Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Tìm hiểu di tích thành nhà mạc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.61 MB, 40 trang )

PHẦN III: MỤC LỤC.
Phần I: Mở đầu.
1: Lý do chọn đề tài.
2: Mục đích nghiên cứu.
3: Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4: Phương pháp nghiên cứu
5: Bố cục khóa luận.
Phần II: Nội dung.
Chương 1: Lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của di tích thành nhà
Mạc.
1.1.

Tổng quan về Thành phố Tuyên Quang.

1.1.1. Lịch sử hình thành.
1.1.2. Đời sống dân cư.
1.1.3. Truyền thống văn hóa và đấu tranh- chống giặc ngoại xâm.
1.2.

Vị trí, lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của di tích.

1.2.1. Vài nét về thành cổ Việt.
1.2.2. Vị trí.
1.2.3. Lịch sử hình thành cùng quá trình tồn tại của di tích qua các
thời kỳ.
Chương 2: Gía trị về lịch sử – kiến trúc và kỹ thuật xây dựng thành nhà
thành nhà Mạc
2.1. Gía trị lịch sử- kiến trúc.
2.1.1. Gía trị lịch sử.
2.1.2. Gía trị kiến trúc.
2.1.2.1. Không gian cảnh quan.


2.1.2.2. Bố cục mặt bằng và tổng thể kiến trúc.
1


2.2. Gía trị về kỹ thuật xây dựng thành nhà Mạc.
2.2.1. Vật liệu xây dựng thành.
2.2.2. Kỹ thuật xây dựng thành.
Chương 3: Thực trạng – Bảo tồn – Tôn tạo – Phát huy giá trị của di tích
thành nhà Mạc.
3.1. Thực trạng.
3.2. Bảo tồn và các hoạt động bảo vệ.
3.2.1. Tổ chức nội dung, bảo vệ di tích.
3.2.2. Tổ chức bằng các giải pháp kỹ thuật.
3.3 Phát huy giá trị của di tích.
Phần III: Kết luận.
Phần IV: Tài liệu tham khảo.
Phần V: Tài liệu ảnh.
Phần VI: Phụ lục.

2


PHẦN I- LỜI NÓI ĐẦU
I- Tính cấp thiết của đề tài.
Đối với mỗi một quốc gia, dân tộc trên thế giới, di sản văn hóa của các
thế hệ trước để lại có một giá trị vô cùng to lớn đối với dân tộc và quốc gia
đó. Di sản văn hóa là vật thể là các công trình kiến trúc nghệ thuật cổ hay phi
vật thể như: các làn điệu dân ca, tục ngữ ca dao…Trong đó các di tích kiến
trúc nghệ thuật cổ như là một chiếc cầu nối để chúng ta có thể tìm hiểu cuộc
sống quá khứ, đồng thời cũng là để chiêm ngưỡng những tác phẩm kiến trúc

nghệ thuật tuyệt đẹp đã được sáng tạo dưới bàn tay của con người.
Khi đất nước đang có sự hòa nhập vào quốc tế theo xu hướng chung
của thế giới hiện nay, thì những di tích này lại càng trở nên quan trọng đối với
nhiệm vụ giữ gìn bản sắc riêng của mỗi dân tộc.
Dù công trình kiến trúc ấy phục vụ cho ai, vì mục đích gì đi chăng
nữa, nhưng nó là công trình mà người xưa để lại, ở đó có đầy đủ các giá trị
về: lịch sử, văn hóa, khoa học… thì chúng cần phải được bảo tồn và tôn tạo
để di tích ấy sống mãi với thời gian.
Theo dọc chiều dài đất nước, mảnh đất hình chữ s thật nhẹ nhàng và
bay bổng…nhưng cũng thật nên thơ. Đi đến bất kỳ nơi đâu chúng ta cũng đều
có thể gặp bóng dáng của những công trình kiến trúc nghệ thuật mà cha ông ta
sáng tạo ra và để lại cho đến tận ngày hôm nay. Những gì còn lại ấy, dù có
niên đại khác nhau, dù mang ảnh hưởng của văn hóa nào, dù gắn với lịch sử
hay tôn giáo cũng đều là sản phẩm của trí tuệ và của tâm hồn Việt, của lịch
sử, văn hóa Việt Nam.
Tuy nhiên, trải qua bao thăng trẩm và biến cố của lịch sử, dưới tác động
của tự nhiên, con người, những công trình ấy nay còn lại không nhiều và hầu
như không còn nguyên vẹn như buổi đầu khởi dựng.
Là một người con trên mảnh đất Tuyên Quang thơ mộng giàu truyền
thống cách mạng. Nơi đây có biết bao nhiêu di tích lịch sử từ xưa để lại, nơi
3


đã chứng kiến nhiều cuộc chiến tranh khốc liệt và những chiến thắng hào
hùng của dân tộc và cũng là nơi in dấu vết của vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh
trong cuộc đời hoạt động Cách mạng của người.
Còn lại với thời gian, Tuyên Quang còn vết tích của Thành nhà Mạc
xưa kia, với niên đại hơn 400 năm. Tuy đây giờ chỉ còn là “Di tích lịch sử,
phế tích thành Tuyên Quang” Nhưng chính nơi đây đã diễn ra một sự kiện
trong lịch sử của các triều đại phong kiến Việt Nam. Nhà Mạc khi buộc phải

rút khỏi kinh thành Thăng Long đã để lại dấu ấn trên mảnh đất Tuyên Quang
này.
Tuy “Di tích lịch sử, phế tích thành Tuyên Quang” giờ chỉ còn ít dấu
vết với một đoạn Thành ngắn, và hai cổng phía Tây và Nam mà thôi. Nhưng
bên trong đó hàm chứa biết bao điều kỳ bí về một giai đoạn của thời kỳ phong
kiến và những sự kiện lịch sử liên tiếp diễn ra ở những thời kỳ khác nhau,
thành nhà Mạc như một ô cửa bí mật trùm sau những bức “rêu phong cổ
kính” của thời gian. Chính vì lẽ đó tôi quyết định chọn đề tài “Tìm hiểu di
tích thành nhà Mạc - Tuyên Quang” làm bài tiểu luận năm thứ 3 này, để
nghiên cứu, tìm hiểu về những ẩn số bên trong đó.
II- Mục đích nghiên cứu:
- Mục đích đầu tiên trong quá trình nghiên cứu di tích thành nhà Mạc
của tôi là: Để nâng cao kiến thức thực tế và sự hiểu biết của mình.
- Tìm hiểu để hiểu biết về những giá trị về lịch sử- văn hóa- khoa họckỹ thuật xây dựng thành lũy của di tích.
- Trên cơ sở khảo sát thực tế, đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần
bảo tồn và phát huy tốt nhất giá trị di tích với khả năng của bản thân.
III- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng là: Thành nhà Mạc bao gồm các dấu tích còn lại như: cổng
thành phía Tây và phía Nam, cùng một đoạn tường dài 1,4m.

4


Phạm vi nghiên cứu: Toàn bộ địa phận phường Minh Xuân, Phan Thiết,
Tân Quang - Thành phố Tuyên Quang, nơi di tích tồn tại và liên quan.
IV- Phương pháp nghiên cứu:
Để tìm hiểu được di tích này Tôi đã dựa vào một số phương pháp sau:
- Phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng.
- Phương pháp điền dã.
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp tư liệu.

- Phương pháp liên ngành khảo cổ học, sử học, văn hóa học, bảo tàng
học, kiến trúc, mỹ thuật học.
V- Bố cục bài tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu và các tài liệu tham khảo, bài viết được chia làm 3
phần như sau:
Chương 1: Lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của di tích thành nhà
Mạc.
Chương 2: Gía trị về lịch sử – kiến trúc – kỹ thuật xây dựng thành nhà
thành nhà Mạc.
Chương 3: Thực trạng – Bảo tồn – Tôn tạo – Phát huy giá trị của di tích
thành nhà Mạc.

5


Phần II- NỘI DUNG
CHƯƠNG I- Lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của di tích
Thành nhà Mạc
1.1- Tổng quan về Thành phố Tuyên Quang:
1.1.1- Lịch sử hình thành:
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam. Cách Hà Nội
Với 165 km đường bộ (theo Quốc lộ 2), vị trí địa lý từ 21 độ 29 phút
đến 22 độ 42 phút vĩ Bắc và 104 độ 50 phút đến 105 độ 36 phút độ kinh
Đông.
Tổng diện tích tự nhiên là: 5.868 km.
Dân số trên 720 ngàn người với trên 22 dân tộc cùng chung sống.
Tuyên Quang giáp với các tỉnh như:
- Phía Bắc giáp Hà Giang.
- Phía Nam giáp giáp Phú Thọ.
- Phía Đông giáp Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên.

- Phía Tây giáp Yên Bái.
Tuyên Quang xưa (bao gồm cả Hà Giang) thuộc bộ Vũ Định của nhà nước
Văn Lang. Trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Hồ…Tuyên Quang thuộc
châu Tuyên Quang, thừa Tuyên Quang, phủ Tuyên Hóa, trấn Minh Quang.
Ngày 31- 5 - 1884 Pháp đặt chân chiếm đóng Tuyên Quang. Đầu thế
kỷ XX, chúng chia Tuyên Quang thành hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang.
Tuyên Quang bao gồm 6 châu: Sơn Dương, Yên Sơn, Yên Bình, Hàm Yên,
Chiêm Hóa, Na Hang với 194 xã.
Sau Cách mạng tháng 8- 1945 và sau hòa bình lặp lại ở miền Bắc năm
1954, Tuyên Quang có một số thay đổi về bộ máy hành chính:
6


Tháng 7- 1956 huyện Yên Bình tách khỏi Tuyên Quang và nhập vào
tỉnh Yên Bái. Năm 1976 Tuyên Quang nhập vào Hà Giang thành tỉnh Hà
Tuyên. Đến năm 1991 Hà Tuyên lại được chia thành hai tỉnh Hà Giang và
Tuyên Quang. Cho đến hiện nay, Tuyên Quang có 5 huyện, 1 thành phố với
145 xã, phường, thị trấn.
Ngày 25-6-2009 Thị xã Tuyên Quang được công nhận là đô thị loại ba.
Ngày 2-7-2010. Chính phủ đã ban hành nghị quyết số 27/ NQ-CP
thành lập Thành phố Tuyên Quang thuộc tỉnh Tuyên Quang trên cơ sở toàn bộ
diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã
Tuyên Quang.
Về mặt tự nhiên: Tuyên Quang năm trên vòng cung Ngân sơn, có nhiều
sông suối, có hệ thống sông lớn là sông Lô và sông Gâm. Bắt nguồn từ Vân
Nam – Trung Quốc sau khi xuyên dọc địa phận Hà Giang. Sông Lô chảy qua
Tuyên Quang, xuôi về Phú Thọ hợp với sông Hồng tại Việt Trì, đây là đường
thủy duy nhất nối Tuyên Quang với Hà Giang (ở phía Bắc) với thủ đô Hà Nội
và các tỉnh trung du, đồng bằng và Bắc bộ. Sông Gâm cũng bắt nguồn từ
Trung Quốc, chảy qua Cao Bằng, Hà Giang rồi đổ vào Na Hang, Chiêm Hóa

hợp với sông Lô cách thị xã 10km là con đường thủy nối các huyện Na Hang,
Chiêm Hóa với các tỉnh lỵ… Ngoài ra còn có hệ thống sông ngòi dày đặc, đây
chính là nguồn thủy sinh không thể thiếu trong đời sống nhân dân và hệ thống
giao thông đường thủy quan trọng từ xưa cho đến nay.
Ngoài ra, Tuyên Quang còn có hệ thống “núi rừng trùng điệp, đồi xanh
ngắt” cũng là đia thế vô cùng quan trọng trong vị thế chiến lược về quân sự.
1.1.2- Đời sống dân cư
Dân số Tuyên Quang trên 727.505 người, với 22 dân tộc anh em cùng
chung sống. Tộc người đông nhất là tộc người Kinh và tộc người Tày.
Với địa hình như Tuyên Quang, các tộc người chung sống trong tỉnh
khá gần gũi nhau về mặt địa lý, sống khá hòa thuận, ít xảy ra mâu thuẫn giữa
các tộc người với nhau.
7


Sự nghiệp văn hóa - xã hội của tỉnh đang có những bước phát triển
ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của địa phương.
Là mảnh đất vốn có lịch sử lâu đời, Tuyên Quang từ xa xưa đã có sự
tồn tại của con người.
Tại Bình Ca, An Tường, An Khang ( Yên Sơn) các nhà Khảo cổ học đã
tìm thấy những di vật của người nguyên thủy: Rìu đá mũi giáo, hóa thạch
xương trâu…thuộc thời kỳ đá mới.
Tại huyện Yên Bình cũng tìm thấy những công cụ sản xuất bằng đá đủ
các thời kỳ, có cả khuôn đúc tiền, trống đồng và nhiều công cụ bằng đá khác.
Qua các hiện vật tìm thấy, có thể két luận rằng: Cách đây hàng vạn năm, các
bộ lạc người cổ đại đã từng cư trú dọc triền sông Lô, sông Gâm…
Trải qua hàng ngàn năm chinh phục thiên nhiên, đức tính cần cù, lòng
dũng cảm, sự sáng tạo trong lao động của nhân dân lao động đã được hun
đúc. Bằng sức lực và trí tuệ của mình, qua nhiều tháng năm gian khổ, đồng
bào các dân tộc nơi đây đã khắc lên núi rừng hoang vu lớp lớp vòng ruộng

bậc thang xanh rờn ngô lúa, biến những đầm lầy gò bãi rậm rạp…Thành
những tràn ruộng, ao, hồ…Phát triển trồng trọt và chăn nuôi. Ngoài chăn
nuôi, trồng trọt, các tộc người Tuyên Quang còn làm nhiều nghề thủ công như
khai thác, chế biến nông - lâm sản và dược liệu.; thêu dệt các mặt hàng từ sợi
bông, sợi lanh và nhuộm vải; Chế ra công cụ vũ khí, đồ dùng, vũ khí từ sắt,
đồng, tre, nứa… cùng với các đồ trang sức bằng Bạc, vàng. Quá trình tác
động đã sinh ra nhiều làng nghề cổ truyền có giá trị.
Trong Dư Địa Chí, Nguyễn Trãi đã nhận xét: “Phúc Yên có vải hoa
xanh và mật hoa vàng…ong vàng rất sạch, nhả mật rất ngọt… sáp hoa là thứ
sáp nấu với hoa núi, rất thơm ”.
Người Pháp cũng khẳng định: “Kỹ thuật của họ rất khéo, biết làm rèn,
đồ đồng, đồ bạc, làm dao, súng, kíp, hỏa mai…làm lưỡi cày, đồ nữ trang, cho

8


họ tiện lấy”, “Họ cũng thông thạo các dụng cụ gia đình, làm đồ nữ trang bằng
bạc…” (ký chú của Công sứ Lupi)
Từ trong lao động, chiến đấu, với tình yêu quê hương tha thiết, với đôi
bàn tay khéo léo và tâm hồn nhạy cảm, các tộc người Tuyên Quang đã sáng
tạo, giữ gìn và làm giàu lên kho tàng văn hóa của mình qua nhiều thế hệ.
Những chuyện cổ tích, những câu ca dao, tục ngữ đã giải thích nguồn gốc dân
tộc, phản ánh cuộc sống thường ngày đầy khát vọng; nhứng làn điệu như then,
gọi , sli, lượn, sình ca… và các lễ hội…những đường nét đẹp, tinh xảo, duyên
dáng của hoa văn trang trí trên trang phục tộc người; trên đồ dùng sinh hoạt
đã thể hiện sinh động, đặc sắc đời sống tinh thần của mỗi tộc người, mỗi vùng
miền. Bên cạnh đó đồng bào dưới xuôi lên, mang theo nền văn hóa Châu thổ
đã bồi đắp hòa với văn hóa các tộc người địa phương tạo thành đời sống văn
hóa, phong phú và đa dạng.
Như vậy chính đời sống dân cư đã tạo nên những nét vô cùng đặc sắc

trong văn hóa - xã hội cũng như đời sống kinh tế của Tuyên Quang.
1.1.3- Truyền thống văn hóa và đấu tranh chống giặc ngoại xâm
Nằm ở vị trí chiến lược quan trọng, là trấn biên che chở cho “kinh trấn” từ
xa xưa nhân dân Tuyên Quang đã thể hiện rõ tinh thần đấu tranh chống chế độ
phong kiến phản động, thối nát, đồng thời luôn cùng các triều đại phong kiến tiến
bộ đứng lên chiến đấu chống bọn xâm lược phương bắc, bảo vệ tổ quốc.
Tấm bia đá “Bảo Ninh sùng phúc” ở xã Yên Nguyên (huyện Chiêm
Hóa) ghi tạc công lao của họ Hà cùng nhá Lý chống quân xâm lược Tống.
Ngoài phần đạo lý của nhà Phật, nội dung chính của bia còn nói về gia thế,
công lao của dòng họ Hà có 15 đời làm Châu mục, coi giữ Châu vị long
(Chiêm Hóa ngày nay).
Năm 1285 nhân dân Tuyên Quang cùng Châu văn vương Trần Nhật
Duật chiến đấu chống quân Nguyên- Mông từ Vân Nam xuống xâm lược
nước ta, Trong cuộc kháng chiến lần thứ 2.

9


Đời Lê- Mạc: Hai anh em Vũ Công Uyên và Vũ Công Mật đã tập hợp
nông dân đứng lên chống phong kiến ở xã Khổng Tuyền (Sơn Dương), Khuân
Bầu xã Đại Đông (Yên Bình), thế lực khá mạnh, có lúc kiểm soát được cả
Tuyên Quang.
Năm 1789 thủ lĩnh họ Ma (dân tộc Tày) tập hợp quân dân các dân tộc
Châu Vị Long ( Chiêm Hóa) hòa vào phong trào Tây Sơn, tham gia chặn
đánh một cánh quân của giặc do Tôn Sỹ Nghị cầm đầu.
Cuối XIX mặc dù nhà Nguyễn bạc nhược, đầu hàng quân Pháp, nhưng
cùng với nhân dân cả nước, các dân tộc Tuyên Quang vẫn tiếp tục nổi dậy đấu
tranh, chống lại sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp và bè lũ tay sai.
Ngày 31-5-1884 thực dân Pháp chính thức chiêm đóng Tuyên Quang.
Quân dân trong tỉnh lúc đó đã triệt để làm vườn không nhà trống, đốt phá nhà

cửa để chống giặc.
Năm 1885- 1898 nhân dân các tộc người Tày, Dao (Yên Bình) đã tích cực
tham gia phong trào khởi nghĩa vũ trang dưới ngọn cờ Cần Vương do Tuần phủ
Hưng Hóa Nguyễn Quang Bích và Bố chánh Nguyễn Văn Giáp chỉ huy.
Cuối XIX nhân dân vùng phía Nam của tỉnh tự nguyện cầm vũ khí
đứng trong hàng ngũ nghĩa quân Hoàng Hoa Thám.
Tháng 3- 1913 toàn bộ 235 công nhân làm đất ở Nà Đồn, Đài Thị
(Chiêm Hóa) đứng lên đấu tranh đòi tên chủ Đét so ven phải trả lương
tháng, không được bớt xén.
Những năm 20 của thế kỷ XX nhân dân các xã Lâm Xuyên, Hào Phú,
Hồng Lạc, Tân Trào… ( Sơn Dương) liên tiếp nổi dậy chống chế độ bóc lột
dã man của thực dân và tay sai.
Có lẽ chính điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh đất nước đã hun đúc lên
trong mỗi con người Tuyên Quang những giá trị về truyền thống văn hóa yêu
nước- chống giặc ngoại xâm một cách kiên cường và bất khuất thể hiện qua
các giai đoạn của lịch sử.
10


1.2.

-Vị trí, lịch sử hình thành và quá trình tồn tại của di tích

1.2.1. Vài nét về thành cổ Việt
Thành cổ là một loại hình kiến trúc phòng vệ của một cộng đồng người
này để chống lại sự xâm nhập của cộng đồng người khác. Thành thường có
một hoặc nhiều vòng tường cao, dày, bao quanh một khu đất rộng, mở một
hoặc nhiều cửa ra vào. Bên cạnh vòng tường cao, thường có hào sâu và những
đoạn lũy hoặc những pháo đài để làm tăng thêm sự kiên cố cho tòa thành. Đôi
khi người ta cũng gọi những đoạn tường dài, to lớn là thành.

Phần lớn các tòa thành đều có chức năng là “trung tâm quân sự, trung
tâm chính trị, trung tâm kinh tế, văn hóa của một quốc gia hay của một đơn vị
hành chính địa phương”. Cũng có nhiều tòa thành chỉ có một chức năng duy
nhất là trung tâm quân sự. Các tòa thành giữ vai trò là thủ đô của một nước,
thường được gọi là kinh thành hay đô thành. Còn các tòa thành chỉ giữ vai trò
lỵ sở của các địa phương đó như: Châu thành, Quận thành, tỉnh thành, hay
huyện thành.
Thành thường chỉ xuất hiện khi có nhà nước ra đời trong thời đại kim
khí và phát triển mạnh mẽ tở thời kỳ trung cổ.
Thành nhà Mạc (thành Tuyên) là một tòa thành địa phương, ra đời
nhằm mục đich chính trị và quân sự là cốt yếu.
1.2.2. Vị trí
Di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh thành nhà Mạc (thành
Tuyên) được phân bố ở trung tâm thị xã Tuyên Quang, nằm ở địa phận tổ 8,
phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.
Di tích nằm trên một khu đất rộng, bằng phẳng bên bờ sông Lô, thuận
đường thủy bộ, gần khu dân cư và trường học. Ngày mới tạo dựng di tích có
nhiều ây cổ thụ lâu đời, cảnh quan thiên nhiên huyền ảo, bên tả là bờ sông Lô
uốn lượn, bên hữu là dãy núi hùng vĩ. Đó là một vị trí quân sự quan trọng, từ
thời Lê trở về sau các đơn vị quân đội đều dùng Thành làm nơi đóng quân.
11


Cho đến hiện nay, di tích là một trong số ít những tòa thành cổ còn lại
trong cả nước. Tuy không được còn nguyên vẹn như trước, nhưng thành
Tuyên vẫn giữ lại được một số phần cơ bản của một tòa thành quân sự, hành
chính của chế độ phong kiến Việt Nam. Nhiều sử gia đã nhận xét thành Tuyên
là phên dậu của kinh thành Thăng Long” là “ bức tường thép của quốc gia”.
Chính vì những giá trị vô cùng to lớn mà Thành được xếp hạng di tích cấp
Quốc gia vào ngày 30 tháng 8 năm 1991.

1.2.3. Lịch sử hình thành- quá trình tồn tại của di tích.
Lịch sử hình thành của di tích Thành Tuyên gắn với sự kiện lịch sử
quan trọng của đất nước ta, gắn với triều đại Lê- Mạc –Trịnh, với nhiều thăng
trầm biến cố của lịch sử.
Vào năm 1527, tập đoàn phong kiến do Mạc Đăng Dung cầm đầu thắng
thế, phế truất nhà Lê lập ra nhà Mạc. Tuy thắng thế nhưng nhà Mạc cũng chỉ
là tập đoàn phong kiến quân phiệt, vì lợi ích của dòng họ mà cướp quyền trị
nước. Chính vì vậy họ Mạc mới nắm quyền, các phe phái đối lập lẫn nhau nổi
loạn khắp mọi nơi. Cuối cùng, Nguyễn Kim tập hợp lực lượng, chiếm lĩnh
vùng Thanh- Nghệ –Tĩnh (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) mang danh nghĩa
“Triều Lê Trung Hưng” lập chính quyền chống lại nhà Mạc.
Nhà Mạc nắm quyền ở Bắc Bộ, đóng đô tại Đông Kinh gọi là Bắc triều.
Họ Trịnh nắm quyền từ Thanh Hóa trở vào gọi là Nam triều. Trong những
năm đóng đô tại Đông kinh, quân Mạc đã phải chống đỡ với những thế lực
chống đối ở khắp mọi nơi. Từ khi mất Đông Kinh năm 1592, thế lực nhà Mạc
yếu dần, họ Mạc vẫn chiếm cứ rất nhiều nơi và chống lại họ Trịnh trong một
thời gian dài. Cũng trong thời gian này,họ Mạc xây dựng rất nhiều thành lũy
tại các tỉnh phía Bắc và rất nhiều công sự phòng thủ, nhiều đến mức mà “
Thành nhà Mạc” được nhân dân địa phương dùng cho hầu hết những di tích
thành cổ trong vùng như: Lạng Sơn, Cao Bằng... Và Tuyên Quang cũng vậy,

12


thành cổ trong địa phận Tuyên Quang được gọi là thành nhà Mạc hay thành
Tuyên.
Cho đến nay, vẫn chưa có tài liệu nào chứng minh cho thời điểm xây
dựng thành. Việc xây dựng thành, đến nay còn để lại nhiều truyền thuyết ly
kỳ và cũng tuyên truyền rằng: Thành chỉ xây trong một đêm đã hoàn tất.
Ngoài ra cũng chỉ biết đây là dấu tích kiến trúc thời Nguyễn, được kế thừa

trên cơ sở của thành trì nhiều thời đại trước để lại. Dựa vào những sự kiện
được ghi chép lại trong Đại việt sử ký toàn thư, Kiến văn tiểu lục, Đại nam
nhất thống chí ( Quốc sử quán triều Nguyễn), Tuyên Quang tỉnh Phú
( Nguyễn Văn Bân) thì thành Tuyên Quang được ra đời trong thời điểm
những cuộc hành quân Bắc chinh của nhà Mạc lên Tuyên Quang, cụ thể là
vào những năm 1553 đến 1592 ( thế kỷ XVI), thành được xây dựng trên địa
hình khá bằng phẳng, nằm ở trung tâm xã Ỷ La- huyện Hàm Yên- phủ Yên
Bình ( nay là phường Tân Quang- Thành phố Tuyên Quang).
Thành có núi cao che trở, sông Lô bao bọc, cơ động cả về đường bộ,
lẫn đường thủy. Khi công cuộc Bắc phạt không thành công, chúa Bầu cho xây
dựng căn cứ ở Đại Đồng (Nay là An Khang, Yên Sơn) thì thành nhà Mạc lúc
này lại bị bỏ trống. Sang đầu thời Nguyễn, nhà Nguyễn vẫn sử dụng thành
nhà Mạc xưa làm cơ sở cho bộ máy quan lại phong kiến đương triều. Tuy
nhiên nhà Nguyễn đã tu sửa lại nhiều thành phần cho phù hợp với chức năng
quân sự và hành chính, đồng thời với việc đổi xứ Tuyên Quang thành tỉnh
Tuyên Quang.
Năm 1829 tại Cao Bằng xảy ra cuộc khởi nghĩa Nông Văn Vân, vốn là
tù trưởng đất Bảo Lạc. Trong các trận chiến đấu của quân triều đình và quân
khởi nghĩa, thành Tuyên chở thành một vị trí xung yếu mà hai bên nhất định
chiếm đống. Nghĩa quân đã không chiếm được thành nên đã bị đảo lộn ý đồ
chiến lược dẫn đến tan rã. Tuy cuộc khởi nghĩa bị dập tắt nhanh chóng nhưng
cũng khiến cho triều đình nhà Nguyễn phải nhìn nhân lại vị trí của Tuyên

13


Quang, ở núi rừng phía Bắc. Và cũng chính nơi đây, việc gia cố thành được
nhà Nguyễn chú ý và nhiều lần cho tu sửa. Ngoài việc gia cố thành, nhà
Nguyễn còn cho xây dựng nhiều đồn bốt, lũy trang để bảo vệ thành như: đồn
An Biên, Vĩnh Yên, Phúc Nghi, đồn Trinh, đồn Bụt…

Có thể nói, những đợt gia cố, tu sửa của triều đình nhà Nguyễn đã củng
cố thêm tiềm năng quân sự của triều Nguyễn tại phía Bắc. Giai đoạn này
thành Tuyên đã hoàn thiện về mặt cấu trúc và chức năng. Thành có thể bao
quát được một địa bàn rộng lớn, lại được che chở bởi núi Thổ Sơn ngay trong
lòng Thành, làm hạn chế tầm nhìn từ các dãy núi cao, bên ngoài nhìn vào
Thành.
Thành Tuyên cũng là nhân chứng cho nhiều sự kiện lịch sử trọng đại
của vùng quê hương cách mạng này, từ cuộc chiến đấu anh dũng của đồng
bào các dân tộc kinh, tày, dao… đánh thực dân Pháp trong thành vào năm
1884 đến khí thế vũ bão, sục sôi những ngày khởi nghĩa tháng 8 năm 1945
lịch sử, buộc Phát xít Nhật phải đầu hàng, giải phóng hoàn toàn thị xã Tuyên
Quang.Cho đến hiện nay, Thành bị mai một nhiểu bởi ý thức của người dân
và công cuộc xây dựng tỉnh nhà.

14


CHƯƠNG II- GIÁ TRỊ LỊCH SỬ- KIẾN TRÚC, KỸ THUẬT XÂY
DỰNG THÀNH NHÀ MẠC

2.1 Giá trị lịch sử- kiến trúc
2.1.1 Giá trị về lịch sử
Thành nhà Mạc có những giá trị về mặt lịch sử rất lớn, là nơi chứng
kiến biết bao cuộc chiến từ xưa cho đến những năm hòa bình lặp lại trên
mảnh đất Tuyên Quang nhỏ bé. Để nói lên được những giá trị ấy chúng ta
phải bắt đầu từ buổi sơ khai trước khi xây dựng thành.
Từ thời Lê sơ đến thời Tư Thành (Lê Thánh Tông) đây là thời kỳ thịnh
trị nhất của triều Lê. Đến đời Lê Tăng – Lê Hiến Tông (1497-1504), vẫn còn
giữ được nét thịnh trị, kế tục được chính sách khôn khéo của cha ông. Nhưng
sang đến thế kỷ XVI, tình hình chính trị, xã hội đã đi vào giai đoạn thoái trào.

Triều đình phong kiến hung tàn, bạo ngược, không chăm lo việc nước. Các
tầng lớp quan lại, đia chủ mặc sức hoành hành, mặc sức bóc lột nhân dân, các
cuộc tranh giành quyền lực và xung đột giữa các phê phái phong kiến Việt
Nam diễn ra gay gắt. Đầu thế kỷ XVI , trong nội bộ triều Lê dần hình thành
những phe phái đối lập nhau, xâu xé quyền lực. Năm 1527, tập đoàn phong
kiến do Mạc Đăng Dung dẫn đầu thắng thế, phế truất nhà Lê, lập ra triều Mạc.
Họ Mạc vừa lên nắm quyền thì các phe phái phong kiến đối lập dưới chiêu
bài khôi phục lại triều chính thống nổi lên ở khắp mọi nơi. Cuối cùng,
Nguyễn Kim một viên quan dưới triều nhà Lê tập hợp lực lượng chống Mạc,
chiếm vùng Nghệ An, Thanh Hóa lập ra “ triều Lê Trung Hưng”. Năm 1545,
Nguyễn Kim mất, quyền hành tập trung vào tay con rể là Trịnh Kiểm. Đất
nước bị chia cắt làm hai miền, nhà Mạc thống trị vùng Bắc bộ gọi là Bắc
triều, họ Trịnh nắm quyền hành từ Thanh Hóa trở vào gọi là Nam Triều. Cuộc
nội chiến kéo dài, các tập đoàn phong kiến ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân để
phục vụ cho các cuộc tranh giành quyền lực. Đây là nguyên nhân dẫn đến

15


hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nông dân, mà điển hình là cuộc nổi dậy của
anh em họ Vũ ở Tuyên Quang.
Cũng vào thời kỳ đó, Thành Tuyên Quang được xây dựng tức thời nhà
Mạc thế kỷ XVI. Thành Tuyên Quang án ngữ bên bờ sông Lô, nằm trên trục
đường giao thông thuận lợi , địa hình cấu trúc rất kiên cố, có vị trí quân sự
quan trọng.
Tấm bia của Thanh còn lưu lại câu thơ sau:
“ An biên viễn ưu Kim Ngọc
Tuyên Thành vạn cổ án Thăng Long.”
Dịch nghĩa:
“ An biên xa biển vàng ngọc quý

Thành Tuyên vạn thuở chắn Thăng Long.”
Từ thế kỷ XVI cho đến nay, thành Tuyên Quang đã chứng kiến nhiều
sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc:
Ngày 31 tháng 5 năm 1884, dưới sự chỉ huy của trung tá Duyson đem
quân từ Việt Trì theo sông Lô lên chiếm Tuyên Quang. Cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp của Lưu Vĩnh Phúc cùng với nghĩa quân Việt Nam do
đô đốc Đại chỉ huy. Cuộc chiến đấu diễn ra gay gắt cuối cùng Pháp đã chiếm
được Tuyên Quang và chiếm luôn cả thành.
Không cam chịu cảnh “ nước mất nhà tan”, cùng với khí thế sục sôi
trong cả nước nhân dân Tuyên Quang đã đứng lên chiến đấu tới cùng chống
lại bọn thực dân, phong kiến.
Năm 1945, thi hành quân lệnh số 1 của Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt
Nam, dưới sự lãnh đạo của Uỷ ban khởi nghĩa Tuyên Quang, thành Tuyên
Quang lại một lần nữa chứng kiến khí thế cách mạng sục sôi của nhân dân để
chống lại phát xít Nhật, tiến tới giành chính quyền trong cuộc tổng khởi nghĩa
Cách mạng tháng 8 năm 1945.

16


 Thành Tuyên Quang, sau Cách mạng tháng 8 năm 1945.
Không thực hiện đúng hiệp định Gionever cùng mong muốn quyết tâm
cướp nước ta một lần nữa. Thực dân Pháp đã bắt đầu nổ súng lần thứ hai vào
đất nước ta.
Ngày 19 – 12 – 1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Trung
ương Đảng, chính phủ và cán bộ các ban, ngành dời thủ đô Hà Nổi lên căn cứ
địa Việt Bắc. Thu Đông năm 1947, thực dân Pháp mở cuộc tấn công lên căn
cứ địa Việt Bắc nhằm phá tan cơ quan kháng chiến đầu não, tiêu diệt bộ đội
chủ lực của ta, hòng dùng thắng lợi quân sự để thúc đẩy thành lập chính
quyền bù nhìn toàn quốc và nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Đánh lên Việt

Bắc, địch còn âm mưu khóa chặt biên giới Việt – Trung, ngăn chặn liên lạc
giữa ta với quốc tế.
Nhận rõ được âm mưu của chúng, Chủ tịch Hồ Chị Minh đã phân tích ý
đồ của địch và vạch rõ: “ Chúng định hiệp quân ở Bắc Kạn, tạo thành một cái
ô bọc lấy Việt Bắc, rồi chúng cụp ô lại, khép chặt vòng vây, dưới đánh lên,
trên đánh xuống, nhảy dù những nơi nghi có cơ quan của Đảng và Chính phủ
để lùng bắt, phá cho được đầu não của cuộc kháng chiến, sau đó chúng sẽ
bình định nốt các vùng khác”. Người đã gửi thư kêu gọi chiến sĩ, đồng bào ra
sức chiến đấu, cùng đồng tâm hiệp lực, bẻ gẫy hai gọng kìm của địch.
Ngày 15 -10 -1947, Trung ương Đảng ra chỉ thị phải phá tan cuộc tân
công mùa đông của giặc Pháp nêu rõ nhiệm vụ của chúng ta lúc này là: phải
làm cho địch thiệt hại nặng nề, để không thể gượng dậy được sau cuộc tấn
công mùa đông này.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ và Trung ương Đảng, quân dân
Việt Bắc, cùng quân dân cả nước đã tích cực chiến đấu làm nên chiến thắng
oanh liệt, phá tan kế hoạch tiến đánh căn cứ địa Việt Bắc trong chiến dịch
Thu đông năm 1947, đồng thời đánh tan âm mưu “ đánh nhanh thắng nhanh”
của chúng, buộc thực dân Pháp phải kéo dài cuộc chiến tranh. Do đó, ta có

17


điều kiện khoét sâu vào nhược điểm của chúng, phát triển lực lượng của ta,
chuyển từ yếu thành mạnh, đi từ ít đến nhiều.
Tuyên Quang ở vị trí trung tâm của căn cứ địa Việt Bắc, là chiếc cầu
nối giữa vùng trung du, đồng bằng Bắc bộ với biên giới Việt Trung, là một
trọng điểm càn quét của quân Pháp. Từ mọi hướng, các cánh quân đều lấy
Tuyên Quang làm hợp điểm, chúng dùng đường sông Lô mở một bên gọng
kìm quặp lấy khu căn cứ địa Trung ương, đánh chiếm Tuyên Quang và dùng
Tuyên Quang Làm bàn đạp để mở những cuộc càn quyét lớn vào một số vùng

của trung tâm Việt Bắc.
Quân và dân Tuyên Quang cùng quân dân Việt Bắc đồng tâm hiệp lực,
làm nên chiến thắng sông Lô, đó là những chiến công hiển hách mà minh
chứng là những trận đánh đầy mưu trí dũng cảm làm cho quân địch phải bàng
hoàng, khiếp sợ. Tiêu biểu là trận phục kích bắn chìm tàu chiến địch trên sông
Lô tại Bình Ca
( xã Vĩnh Lợi, huyện Sơn Dương) ngày 12 tháng 10, trận phục kích
bằng địa lôi của tự vệ Thành Tuyên ngày 22- 10 tại Km 7 đường Tuyên
Qung- Hà Giang, chiến thắng Vật Nhèo (xã Ngọc Hội, Huyện Chiêm Hóa)
Ngày 1- 11, chiến thắng Cầu Cả ( xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa) ngày
4- 11, chiến thắng Khe Lau ( xã Thắng Quân, huyện Yên Sơn) ngày 10-111947 chiến thuật đánh du kích và thế trận chiến tranh nhân dân của ta là m
cho địch hết sức lúng túng, bị động.
Trước tình thế bất lợi, quân Pháp vội vã rút khỏi sông Lô. Đến ngày 1512 -1947, Tuyên Quang sạch bóng quân xâm lược.
Cuối tháng 12- 1947 chiến dịch tiến công Việt Bắc của quân Pháp hoàn
toàn thất bại. Việt Bắc trở thành mồ chôn giặc Pháp, là nỗi kinh hoàng của
chúng là niềm tự hào của cả nước. Trong toàn chiến dịch, nhân dân Việt Bắc
đã tiêu diệt 3.300 tên địch, làm bị thương 1.300 tên, bắt sống 270 tên và phá
hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.

18


Thành tích chiến đấu của quân và dân ta đã góp phần đập tan mọi âm
mưu của giặc Pháp, đảm bảo an toàn cho Bác Hồ, Trung ương Đảng, Chính
phủ cùng các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Thắng lợi đã khẳng
định : Dù còn khó khăn thiếu thốn nhưng ta có đầy đủ mưu trí, sức mạnh đoàn
kết để đánh được quân Pháp có đầy đủ trang thiết bị kĩ thuât hiện đại. Thắng
lợi đó đã chứng minh rằng: Hễ một dân tộc đã đứng lên, kiên quyết đấu tranh
cho tổ quốc, thì không ai, không lực lượng gì chiến thắng được họ.
Ngày 23- 12- 1947, Thành Tuyên Quang vinh dự được chọn làm n được chọn làm nc chọn làm nn làm n ơi

t ch c mít tinh m ng chiến thắng. Lễ mít tinh được tổ chức trọng thể tạin thắng. Lễ mít tinh được tổ chức trọng thể tạing. Lễ mít tinh được tổ chức trọng thể tại mít tinh được chọn làm nc t ch c trọn làm nng thể tại tạii
một đ a điể tạim khá rộng và bằng phẳng tiếp giáp Thành Tuyên Quang. Tng và bằng phẳng tiếp giáp Thành Tuyên Quang. Tng phẳng tiếp giáp Thành Tuyên Quang. Tng tiến thắng. Lễ mít tinh được tổ chức trọng thể tạip giáp Thành Tuyên Quang. Tới
dự được chọn làm n bu i mít tinh có các đồng chí nhng chí như: Võ Nguyên Gíap – T ng tư lệnh Quânnh Quân
động và bằng phẳng tiếp giáp Thành Tuyên Quang. Ti nhân dân Việnh Quânt Nam., Lê Thiến thắng. Lễ mít tinh được tổ chức trọng thể tạit Hùng – Thiến thắng. Lễ mít tinh được tổ chức trọng thể tạiu tướng, Nguyễn Công Bìnhng, Nguyễ mít tinh được tổ chức trọng thể tạin Công Bình
– Ch t ch Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Tuyên Quang, Bế S ban kháng chi ến thắng. Lễ mít tinh được tổ chức trọng thể tạin hành chính tỉnh Tuyên Quang, Bế Snh Tuyên Quang, Bến thắng. Lễ mít tinh được tổ chức trọng thể tại S ơn
Cương – Trung đoàn trưởng Trung đoàn Hà Tuyên, Trần Kiên Trung –ng Trung đoàn Hà Tuyên, Tr ần Kiên Trung –n Kiên Trung –
đoàn phó trung đoàn Hà Tuyên, Hà Hưng Long – chính tr viên tiêủ đòan 3,
đạii động và bằng phẳng tiếp giáp Thành Tuyên Quang. Ti 2 và Đạii động và bằng phẳng tiếp giáp Thành Tuyên Quang. Ti 3 Trung đoàn Hà Tuyên, cùng nhân dân trong th xã tớng, Nguyễn Công Bìnhi
dự.
Trong không khí phấn khởi và trang nghiêm của buổi lễ, sau lời khai
mạc của đồng chí Nguyễn Công Bình, đồng chí Võ Nguyên Gíap – Tổng tư
lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã đọc nhật lệnh, tuyên dương công trạng
của quân dân Việt Bắc:
“ Các tướng sĩ Việt Bắc!
Ngày hôm nay giữa thị xã Tuyên Quang rực rỡ quốc kỳ, nhân kỉ niệm
một năm ngày toàn quốc kháng chiến và 3 năm giải phóng, chúng ta lại có
dịp mừng quân dân ta chiến thắng trong cuộc tấn công Thu đông đầu tiên
của ủa chúng vào Việt Bắc.
Sông Lô đỏ máu quân thù. Đèo Bông Lau ngỏn ngang xác giặc. Các
trận oanh liệt ở Phủ Đoan, Tuyên Quang, ngã ba sông Gâm, ở Cao Bằng,
19


đèo Gìang , Phủ Thông, Chợ Mới, Vũ Nhai, Tràng Xá, trên đường số 3 và
phía tây đường số 2, các Trận đột kích trên đường số 4, các trận tập kích ở
Tu Vũ trên mặt trận phía tây sông Nhị, các trận truy kích Hạ tuần tháng 11
và thượng tuần tháng 12 năm 1947. Các chiên công ấy đã kế tụng truyền
thống Bạch Đằng, Chi Lăng của ông cha ta ngày trước.
Quân địch đã thất bại trọng cuộc tấn công lần thứ nhất vào Việt Bắc
những chúng vẫn chưa từ bỏ những hành động phi nghĩa…

Bảy mươi năm về trước, Tuyên Quang trên sông Lô đã từng khốn quẫn
vì quân xâm lược Pháp khi chúng mới đến nước ta.
Ba năm về trước đây, địa hạt Tuyên Quang là thủ đô lâm thời của khu
giải phòng vừa gây dựng.
Ngày nay, Tuyên Quang cùng Đoan Hùng, Khe Lau trên bờ sông Lô đã
oanh liệt thắng thủy quân và lục quân của giặc.
Tuyên Quang oai nghi và hùng dũng đã nêu cao tinh thần độc lập, bất
diệt của Việt Bắc, của Việt Nam.
Cho đến ngày hôm nay, thật là vinh dự cho Tuyên Quang là châu thành
được chọn để cử hành lễ duyệt binh và tuyên dương công trạng này, trong khi
trên đường triệt thoái của giặc, tiếng súng truy kích của ta vừa mới ngớt.
Toàn thể tướng sĩ Việt Bắc !
Thay mặt chính phủ, tôi xin tuyên dương công trạng của các Chiến sĩ
Việt Bắc, vệ quốc quân, dân quân du kích, dân quân tự vệ, cảnh vệ quân,
công an xung phong trong toàn thể quân đội quốc gia.
Tôi lại thay mặt cho các chiến sĩ Việt Bắc gửi lời chào hỏi thân ái tới
đồng bào Việt Bắc và toàn quốc, và tỏ lòng cảm tạ đồng bào đã giúp đỡ bộ
đội tác chiến. Gửi lời chào quyết chiến tới các chiến sĩ toàn quốc và tỏ lòng
ghi nhớ công lao các chiến sĩ đã anh dũng giết giặc ở khắp các mặt trận để
phối hợp chiến đấu với Việt Bắc.
Các tướng sĩ!
Quân giặc chưa bị đuổi khỏi Việt Bắc.
20



×