bảo đảm khơng có bất cứ sự thất
thốt nào. Nghĩa là, nếu như các khoản vốn vay đem đầu tư mà có sự thất thốt thì sẽ
đe dọa trực tiếp đến khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ gốc trong tương lai.
16


Cũng tương tự như vậy, để thanh tốn các món lãi phát sinh theo các nghĩa vụ gắn
với các khoản tiền mà chính phủ đã đi vay thì các khoản đầu tư này phải có lãi, bảo
đảm rằng khoản lãi thu được từ hoạt động đầu tư này ít nhất giúp các Chính phủ vay
nợ có thể thực hiện được nghĩa vụ trả lãi theo các hợp đồng vay nợ. Điều này cũng có
nghĩa rằng, các khoản tiền vay của Chính phủ phải có mục tiêu rõ ràng và chắc chắn
được quản lý tốt và luôn đạt hiệu quả cao.
Nếu như chưa chắc chắn đáp ứng được các yêu cầu này thì tốt nhất các Chính phủ
phải rất thận trọng, nếu như không muốn vướng vào chiếc bẫy nợ công trong tương lai
khiến các quốc gia ít có lối thốt hữu hiệu mà không bị trả giá đắt. Đối với Việt Nam,

nhằm tăng cường quản lý nợ công, ngày 27/7/2012, Thủ tướng Chính phủ đã cơng bố
Quyết định số 958/QĐ-TTg về phê duyệt Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của
quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, trong đó qui định: (i) Huy
động vốn vay và trả nợ phải nằm trong giới hạn các chi tiêu an tồn về nợ cơng, nợ
Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia; (ii)
Chủ động cải tiến cơng cụ quản lý nợ cơng, đa dạng hóa các hình thức vay vốn với chi
phí hợp lý, chuyển đổi cơ cấu vay theo hướng tăng dần tỷ trọng huy động vốn vay
trong nước, giảm dần mức độ vay nước ngoài và hạn chế bảo lãnh Chính phủ; (iii)
Chính phủ thống nhất quản lý huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ và quản lý
nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia hiệu quả, an toàn. Các qui định là cần thiết,
song, việc kiểm soát tuân thủ vẫn là vấn đề lớn đặt ra hiện nay, bởi nợ cơng là con dao
hai lưỡi, nó có thể khiến các quốc gia đối mặt với những bất ổn lớn nếu như khơng
kiểm sốt nợ cơng hiệu quả.
( />
3. Những giải pháp cho Việt Nam hiện nay
a. Đánh giá giai đoạn 2011 - 2015
Đến ngày 31-12-2015, mức dư nợ công dự kiến khoảng 61,3%GDP, nợ Chính phủ
khoảng 48,9%GDP và nợ nước ngồi của quốc gia khoảng 41,5%GDP, trong phạm vi
quy định. Tuy nhiên, dư nợ công những năm qua đã tăng từ năm 2011 đến năm 2015
tăng thêm khoảng 7%GDP do yêu cầu phải tăng vay để đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
b. Định hướng giai đoạn 2016 – 2020
Để có thể kiểm sốt nợ cơng trong khi vẫn thực hiện mục tiêu tăng trưởng GDP
đầy tham vọng 6,5%-7% trong giai đoạn 2016-2020, thời gian tới, Chính phủ cần tăng
cường kỷ luật tài khóa, gia tăng cơng tác quản lý và kiểm soát đối với các khoản chi từ
ngân sách nhà nước. Trên cơ sở dự báo tình hình trong nước và quốc tế, dự kiến thu
ngân sách nhà nước thời gian tới không tăng đột biến, trong khi nhu cầu chi ngân sách
nhà nước phải tăng lớn để trả các khoản nợ đến hạn, đầu tư cơ sở hạ tầng, bảo đảm
17



quốc phịng, an ninh trong tình hình mới và tiếp tục thực hiện tốt các chính sách an
sinh xã hội, vì vậy cân đối ngân sách nhà nước tiếp tục phải bội chi ở mức hợp lý để
đầu tư phát triển.
Theo đó, Chính phủ sẽ khó có thể tiếp tục gia tăng tỷ lệ huy động/GDP cho ngân
sách nhà nước, do tỷ lệ này đang ở mức cao và đã gia tăng mạnh trong mấy năm vừa
qua. Giải pháp chính giúp kiểm sốt thâm hụt ngân sách và nợ cơng trong thời gian tới
đó là kiểm sốt chi. Thực tế là tỷ trọng chi thường xuyên trong ngân sách nhà nước
đang ở mức rất cao, chiếm đến 82% tổng chi trong năm 2015, tăng mạnh so với tỷ lệ
69% trong năm 2010. Điều này phản ánh thực tế là công tác kiểm sốt chi thường
xun cịn lỏng lẻo, khiến số liệu quyết toán ngân sách thường cao hơn nhiều so với số
liệu dự toán. Cần giảm áp lực chi ngân sách nhà nước, việc cơ cấu lại ngân sách nhà
nước cũng sẽ được tiếp tục triển khai, phấn đấu đến năm 2020 tỷ trọng chi thường
xuyên giảm xuống khoảng 58% (giảm khoảng 9 -10% so với tỷ trọng bố trí dự tốn
năm 2015).
Bên cạnh đó, nhiều khoản chi cịn mang tính cấp phát, khơng có nghĩa vụ hồn trả,
hay chi phí sử dụng vốn thấp đã khiến đối tượng hưởng thụ khơng có động lực để sử
dụng vốn một cách có hiệu quả nhất, gây lãng phí ngân sách nhà nước. Việc tăng lãi
suất cho các khoản vay từ ngân sách nhà nước sẽ là một giải pháp quan trọng nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn.
Ngoài ra, việc đẩy mạnh sự tham gia của khu vực tư nhân và các nhà đầu tư nước
ngoài trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cung cấp dịch vụ cơng có thể là một
giải pháp cần đẩy mạnh hơn nữa khi nguồn vốn đầu tư phát triển từ ngân sách có thể bị
hạn chế từ năm 2017 (do tỷ lệ nợ công đã tiến sát trần). Đặc biệt, thúc đẩy mạnh mẽ
các hình thức đầu tư ngồi ngân sách nhà nước để tăng nguồn lực đầu tư toàn xã hội;
tăng chi trả nợ, giảm số vay đảo nợ; triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, thực hiện
nghiêm chủ trương tinh giản biên chế; thúc đẩy cải cách mạnh mẽ khu vực sự nghiệp
cơng kết hợp xã hội hóa, cổ phần hóa một số đơn vị sự nghiệp cơng có điều kiện nhằm
nâng cao hiệu quả chi, giảm áp lực bố trí chi từ ngân sách nhà nước.
Chính phủ nên đẩy mạnh vay nợ trực tiếp, thu hẹp các khoản vay được Chính phủ
bảo lãnh và các khoản vay của Chính quyền địa phương. Việc này giúp công tác quản

lý nợ công mang tính tập trung và hiệu quả hơn, tránh hiện tượng tự phát hoặc “lách
rào” của các địa phương. Tái cơ cấu lại các khoản nợ và tạo lực cầu mới cho kênh trái
phiếu để giảm chi phí lãi vay. Trong thời gian tới, việc đảm bảo duy trì tỷ trọng của
kênh ODA, giãn lộ trình phát hành đồng thời tạo thêm lực cầu mới cho kênh trái phiếu
Chính phủ và tập trung cho các kỳ hạn dài (đặc biệt là việc xem xét cho phép thành lập
và vận hành các quỹ bảo hiểm hưu trí tự nguyện) sẽ giúp giảm bớt áp lực cho mặt bằng
lãi suất cũng như chi phí lãi vay hàng năm.
18


Quản lý chặt chẽ nợ công, nhất là các khoản vay mới. Nợ công chỉ sử dụng cho đầu
tư phát triển, xây dựng các cơng trình hạ tầng kinh tế xã hội quan trọng, thiết yếu theo
quy hoạch. Cần có chế tài tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa,
đầu tư cơng và quản lý nợ công; từng bước giảm tỷ lệ vốn đầu tư của nhà nước, tăng
xã hội hóa. Việc vay nợ phải tuân thủ chương trình quản lý nợ trung hạn, gắn kết chặt
chẽ với kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, kế hoạch tài chính và đầu tư cơng trung hạn
5 năm đã được phê duyệt. Đồng thời, quản lý chặt chẽ các khoản vay có bảo lãnh của
Chính phủ theo hướng siết chặt điều kiện cấp bảo lãnh, không mở rộng diện, chọn lọc
có mục tiêu ưu tiên, tiến tới thu hẹp bảo lãnh Chính phủ và kiểm sốt việc bảo đảm trả
nợ đối với các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh.
Tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay, bảo đảm hiệu quả đầu tư,
chất lượng công trình và theo đúng quy định của pháp luật. Tăng cường việc đôn đốc
các bộ, ngành, địa phương, chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thi cơng cơng trình, sớm hoàn
thành đưa vào sử dụng, rút ngắn thời gian hoàn vốn, giảm thiểu chi phí vay góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Chủ động ngăn ngừa và xử lý nghiêm các hành vi tiêu
cực, tham nhũng, lãng phí.
Thay đổi cơ cấu nợ công Việt Nam: thực sự thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng
tăng tỷ trọng nợ trong nước nhiều hơn nữa. Để thay đổi cơ cấu nợ cơng, Chính phủ
Việt Nam nên phát hành trái phiếu chính phủ ghi bằng nội tệ nhiều hơn. Để nâng cao
chất lượng các đợt đấu thầu mua trái phiếu chính phủ, chính phủ nên đưa ra một mức

lãi suất phù hợp hơn với lãi suất thị trường và yêu cầu của nhà đầu tư.
Trên cơ sở định hướng thu, chi ngân sách nhà nước giai đoạn này, Chính phủ dự
kiến mức bội chi ngân sách nhà nước bình quân của giai đoạn 2016 – 2020 tính theo
Luật ngân sách nhà nước hiện hành khoảng 4,9%GDP; đồng thời đặt mục tiêu dư nợ
cơng khơng q 65%GDP, dư nợ của Chính phủ khơng q 55%GDP, dư nợ nước
ngồi của quốc gia khơng quá 50%GDP. Để đạt được định hướng về dư nợ công và
bội chi ngân sách nhà nước nêu trên, cần phải thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp,
trong đó quan trọng nhất là tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất – kinh doanh, thúc
đẩy kinh tế phát triển ở mức cao hơn giai đoạn 2011 – 2015, tạo điều kiện tăng thu
ngân sách nhà nước, giảm áp lực chi ngân sách nhà nước về an sinh xã hội. Đồng thời,
cần thực hiện cơ cấu lại các khoản nợ cơng; điều chỉnh chính sách thu; cơ cấu lại chi
ngân sách. Theo đó:
 Đối với nhóm giải pháp về cơ cấu lại các khoản nợ công:
Thứ nhất: Tổ chức tổng kết, đánh giá lại Chiến lược nợ công đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030 cũng như Luật quản lý nợ cơng, trên cơ sở đó sẽ kiến nghị với
Quốc hội cho sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới.

19


Thứ hai: Đẩy mạnh huy động các khoản vay trung, dài hạn, triển khai có hiệu quả
các nghiệp vụ quản lý và xử lý rủi ro đối với danh mục nợ cơng; ưu tiên bố trí chi trả
nợ.
Thứ ba: Nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản vay của Chính phủ, giảm dần hạn
mức cấp bảo lãnh Chính phủ; rà sốt, loại bỏ các dự án khơng hiệu quả; kiểm sốt chặt
chẽ các khoản bảo lãnh Chính phủ, các khoản nợ của chính quyền địa phương, nợ xây
dựng cơ bản của các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương; quản lý nâng cao hiệu
quả sử dụng các khoản vay về cho vay lại, để giảm thiểu phát sinh các nghĩa vụ nợ dự
phịng của Chính phủ.
Thứ tư: Tăng cường phát triển thị trường vốn trong nước cả về chiều rộng và chiều

sâu nhằm đa dạng hóa kỳ hạn phát hành, trong đó tập trung phát hành trái phiếu chính
phủ kỳ hạn dài từ 5 năm trở lên.
 Giải pháp đối phó rủi ro của các khoản nợ cơng
Những vấn đề về nợ công ở Việt Nam hiện nay cho thấy một số nguy cơ tiềm ẩn
mang tính dài hạn nằm ở những yếu kém mang tính nội tại của nền kinh tế. Do đó, một
số vấn đề Chính phủ cần phải xem xét các giải pháp trước những rủi ro của nợ cơng
trong bối cảnh hiện nay, đó là:
Thứ nhất: Việc tính tốn tỷ lệ nợ cơng cần nhất qn theo thơng lệ quốc tế nhằm
nâng cao tính chịu trách nhiệm của các đối tượng có liên quan, tăng cường tính kỷ luật
ngân sách đồng thời giúp việc quản lý nợ cơng đảm bảo tính chính xác, đồng bộ.
Thứ hai: Kiểm soát, xử lý các dự án đầu tư công kém hiệu quả. Phân cấp đầu tư,
tránh việc đầu tư dàn trải bằng vốn ngân sách trên tất cả các lĩnh vực, các ngành nghề
như hiện nay, đặc biệt là các dự án có tính chất thương mại như điện, xi măng do các
doanh nghiệp nhà nước đảm nhận. Chú ý năng lực tự tồn tại của các doanh nghiệp, cần
có những điều chỉnh phù hợp để nguồn lực được phân bổ đến những khu vực có năng
suất cao hơn tạo điều kiện phát triển kinh tế.
Thứ ba: Tiếp tục rà sốt, cắt giảm chi thường xun trong đó cần tinh gọn bộ máy
hành chính trên cơ sở có lộ trình từ các biện pháp tiết kiệm đến tinh giản biên chế.
Thứ năm: Cần có sự giám sát chặt chẽ các khoản chi từ Trung ương cho địa
phương, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả ngay từ khâu kiểm tra,
đánh giá dự án.
Thứ sáu: Tiếp tục cải cách hệ thống thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm
nuôi dưỡng nguồn thu trong tương lai. Tăng cường hiệu quả thu ngân sách, tránh thất
thoát, thất thu thuế. Hiện tại, có thể cân nhắc đối với thuế giao dịch bất động sản, thuế
đánh vào các mặt hàng xa xỉ hay thuế ô nhiễm môi trường.

20




×