Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Đề tài thưc trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào việt nam trong giai đoạn 2015 2020”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.95 KB, 46 trang )

ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC
ĐỀ TÀI “Thưc trạng và giải pháp nhằm
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
1
Lời mở đầu
Vốn nước ngoài là một nhân tố cực kỳ quan trọng và cần thiết cho quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở bất kỳ một nước hay một nền kinh tế
đang phát triển nào. Đặc biệt là trong giai đoạn hiên nay khi mà xu hướng mở
cữa hội nhập quốc tế đã trở thành phổ biến.
Hơn nữa nước ta là một nước nông nghiệp lạc hẩu trình độ kỷ thuật thấp
kém, năng suất lao động thấp, tích luỹ nội bộ thấp, lại chịu hậu quả nặng nề
của chiến tranh. Do dó vấn đề về vốn hiện nay đang là vấn đề nan giải và khó
giai quyết nhất. Trước tình hình đó Việt Nam đã thực thi nhiều giải pháp để
tạo nguồn vốn đặc biệt là các giải pháp nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nứơc
ngoài. Tháng 12 năm 1987 nước ta đã ban hành luật đầu tư nước ngoài, từ đó
đến nay đã có trên 60 quốc gia, vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt nam, trong
đó có những tập đoàn lớn như SONY, DEAWOO, FORD, HONDA …. Đầu
tư nước ngoài đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế nước
ta trong hơn mười năm qua, như giải quyết vấn đè về vốn, công nghệ, nâng
cao trình độ quản lý ….
Do nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài
cũng như sự đóng góp của nó vào sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta
trong những năm qua, cho nên em đã chọn đề tài “Thưc trạng và giải pháp
nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay”.
Với trình độ hiểu biết cũng như thời gian nghiên cứu còn hạn chế cho
nên bài viết không tránh khỏi những thiếu só và sai lầm. Em rất mong được
sự góp ý của thầy cô giáo để học hỏi thêm và bổ sung cho bài viết được hoàn
thiện hơn.


2
Phần I
LÝ LUẬN CHUNG
1. Các khái niệm về đầu tư.
a. Đầu tư.
Đầu tư là một hoạt động kinh tế, là một bộ phận của sản xuất - kinh
doanh của các doanh nghiệp. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng tiềm
lực của nền kinh tế nói chung của từng doanh nghiệp nói riêng, là động lực để
thúc đẩy xã hội đi lên. Do vậy, trứơc hết cần tìm hiểu khái niệm về đầu tư.
Khái niệm:
Đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những nguồn lực ở hiện tại (tiền, sức lao
động, của cải vật chất, trí tuệ . . . ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho
chủ đầu tư trong tương lai.
Về mặt địa lý, có hái loại hoạt động đầu tư:
- Hoạt động đầu tư trong nước.
- Hoạt động đầu tư nớc ngoài.
b. Đầu tư nước ngoài.
b. 1. Khái niệm.
Đầu tư nước ngoài là phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để
tiến hành sản xuất - kinh doanh , dịch vụ với mục đích kiếm lợi nhuận và
những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định.
b. 2 Bản chất và hình thức đầu tư nước ngoài.
Xét về bản chất, đầu tư nước ngoài là những hình thức xuất khẩu tư bản,
một hình thức cao hơn xuất khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, hai hình thức xuất
khẩu này lại có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ và bổ sung nhau trong
chiến lược xâm nhập, chiếm lĩnh thị trường của các nhà đầu tư nước ngoài.
Hoạt động buôn bán hàng hoá ở nước sở tại là bước đi tìm kiếm thị trường,
tìm hiểu luật lệ để có cơ sở ra quyết định đầu tư. Ngược lại, hoạt động đầu tư
3
tại các nước sở tại là điều kiện để các nhà đầu tư nước ngoài xuất khẩu máy

móc, vật tư, nguyên liệu và khai thác tài nguyên thiên nhiên của nước đó.
Hoạt động đầu tư nước ngoài diễn ra dưới hai hình thức:
Đầu tư trực tiếp ( Foreign - Direct - Investment: FDI ).
Đầu tư gián tiếp (Portgalio - Investment : PI ).
Trong đó đầu tư trực tiếp là hình thức chủ yếu còn đầu tư gián tiếp là
“bước đệm”, tiền đề để tiến hành đầu tư trực tiếp.
Đầu tư trực tiếp là một hình thức đầu tư nước ngoài trong đó chủ đầu tư
đầu tư toàn bộ hay một phần đủ lớn vốn đầu tư vào các dự án nhằm dành
quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh, dịch vụ hoặc thương mại.
b. 3 Đặc điểm của hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thứ nhất, đây là hình thức đầu tư mà các chủ đầu tư được tự mình ra
quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về
lỗ, lãi. Hình thức đầu tư này mang tính khả thi và có hiệu quả cao, không có
những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
Thứ hai, chủ đầu tư nứơc ngoài điều hành toàn bộ hoặc một phần công
việc của dự án.
Thứ ba, chủ nhà tiếp nhận được công nghệ kỹ thuật tiên tiến, học hỏi
kinh nghiệm quản lý hiện đại. . . của nước ngoài.
Thứ tư, nguồn vốn đầu tư không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu mà còn
có thể được bổ sung, mở rộng từ nguồn lợi nhuận thu được từ chủ đầu tư
nước ngoài.
2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo xu hướng thế giới hiện nay, hoạt động đầu tư nước ngoài diễn ra
chủ yếu dưới các hình thức:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
- Doanh nghiệp liên doanh.
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
4
- Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển (BOT), hợp đồng xây dựng

- chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT).
- Hợp đồng ký theo các hiệp định của chính phủ.
- Hợp đồng phân chia lợi nhuận, sản phẩm. . . .
Theo qui định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam được diễn ra dưới ba hình
thức:
Một là: Đầu tư thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết
giữa hai bên hoặc nhiều bên, gọi là các bên hợp doanh, qui định phân chia
trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư
kinh doanh ở Việt Nam mà không thành lập pháp nhân.
Hai là: Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều
bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp
định ký kết giữa chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài, hoặc là
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam,
hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ
sở hợp đồng liên doanh.
Ba là: Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu
tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam.
Ngoài ra, các hình thức và môi trường thu hút vốn đầu tư là: khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. . . .
3. Tính tất yếu khách quan của hoạt động đầu tư nước ngoài.
a. Tính tất yếu khách quan của hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
Trong tiến trình phát triển của nền kinh tế thế giới, nhiều quốc gia đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế của
mình. Những quốc gia này đã có sự đầu tư rất lớn vào sản xuất và khai thác
các dạng tài nhuyên thiên nhiên. Khi trình độ phát triển kinh tế đạt đến mức
cao, nhu cầu về vốn ở trạng thái bão hoà, dư thừa, cơ hội đầu tư ít, chi phí cao
5
thì khi đó các quốc gia có nhu cầu đầu tư vào các quốc gia khác trên thế giới

nhằm tậm dụng những lợi thế về lao động, tài nguyên thiên nhiên, thị trờng. . .
của những nước đó. Mặt khác, các quốc gia có những lợi thế đó thì nhu cầu về
vốn cho phát triển kinh tế rất bức xúc. Vì vậy, họ đã có nhiều chính sách để
thu hút những nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào. Có nhu cầu vốn, có nguốn
cung cấp từ đó làm xuất hiện những dòng vốn qua lại giữa các quốc gia. Các
dòng vốn di chuyển tuân theo đúng qui luật từ nơi nhiều đến nơi ít một cách
khách quan, do vậy hoạt động đấu tư ra nước ngoài mang tính tất yếu khách
quan.
Ngày nay, hoạt động đầu tư nước ngoài diễn ra một cách sôi nổi và rộng
khắp trên toàn cầu. Các luồng vốn đầu tư không chỉ di chuyển từ các nước
phát triển, nơi nhiều vốn sang các nước đang phát triển, nơi ít vốn, mà còn có
sự giao lưu giữa các quốc gia phát triển vơi nhau. Hiện tượng này xuất phát từ
những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra nhanh
chóng với qui mô và tốc độ ngày càng lớn tạo nên một nền kinh tế thị trờng
toàn cầu trong đó tính phụ thuộc lãn nhau của các nền kinh tế mỗi quốc gia
ngày càng tăng. Quá trìng này diễn ra nhanh chóng sau thời kỳ chiến tranh đã
chi phối thế giới trong nửa thế kỷ, làm cho các nền kinh tế của từng quốc gia
đều theo xu hướng mở cửa và theo quĩ đạo của kinh tế thị trường, bằng chứng
là phần lớn các quốc gia đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO),
chấp nhận xu hớng tự do hoá thương mại và đầu tư. Trong điều kiện trình độ
phát triển sản xuất, khả năng về vốn và công nghệ, nguồn tài nguyên thiên
nhiên, mức độ chi phí sản xuất . . . ở các nước khác nhau thì nguồn vốn đầu
tư nước ngoài sẽ tuân theo những qui luật của thị trường vốn là chảy từ nơi
thiều đến nơi thiếu vốn với mục tiêu lợi nhuận.
Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo nên sự biến đổi
nhanh chóng và kì diệu của sản xuất. Thời gian từ khâu nghiên cứu đến ứng
dụng vào sản xuất rất ngắn, chu kỳ sống của sản phẩm ngày càng ngắn lại, sản
6
phẩm hàng hoá phong phú và đa dạng hơn. Đối với doanh nghiệp, nghiên cứu

và đổi mới thiết bị có ý nghĩa sống còn cho sự tồn tại và phát triển. Còn đối
với các quốc gia thì việc làm chủ và đi đầu trong khoa học - công nghệ sẽ
quyết định vị trí lãnh đạo chi phối hay phụ thuộc vào các nước khác trong
tương lai. Chính vì vậy, cuộc đua giữa các quốc gia đặc biệt là các nước phát
triển bên thềm thế kỷ XXI diễn ra ngày càng quyết liệt. Bên cạnh đó, sự hát
triển một cách nhanh chóng của cách mạng thông tin, bưu chính viễn thông,
phương tiện giao thông vận tải đã khắc phục sự xa cách về không gian, giúp
các chủ đầu tư thu thập xử lý thông tin kịp thời, đưa ra những quyết định đầu
tư, điều hành sản xuất kinh doanh đúng đắn mặc dù ở xa hàng vạn km. Những
điều này đã tạo nên một sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia, mở rộng qui
mô để chuyển vốn giữa các quốc gia, mở rộng qui mô để chuyển vốn trên
toàn cầu đến các địa chỉ đầu tư hấp dẫn.
Tại các nước công nghiệp phát triển, khi trình độ kinh tế phát triển ở
mức cao đã góp phần nâng cao mức sống và khả năng tích luỹ vốn của các
nước này. Điều đó, một mặt đẫn đến hiện tượng “thừa” tương đối vốn ở trong
nước, mặt khác làm cho chi phí tiền lương cao, nguồn tài nguyên thu hẹp và
chi phí khai thác tăng đẫn đến giá thành sản phẩm tăng, tỷ suất lợi nhuận giảm
đần, sức cạnh tranh trên thị trờng yếu. Chính vì lẽ đó, các nhà đầu tư trong
nước tìm kiếm cơ hội đầu tư ở nớc ngoài để giảm chi phí sản xuất, tìm kiếm
thị trường mới, nguồn nguyên liệu mới nhằm thu lợi nhuận cao.
Hiện nay, trình độ phát triển kinh tế giữa các nước công nghiệp phát
triển và các nước đang phát triển ngaỳ càng giãn cách nhưng sự phát triển của
một nền kinh tế toàn cầu đang đòi hỏi phải kết hợp chúng lại. Các nước phát
triển không chỉ tìm thấy ở các nước đang phát triển những cơ hội đầu tư hấp
dẩn do chi sản xuất giảm, lợi nhuận cao, thuận lợi trong việc dịch chuyển thiết
bị, công nghệ lạc hậu mà còn thấy rằng sự thịnh vượng của các nước này sẽ
nâng cao sức mua và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Ngược lại, các
nước đang phát triển cũng đang trông chờ và mong muốn thu hút được vốn
7
đầu tư, công nghệ của các nước phát triển để thực hiện công nghiệp hoá, khắc

phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa.
b. Tính tất yếu khách quan phải thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam.
Ngày nay xu hướng quốc tế hoá toàn cầu hoá đang diễn ra một cách
mạnh mẽ trên thế giới. Các nền kinh tế tác động, bổ sung và phụ thuộc lẫn
nhau. Các quốc gia bị cuốn vào vòng xoáy của quá trình hội nhập kinh tế,
chuyên môn hoá, hợp tác hoá nhằm tận dụng vốn, công nghệ và trình độ quản
lý của nhau.
Xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu. Hơn 70%
dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp: năng suất lao động thấp, trình
độ kỹ thuật thấp, tích luỹ nội bộ thấp, sử dụng viện trợ nước ngoài không có
hiệu quả. Ngoài ra, nước ta vừa ra khỏi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc nên
những tàn dư mà ta chưa khắc phục được còn nhiều: cơ sở hạ tầng thấp kém,
đời sống nhân dân còn khó khăn, chính sách chưa đồng bộ . . . . Vì vậy, nhiệm
vụ cấp bách của chúng ta hiện nay là phải phát triển kinh tế, nâng cao mức
sống của nhân dân, xây dựng cơ sở hạ tầng. Để thực hiện điều đó thì chúng ta
cần một lượng vốn rất lớn. Trong điều kiện khả năng đáp ứng của nền kinh tế
là có hạn thì chúng ta không còn con đuờng nào khác là thu hút sự hợp tác
đầu tư của nước ngoài. Để thực hiện điều đó, tại đại hội VI (12/1986), Đảng
và Nhà nước đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, đẩy mạnh hoạt động kinh tế
đối ngoại nhằm tận dụng “những khả năng to lớn của nền kinh tế thế giới về
di chuyển vốn, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm để
bổ sung và phát triển có hiệu quả các lợi thế và nguồn lực trong nớc”. Đảng
chủ trương “Đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại” với
quan điểm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Tại
đại hội VIII, Đảng chủ trơng “Vốn trong nước là chính, vốn nớc ngoài cũng
quan trọng”. Tất cả những tư tưởng đổi mới của Đảng và Nhà nước đã tạo
8
điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, hoạt động đầu
tư nước ngoài nói riêng.

Như vậy, quá trình thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là một xu
thế tất yếu phù hợp với xu thế của thế giới và yêu cầu phát triển của nền kinh
tế Việt Nam.
4. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang
phát triển.
Nguồn vốn đầu tư trưc tiếp nước ngoài có tác động không nhỏ đối với
các nước nhận đầu tư, đặc biệt các nước phát triển trên cả hai mặt ; tích cực
và tiêu cực
a. Tác đông tích cực .
Thứ nhất, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ xung một nguồn
quan trọng
Bù đắp sự thiếu hụt vốn đầu tư cho phát triển kinh tế ở các nước đang
phát triển.
Thứ hai, đầu tư trực tiếp đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Để tham gia ngày càng nhiều vào quá
trình phân công lao động quốc tế , thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước
ngoài đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế của mình cho phù
hợp. Mặt khác, sự gia tăng của hoạt động đầu tư nước ngoài làm xuất hiện
nhiều ngàng mới, lĩnh vực mới
Góp phần thúc đẩy sự phát tiển nhanh chóng trình độ kĩ thuật - công
nghệ của nhiều ngành kinh tế thúc đẩy sự gia tăng năng suất lao động ở các
ngành này và tăng tỷ phần của nó trong nên kinh tế. Nhiều ngành được kích
thích phát triển còn nhiều ngành bị mai một và đi đến xoá sổ.
Thứ ba, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần phát triển
nguồn nhân lực, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài thường đòi hỏi nguồn lao động có chất lượng cao
do đó sự gia tăng các dự án đầu tư nước ngoài đã đặt ở các nước sở tại trước
9
yêu cầu khách quan là phải nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn kỹ
thuật , trình độ ngoại ngữ. . . cho người lao động.

Thứ tư, hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài đã góp phần tăng tỷ
trọng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước .
Thứ năm, đầu tư trực tiêp nước ngoài thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế ở các
quốc gia này. Tận dụng, tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước
đang phát triển đã sử dụng để thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát
triển kinh tế nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trởng kinh tế, thoát khỏi vòng luẩn
quẩn của sự nghèo đói.
b. Tác động tiêu cực.
Bên cạnh những ưu điểm trên, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn
bộc lộ nhiều mặt hạn chế.
Một là, đầu tư nươc ngoài đã tạo ra một cơ cấu bất hợp lí. Mục đích của
các nhà đầu tư nước ngoài là tìm kiếm lợi nhuận ngày càng nhiều do đó họ
chủ yếu đâù tư vào các ngành công nghiệp, dịch vụ nơi có mức tỷ suất lợi
nhuận cao.
Hai là, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại hiện tượng “chảy
máu chất xám”. Các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi về thu
nhập, việc làm do đó đã lôi kéo một bộ phận không nhỏ cán bộ khoa học, nhà
nghiên cứu, công nhân lành nghề của nước ta về làm việc cho họ.
Ba là, chuyển giao công nghệ lạc hậu. Dưới sự tác động của cuộc cách
mạng khoa học - kỹ thuật, quá trình nghiên cứu - ứng dụng ngày càng được
rút ngắn, máy móc thiết bị nhanh chóng trở nên lạc hậu. Để loại bỏ chúng,
nhiều nhà đầu tư đã cho chuyển giao sang các nớc nhận đầu tư như một phần
vốn góp . Việc làm đó đã làm cho trình độ công nghệ của các nước nhận đầu
tư ngày càng lạc hậu.
10
Bốn là, chi phí để tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn. Các
nước nhận đầu tư đã phải áp dụng nhiều ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài
như: giảm thuế, miễn thuế, giảm tiền thuê đất, nhà xưởng . . . .
Năm là, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra sự cạnh tranh với
các doanh nghiệp trong nước. Với ưu thế về vốn, công nghệ, các dự án đầu

tư nước ngoài đã đặt các doanh nghiệp trong nớc vào vòng xoáy cạnh tranh
khốc liệt về thị trường, lao động và các nguồn lực khác.
Sáu là, các tác động tiêu cực khác. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
còn có thể gây ra những bất ổn về chính trị, mang theo nhiều tệ nạn xã hội
mới xâm nhập vào nước ta.
5. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
Đầu tư nước ngoài là một hoạt động kinh tế có vai trò rất lớn đối với các
nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuy thế, việc thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố chủ
quan và khách quan.
5. 1 Luật đầu tư.
Nhân tố này sẽ kìm hãm hoặc thúc đẩy sự gia tăng của hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài thông qua cơ chế, chính sách, thủ tục, ưu đãi, được qui
định trong luật.
5. 2. Ôn định chính trị.
Đây là nhân tố không thể xem thường bởi vì rủi ro chính trị có thể gây
thiệt hại lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
5. 3. Cơ sở hạ tầng.
Việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng như giao thông, vận tải, thông
tin liên lạc, điện nước . . . sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các dự
án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
5. 4. Đặc điểm thị trường của nước nhận vốn.
11
Đây có thể nói là yếu tố hàng đầu ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu
tư nước ngoài. Nó được thể hiện ở qui mô, dung lượng của thị trường, sức
mua của các tầng lớp dân cư trong nước, khả năng mở rộng qui mô đầu t-
ư . . . , đặc biệt là sự hoạt động của thị trường nhân lực. Mặt khác, với giá
nhân công rẻ sẽ là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài,
nhất là với những dự án đầu tư vào lĩnh vực sử dụng nhiều lao động. Ngoài ra

trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ học vấn, khả năng quản lý. . . cũng có
ý nghĩa nhất định. Bởi vậy, lợi thế về thị trường sẽ có sức hút rất lớn đối với
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
5. 5. Khả năng hồi hương của vốn
Mặt khác, khả năng hồi của vốn cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tơi khả
năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nếu vốn và lợi nhuận đợc tự do qua
lại biên giới.
5. 6. Chính sách tiền tệ.
Mức độ ổn định của chính sách tiền tệ và mức độ rủi ro của tiền tệ ở
nước nhận vốn đầu tư là một nhân tố góp phần mở rộng hoạt động xuất khẩu
của các nhà đầu tư. Tỷ giá hối đoái cao hay thấp đều ảnh hưởng tới hoạt động
xuất nhập khẩu. Mức độ lạm phát của nền kinh tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
chi phí sản xuất, lợi nhuận thu được của các dự án có tỷ lệ nội địa hoá trong
sản phẩm cao.
5. 7. Các chính sách kinh tế vĩ mô.
Các chính sách này mà ổn định sẽ góp phần thuận lợi cho hoạt động của
các nhà đầu tư nớc ngoài. Không có những biện pháp tích cực chống lạm phát
có thể làm các nhà đầu tư nản lòng khi đầu tư vào các nước này. Một chính
sách thương mại hợp lý với mức thuế quan, hạn ngạch và các hàng rào thương
mại sẽ kích thích hoặc hạn chế đến việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoaì.
12
Ngoài ra, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn chịu ảnh hưởng của
nhiều nhân tố khác nhau: hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế, bảo vệ quyền
sở hữu . . . .
Vì vậy, để hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài diễn ra một
cách thuận lợi thì chúng ta cần xem xét, đánh giá sự ảnh hưởng của các nhân
tố trên trong mối quan hệ biện chứng nhằm tăng sức hấp dẫn của môi trường
đầu tư trong nứơc.
13

Phần II
TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM TỪ 1998 ĐẾN 2000
1. Thực trạng thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
việt nam từ 1988 đến đầu năm 2000.
Kể từ bắt đầu cuộc đổi mới đến nay, nền kinh tế nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn: tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục cao và ổn định
trong nhiều năm (bình quân thời kì 1991 - 1995 là 8, 1%/năm , năm 1996 là 9,
3%/năm, năm 1997 là 8, 15%/năm), cơ cấu kinh tế đang từng bước chuyển
dịchtheo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đời sống cùa người dân ngày
càng được nâng cao cả về vật chất và tinh thần, xã hội đang từng ngày thay
đổi. Tất cả những thành tựu trên cho thấy nền kinh tế nước ta đã thoát khỏi
tình trạng khủng hoảng và đang từng bước tiến vào thơì kỳ mới, thời kỳ công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Một trong những nguyên nhân của thành tựu đó làchủ trương mới của
Đảng về hoạt động kinh tế đối ngoại, trong đó có hoạt động thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Qua hơn mười năm, kể từ khi có luật
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam (12/1987) đến hết năm 1999, nước ta đã cấp
giấy phép cho 280 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký 36880
tr.USD.
Biểu đồ: vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (1988 - 1999)
Nguồn tổng hợp từ:
Đầu tư nước ngoài 1988 - 1997: Đánh giá tổng _Nguyễn Mại _ Tạp chí
cộng sản số 2/1998 trang 22 vài nét về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam _PTS. Phạm thị Thi _châu mỹ ngày náy số 2/1997 trang 24.
14
Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam sau khủng
hoảng kinh tế châu á: Vấn đề và giải pháp _ Phạm thi Tuý _kinh tế châu á -
Thái Bình Dương số 2 tháng 6/1999 trang 9.
Quá trình thu hút vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoái

vào Việt Nam được chia làm ba thời kì:
a. Thời kì 1988 - 1990.
Đây được coi là thời kì khơi động cho quá trình thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam.
Ngày 19/12/1987, nước ta đã chính thức ban hành luật đầu tư nước ngoài
vàp Việt Nam, khủng hoảng pháp lý quản lý và điều chỉnh hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Năm 1988, năm đầu tiên thực hiện luật đầu
tư nước ngoài, chúng ta đã cấp giấi phép đầu tư cho 37 dự án với tổng vốn
đăng ký là 336 tr.USD. Kết quả đó tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa rất quan trọng
đối với nước ta. Nó đánh dấu sự thành công ban đầu của công cuộc đổi mới,
mở cữa nền kinh tế, thực hiện đường lối mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Sau ba năm tiến hành thu hút vốn đâu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta
đã cấp giấy phép cho 218 dự án với tổng vốn đăng ký 1417 tr.USD. Tốc độ
tăng trưởng hàng năm đạt 255/năm. Quy mô mổi dự án đạt khoảng
7tr.USD/dự án. lĩnh vực đầu tư chủ yếu trong thời kì này là thăm dò dầu khí
32, 2%, khách sạn 20, 6% và bưu chính viễn thông, còn các lĩnh vực khác thì
rất íthầu như chưa được triển khai. Tổng số vốn thực hiện của cả thời kì đạt
40tr.USD băng 27%tổng vốn đăng kí.
Nguyên nhân của việc gia tăng vốn đầu tư chậm do đây là một lĩnh vực
còn rất mới đối với nước ta, chúng ta "vữa học, vừa làm", kinh nghiệm chưa
có nhiều. Mặt khác, đối với các nhà đầu tư nước ngoài, nước ta là một thị
trường mới mẻ vừa xa lạ, vừa hấp dẩn do đó họ thận trọng không dám mạo
hiểm, vừa làm vừa thăm dò.
15
Tuy thế những kết quả đạt được trên đây đã chứng minh triển vọng lạc
quan của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam trong thời gian
tới.
b. Thời kì 1991 - 1996.
Trong thời kì nàyhoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

tăng trưởng một cách nhanh chóng và có sự thay đổi lớn về chất lượng. Tính
từ năm 1991 đến năm 1996, chúng ta đã cấp giấy phép đầu tư cho 1765 dự án
với tổng vốn đăng kí là 24927 tr.USD, trong đó chỉ riêng năm 1991, năm thấp
nhất của thời kì, cũng đạt 1294tr.USD gần bằng cả ba năm của thời kì trước
cộng lại. Lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút vào Việt Nam đạt
mức cao nhất vào năm 1996 là 8258tr.USD gấp 5, 6 lần thời kì 1988 - 1990,
gấp 24, 5 lần 1988 và 6, 3 lần năm 1991. Tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư bình
quân hàng năm đạt 45%/năm. Quy mô mổi dự án không ngừng tăng lên qua
các năm.
Biểu 1: Quy mô mổi dự án đầu tư thời kì 1991 - 1996.
Đơn vị tính:tr.USD/dự án.
Tổng vốn thực hiện cả hời kì đạt 7341tr.USD bằng 30%tổng vốn đăng
kí. Mức vốn thực hiện không ngừng tăng lên qua các năm
Biểu 2: mức vốn thực hiện thời kì 1991 - 1996.
Đơn vị tính:tr.USD.
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996
Tổng vốn thực hiện 220 663 1002 1500 2000 2156
Tốc độ tăng trưởng 110, 4 116, 4 49, 7 33, 3 7, 8
Nguồn: thực trạng thu hút FDI những năm qua và triển vọng 1997_Tạ thị
Thu _tạp chí thương mại số 8/1997 trang3.
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996
Quy mô bình quân dự án 8, 86 10, 33 9, 57 11, 09 16, 21 22, 5
16
Thời kì này, các dự án đầu tư nước ngoài được phân bố rộng rãi trong
nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Nhiều ngành công nghiệp mới xuất
hiện như: công nghiệp điện tử, công nghệ sinh học, chế tạo xe máy, ôtô . . . .
Nhiều dự án có quy môlớn đã được triển khai như: Doanh nghiệp liên doanh
Chrysler - Việt Nam với tổng vốn đầu tư 190, 526tr.USD, dự án liên doanh
giữa công ty bưu chính viễn thông với tập đoàn Telstra (úc) với tổng vốn đầu
tư 287tr.USD, dự án đèn hình ORION - HANEL liên doanh giữa tập đoàn

DEAWOO (Hàn Quốc) với công ty điện tử Hanel có tổng vốn đầu tư
178tr.USD. Đặc biệt, năm 1996, nước ta đã cấp giấy phép cho hai dự án có
tổng vốn đầu tư lớn nhất từ trước đến nay. Đó là dự án xây dựng khu đô thị
nam Thăng Long - Hà Nội có tổng vốn đầu tư 2, 1 tỷ USDvà dự án xây dựng
khu đô thị An Phú - Thành Phố Hồ Chi Minh có tổng vốn đầu tư 996tr.USD.
Đây là một nguyên nhân đưa năm 1996 trở thành năm có mức thu hút vốn đầu
tư lớn nhất từ trước đến nay.
Nhiều khu công nghiệp, chế xuất, khu công nghệ chế tạo đã được xây
dựng như: khu công nghiệp Sài Đồng ở Hà Nội, khu công nghiệp Việt Nam -
SINGAPORE ở Sông Bé . . . .
Nhiều dự án quan trọng đã được triển khai như: Dự án BOT xây dựng
cảng Sao Mai - Bến Đình ở Vũng Tàu, Dự án khôi phục cải tạo quốc lộ 1,
quốc lộ 5 và nâng cấp một số tuyến đường quan trọng khác.
Sự hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra
nhiều sản phẩm mới có chất lượng cao, giá thành hạ đáp ứng nhu cầu trong
nước và xuất khẩu.
Ngoài ra, các kết quả khả quan của các dự án thăm dò dầu khí đã tạo cơ
sơ để phát triển ngành công nghiệp lọc dầu, hoá dầu thành ngành công nghiệp
mũi nhọn ở nước ta.
c. Thời kì 1997 - 1999.
Thời kì này, tốc độ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có dấu hiệu
chững lại và giảm dần. Trong cả năm 1999, chúng ta đã cấp giấy phép cho
17
274 dự án với tổng vốn đăng kí 1477tr.USD, đưa tổng số dự án cả thời kì
được cấp giấy phép là 867 dự án 9982tr.USD. Quy mô bình quân mổi dự án
có sự giảm sút nghiêm trọng. Nếu đầu thời kì năm 1997, quy mô bình quân
mổi dự án là 13,34tr.USD/dự án (giảm từ 22,50tr.USD/dự án của năm1996)
thì qua hại năm sau, quy mô mổi dự án chỉ còn 5,3tr.USD/dự án thấp hơn so
với mức bình quân của năm 1998 là 9,08trUSD.
Giải thích sự giảm sút của hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời kì này

ta thấy nổi lên một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Phần lớn vốn đầu
tự trực tiếp nước ngoài là thu hút thu hút từ các nhà đầu tư trong khu vực nên
khi xảy ra khủng hoảng, các nhà đầu tư trong khu vực gặp khó khăn về tài
chính do đó họ giảm việc đầu tư ra nước ngoài dẩn đến lượng vốn đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam giảm.
Do sức hấp dẩn của môi trường đàu tư nước ta ngày càng giảm vì sự
thay đổi của một số chủ trương, chính sách cũng như một sự biến động của tỉ
giá hối đoái, giá cả, sức mua của thị trường trong nước . . . .
Mắc dù có sự giảm mạnh về số lượng đăng kí nhưngmức vốn vẩn không
ngừng tăng lên khoảng 50%/năm và đang có sự chuyển biến lớn trong xu
hướng đầu tư: từ đầu tư theo chiều rộng chuyển sang đầu tư theo chiều sâu.
2. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế
xã hộicủa Việt Nam.
Hơn mười năm qua, hoạt động đầu tư nước ngoài đã có nhiều đóng góp
cho sự phát triển của kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Trước hết, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đả bổ sung một phần
quan trọng vào nguồn vốn cho phát triển kinh tế của đất nước ta, khắc phục
tình trạng thiếu vốn của đất nước ta thời kì đổi mới. Vào thập kỉ 70 và đầu
thập kỉ 80 nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập
trung , tỉ lệ tiết kiệm thấp, thậm chí còn âm. Tuy nhiên, từ sau đổi mới tỉ lệ
tiết kiệm nước ta đã tăng lên đáng kể nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu về vốn
18
cho phát triển kinh tế trong nước. Hơn nữa, nước ta hàng năm phải trả nhiều
nợ cho nước ngoài trong khi ngân sách nhà nước luôn trong tình trạng thâm
hụt. Chính vì vậy, nguông vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một
nguồn quan trọng cung cấp vốn cho sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Biểu 3: Tổng vốn đầu tư và FDI giai đoạn 1990 - 1995
Đơn vị tính: tỷ đồng (tính theo gí năm 1994).
Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 Tổng

Tổng vốn đầu tư 14917 16707 21248 34176 43100 57000 187148
Tổng vốn FDI 2226 2860 2885 12210 19492 22000 61673
Tỷ trong FDI (%) 14, 9 17, 1 13, 5 35, 7 45, 2 38, 5 32, 29
Nguồn: đầu tư nước ngoài tính hai mặt của một vấn đề _Đỗ thị Thuý _tạp chí
nghiên cứu kinh tế số1/1998 trang 7.
Tính chung trong sáu năm từ 1990 đến 1995, vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã đóng góp khoảng 30% tổng vốn đầu tư cho phá triển kinh tế của
nước ta. Từ đó đến nay giao động quanh mức 30%.
Thứ hai, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là ngoại tệ mạnh
và máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại nên đã tạo ra cơ sở vật chất mới bổ
sung và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, tăng năng lực sản xuất của nền
kinh tế quốc dân nhất là công nghiệp. Chúng ta đã tiếp nhận một số kỉ thuật -
công nghệ tiên tiến trong nhiều ngành kinh tế như: công nghệ thông tin, bưu
chính viễn thông, thăm dò dầu khí, công nghiệp điện tử , sản xuất lắp ráp ôtô,
xe máy, hoá chất . . . .
Phần lớn công nghệ - kỉ thuật du nhập vào nước ta thuộc loại trung bình
của thế giới nhưng vẩn tiên tiến hơn những công nghệ hiện có.
Ngoài ra, chúng ta còn tiếp thu học hỏi được nhiều kinh nghiệm quant lí
tiên tiến của nước ngoài nên đã góp phần nâng cao chất lượng, đa dạng hoá
mẩu mả sản phẩm do Việt Nam sản xuất ra. Ba là, hạot động của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra một khối lượng hàng hoá và sản
phẩm lớn cho xuâts khẩu từ đó góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu cho
nước ta.
19
Biểu 4: Doanh thu và xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (1988 -
1996).
Đơn vị tính:tr.USD.
Năm 1988 -
1991
1992 1993 1994 1995 1996 Tổng số

Doanh thu 192 230 358 850 1277 1500 4407
Xuất khẩu 52 112 115 350 400 780 1809
Nguồn: Vài nét về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam_PTS. Phạm Thị
Thi_tạp chí châu Mỹ ngày nay số 2/1997. trang 25.
Tính chung từ năm 1988 - 1996 tổng giá trị xuất khẩu của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là1809 tr.USD bằng 41% tổng doanh thu
của khu vực này và trong các năm tỉ lệ này không ngừng tăng lên.
Cùng với định hướng xuất khẩu, các doanh nghiệp thuộc khu vực có vốn
đầu tư nươc ngoài đã hướng vào các ngành thay thế nhập khẩu như: xi măng,
thép xây dựng . . .
Bốn là, hoạt động của các doanh nghiệp thuộc khu vực đầu tư nước
ngoài đã tạo ra một khoản thu cho ngân sách thông qau tỉ lệ phí và thuế, mức
độ tăng lên qua các năm.
Biểu 5: Nộp ngân sách của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(1993 - 1996).
Đơn vị tính :tr.USD
Năm 1993 1994 1995 1996 Tổng số
Nộp thuế 120 128 195 300 743
Hơn nữa, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần quan
trọng tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của Viêt Nam trong thời gian dài,
chuyển dịch cơ câu kinh tế của Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá - hiện
đại hóa.
20
Năm là, hoạt động đầu tư nước ngoài còn góp phần hình thành các khu
vực công nghiệp, khu chế xuất, vùng kinh tế trọng điểm, ngành công gnhiệp
mũi nhọn của nền kinh tế nước ta. Tính đến cuối tháng 7/1998, Việt Nam đã
có 54 khu công nghiệp, khu chế xuất trong đó có 48 khu đi vào hoạt độnh trải
dài từ Bắc vào Nam.
Sáu là, về mặt xã hội, hoạt động đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều chổ
làm góp phần giải quyết khó khăn về việc làm trong nền kinh tế nước ta, tiết

kiệm ngoại tệ cho nước ta do chủ trương thay thế hàng nhập khẩu, nâng cao
mức sống của người lao động nói chung, người dân địa phương nơi doanh
nghiệp hoạt động nói riêng. đến hết tháng 3/200, các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài đã tạo việc làm trực tiếp cho 299720 lao động và hàng chục vạn
lao động gián tiếp. Nhiều cán bộ, kỉ sư của chúng ta khi vào làm việc trong
các doanh nghiệp này đã có điều kiện để phát huy năng lực của mình vươn lên
đảm nhận những công việc quan trọng, có uy tín với các đối tác nước ngoài,
tăng thêm lòng tin của họ vào nước ta.
Cuối cùng, hoạt động đầu tư nước ngoài đã góp phần đưa những tiềm
năng về đất đai, rừng, biển của nước ta trở thành hiện thực thông qua các dự
án thăm dò và khai thác dầu khí, dự án sản xuất linh kiện điện tử, dệt
may . . . .
đánh giá một cách tổng quát, trong hơn mười năm qua, hoạt động đầu tư
nước ngoài đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt
Nam, đặc biệt là giai đoạn hiện nay khi nước ta tiến hành công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước.
3. Những tồn tại của hoạt động đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh những vai trò to lớn trên, hoạt động đầu tư nước ngoài còn bộc
lộ nhiều hạn chế không nhỏ.
3. 1 Chính xách pháp luật chưa hoàn thiện
Nnhiều đối tác nước ngoài đã lợi dụng quan hệ hợp tác đầu tư hay sự sơ
hở trong chính sách và pháp luật của Việt Nam để buôn lậu và ttrốn thuế, gây
21
thiệt hại không nhỏ cho nước ta. Điển hình như vụ buôn lậu 1, 2 tr gói
"caraven"của công ty trách nhiệm hửu hạn hàng hải Lizera năm1993 hoặc vụ
nhà máy thuốc lá Lotabavà nhà máy thuốc lá khánh hoà hợp tác sản xuất
Malbro giả để xuất khẩu sang Hà Lan năm 1995.
3. 2 Nguồn thu hút vốn hẹp
Nguồn thu hút vốn chủ yếu của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là
từ các nước trong khu vực. đây là một trong những nguyên nhân lí giải cho sự

giảm sút của hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một vài
năm trở lại đây.
Biểu 7: Đối tác đầu tư nước ngoài_mười nước đầu tư lớn nhất vào việt Nam.
Đơn vị tính: tr.USD.
Tên nước Số dự án Vốn đăng kí
Singapore 180 5516
Đài loan 298 4127
Hàn quốc 191 3149
Nhật bản 202 3098
Anh 67 2705
Hồng cồng 175 2382
Malaysia 62 1337
Pháp 85 1150
Thái lan 75 1043
Mỹ 58 982
Nguồn: Đôi điều suy nghĩ về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam_ PTS.
Đoàn Thị Hồng Vân_ tạp chí phát triển kinh tế số 7/1998.
3. 3 Cơ cấu đầu tư chưa hợp lí.
Xét về mặt địa lí, qua thực tế mười năm cho thấy vốn đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam chủ yếu tập trung ở những vùng có điều kiện thuận lợi như: Hà
Nội, Hải Phòng, Đà Nặng, thành phố Hồ Chí Minh . . . trong đó chủ yếu là Hà
Nội và thnàh phố Hồ Chí Minh. Năm 1997, số vốn vào hai địa phương này
chiếm 43, 28% tổng số vốn đăng kí của cả nước.
22
Biẻu 6: các dự án cấp giấy phép đầu tư năm 1997 (phân theo địa phương)
Đơn vị tính:tr.USD.
Địa phương Số dự án Tổng vốn đăng kí
Thành phố Hồ Chí Minh 120 1383, 2
Đồng Nai 90 1018, 4
Hà Nội 80 951

Bà Rìa - Vũng Tàu 13 495
Hải Phòng 30 367
Các tỉnh khác 146 13334
Nguồn: Số liệu tổng hợp về FDI năm 1997_Tạp chí kinh tế và dự báo số
2/1998.
Xét về mặt cơ cấu, phần lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung vào các
lĩnh vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ.
Biểu 7: cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài từ 1998 - 1999 (phân theo ngành kinh
tế)
Đơn vị tính: %.
Ngành 1988 - 1990 1991 - 1995 1996 - 1999
Công nghiệp và xây
dựng
41, 47 52, 74 49, 66
Nông_lâm_ngư nghiệp 21, 64 4, 13 2, 14
Dịch vụ 36, 89 43, 13 48, 2
Nguồn: vụ kinh gế tổng hợp - Bộ ngoại dao.
3. 4. Về hình thức đầu tư.
Vốn đầu tư trực tiếp nướcngoài chủ yếu tập trung vào các hình thức:
doanh nghiệp liên doanh (65%), doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (18%),
hợp đồng hợp tác kinh doanh (7%). Về loại hình BOT, nước ta mới chỉ có
một vài dự án. Đa số các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều tập
trung trong các khu công nghiệp, khu chế xuất vì nơi đây đảm bảo các điều
kiện về cơ sở hạ tầng, tránh được nhiều thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp.
23
Hiện nay, đang có xu hướng chuyển từ loại hình doanh nghiệp liên
doanh sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Giải thích cho hiện tượng
trên, chúng ta thấy nổi lên một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Sau một thời gian hoạt động, các nhà đầu tư nước ngoài đã quen với
cách làm việc, quen với thủ tục hành chính cũng như thị trường và tập quán

sống của dân cư bản địa.
- Các nhà đầu tư nước ngoài muốn được độc lập tự chủ tự mình quản lí
doanh nghiệp.
- Bên Việt Nam thiếu vốn, yếu về trình độ quản lí và đôi khi còn tỏ ra
không hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài.
3. 5. Về chuyển giao công nghệ.
Nhiều công nghệ lạc hậu, thiếu đồng bộ, củ kĩ, sản xuất từ những năm
1950 vẩn trở thành vốn góp của bên nước ngoài và còn được định giá cao từ
15% - 20% so với giá thị trường và chuyển giao vào nước ta. Điều đó đã gây
cho nước thiệt hịa khoảng 50 tr.USD. ngoài thiệt hại về vật chất có thể tính
toán được, việc chuyển giao đó đanh có nguy cơ biến nước thành "bãi rác
công nghệ", gây ô nhiểm môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao
động và dân cư, gia tăng hơn nguy cơ lạc hậu về công nghệ của nước ta.
3. 6. Hiệu quả đầu tư chưa cao và không đồng đều.
Một số dự án mặc dù đã đi vào hoạt động được 3 đến 4 năm nhưng vẩn
bị thua lỗ. Nguyên nhân có nhiều song chủ yếu là chi phí vật chất và khấu hao
tài sản cố định, chi phí quảng cáo và tiếp thị quá lớn . . . . Tuy nhiên, cũng
không loại trừ trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài cố ý tạo ra tình trạng
kinh doanh thua lỗ để trốn thuế thông qua hiện tượng chuyển giá
3. 7 Những tồn tại khác
Đầu tư nước ngoài đã và đang tạo ra sự cạnh tranh gay gắt với các doanh
nghiệp nội địa về lao động, kỉ thuật, thị trường. Bên cạnh các tác động tích
cực như: khuyến khích các doanh nghiệp nội địa đổi mới công nghệ nhằm
tăng năng suất, hạ gía thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh, nâng cáo tính
24
năng động, linh hoạt trong việc năm bắt nhu cầu thị trường . . . thì sự cạnh
tranh đó cũng làm xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến tốc độ tăng
trưởng của doanh nghiệp trong nước, rõ nhất là sản xuất bia, bột goặt, dệt, da,
lắp ráp điện tử . . . (ví dụ: công nghiệp điện tử liên doanh tăng 35% thì khu
vực trong nước giảm đi 5%).

Mục đích của các nhà đầu tư nước ngoài nhằm thu được lợi nhuận cao
do đó họ luôn tìm cách khai thác lợi thế so sánh của nước ta là giá thuê lao
động rẻ. ở một số xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư đã tìm
cách tăng cường độ lao động, cắt xén tiền công, điều kiện bảo hiểm, thậm chí
xúc phạm nhân phẩm của người lao động, phản ứng tiêu cực với cán bộ công
đoàn . . . nên đã dẩn đến nhiều tranh chấp về lao động xảy ra trong xí nghiệp
đó.
Trong thời gian tới, để hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu
quả hơn thì chúng ta cần có biện pháp khắc phục những hạn chế trên. Đây là
cách để tạo ra một môi trường đầu tư lành mạnh nhằm thu hút ngày càng
nhiều vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện
đại hóa đất nước trong thời gian tới.
4. Triển vọng của hoạt động đầu tư nước ngoài tại việt Nam.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và những năm
tiếp theo, Đảng và Chính phủ đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế trong những
năm tới của Việt Nam là 9% - 10%/năm và phấn đấu đến năm 2020 đưa mức
GDP bình quân đầu người tăng lên 8 - 10 lần so với hiện nay, tương đương
2000 - 3000 USD/người_năm. Để thực hiện mục tiêu đó, yêu cầu về vốn là
một trong những thách thức lớn nhất và khó giải quyết nhất đối với nền kinh
tế nước ta hiện nay. Theo tinh toán, trong giai đoạng 2001 - 2010 chúng ta
cần 250 - 300 tỷ USD. So với năng lực tiết kiệm nội địa hiện tại của Việt Nam
thì con số này rất lớn. Mặt khác, nguồn vốn ODA không tăng thêm thậm chí
còn giảm. vì vậy, chúng ta cần phải tính đến khả năng thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
25

×