Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tìm hiểu về làng diều truyền thống bá giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.28 KB, 35 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hình ảnh cánh diều đã gắn bó với mỗi người Việt Nam từ bao đời nay.
Ít ai nghĩ rằng diều, thả diều hàm chứa trong đó những giá trị văn hóa, lịch sử,
xã hội sâu sắc. Bởi lẽ nó quá quen thuộc như một sự thật hiển nhiên tồn tại
hay đơn giản chỉ là một trị chơi giải trí.
Bá Giang là một làng q có nhiều di tích và những hoạt động văn hóa
truyền thống mang tính đặc trưng của người nơng dân gắn bó tự nhiên với cây
lúa và đồng ruộng. Trong đó, nổi bật là thú chơi diều. Cánh diều truyền thống
Bá Giang hội tụ trong mình những yếu tố tâm linh, tín ngưỡng cổ xưa, lẫn
những phút giây thư giãn đời thường của người cư dân nơng nghiệp. Nó bộc
lộ khát vọng bay cao, vươn xa. Biểu hiện của tư chất thanh tao cao đẹp trong
tâm hồn người nông dân quen lao động cực nhọc.
Ngồi ra đây cịn là đề tài mang tính cấp thiết. Khi những giá trị truyền
thống đang có nguy cơ mai một theo thời gian. Lối sống công nghiệp hiện tại
đang ngày càng xa rời nghệ thuật dân tộc, thì việc giữ gìn và phát huy những
giá trị truyền thống là vô cùng cần thiết.
Là sinh viên khoa Bảo tàng, tôi mong muốn được vận dụng vào thực
tiễn những kiến thức đã tích lũy được, tập dượt khả năng nghiên cứu và viết
bài trên cơ sở tập hợp và nghiên cứu một cách có hệ thống về làng nghề
truyền thống Bá Giang.
Vì (những lý do trên) tơi quyết định chọn đề tài “ Tìm hiểu làng diều
truyền thống Bá Giang” làm nghiên cứu khoa học chuyên ngành năm thứ ba.


2

2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài nghiên cứu là làng diều truyền thống


Bá Giang (xã Hồng Hà – huyện Đan Phượng – Tp Hà Nội) với những giá trị
tiêu biểu, mà trong đó tập trung nhất là cách làm diều và thú chơi diều truyền
thống của cư dân nơi đây. Ngoài ra, việc nghiên cứu mở rộng thêm một số
yếu tố phụ cận xung quanh như: lễ hội thả diều, văn hóa truyền thống, di tích,
nghề thủ công truyền thống…
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận được triển khai trên hai phương diện
+ Về mặt thời gian: nghiên cứu làng diều truyền thống Bá Giang từ khi
xuất hiện truyền thuyết về lịch sử làng tới nay.
+ Về mặt không gian: làng Bá Giang (xã Hồng Hà – huyện Đan
Phượng – Tp Hà Nội)
4. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu về vùng đất, con người làng Bá Giang – quê hương của
những cánh diều truyền thống, làm cơ sở cho việc nghiên cứu.
- Nghiên cứu khái quát những hoạt động văn hóa mang tính truyền
thống của cư dân Bá Giang.
- Nghiên cứu giá trị tiêu biểu của làng diều truyền thống Bá Giang.
- Từ thực trạng làng diều Bá Giang, đề xuất một số ý kiến nhằm bảo
tồn làng diều truyền thống Bá Giang.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin: phương pháp
duy vật biện chứng và phương pháp khoa học lịch sử
- Phương pháp nghiên cứu: Bảo tàng học, Bảo tồn Di tích lịch sử văn
hoá, Lịch sử, Địa lý, Dân tộc học, Du lịch học, Xã hội học, Tâm lý học.
- Phương pháp quan sát, điều tra thống kê, nghiên cứu tài liệu.


3

6. Bố cục tiểu luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, bố
cục bài viết gồm 3 chương. Cụ thể:

 Chương 1. Khái quát về lịch sử - văn hóa làng Bá Giang
 Chương 2. Làng diều truyền thống Bá Giang – những giá trị tiêu
biểu

 Chương 3. Bảo tồn làng diều truyền thống Bá Giang


4

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ - VĂN HOÁ LÀNG BÁ GIANG
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Từ thành phố Hà Nội về trung tâm huyện Đan Phượng rồi từ đó đi theo
bờ đê sông Hồng về hướng Đông Bắc cách chừng 7 km. Ta thấy một vùng
dân cư đông đúc chạy dài từ ngã ba Tiên Tân đến giáp thôn Bồng Lai, đó là
làng Bá Giang (tên trước kia là Bá Dương Nội) xã Hồng Hà – huyện Đan
Phượng – Tp Hà Nội.
Xã Hồng Hà có 4 làng: Bá Thị, Tiên Tân, Bồng Lai và Bá Giang. Trong
đó Bá Giang nằm ở vị trí trung tâm của xã: phía Bắc giáp huyện Mê Linh
(Vĩnh Phúc), phía Đơng giáp xã Liên Hồng, phía Nam giáp xã Tân Hợi, phía
Tây giáp xã Hạ Mỗ. Bá Giang nằm trên vị trí thuận tiện về giao thơng, từ
thành phố Hà Nội đến Bá Giang có thể đi bằng đường bộ theo bờ đê sông
Hồng. Đây là con đường giao thông khá thuận tiện. Mặt khác, từ đây cũng có
thể đi bằng đường thủy ngược lên Việt Trì và các tỉnh phía Bắc.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Trước đây Bá Giang có tên là Bá Dương Nội, nhưng sau này người dân

ở các vùng lân cận gọi cư dân nơi đây bằng cái tên Bá Giang (nghĩa là làng
Bá ở gần sông). Như vậy, ngay cái tên Bá Giang cũng nói lên được phần nào
điều kiện tự nhiên nơi đây.
Sơng Hồng là một dịng sơng hiền hịa nhưng đơi lúc con sơng ấy cũng
trở nên khó tính. Tính ghê gớm của nó xuất hiện khi mùa mưa đến: “Hình
dáng uốn khúc đó đi đơi với hiện tượng lở bồi ở cùng một khúc sông, hàng
năm sau những trận lũ lớn, nước sơng lại xói mịn ở bên trong những chỗ đỉnh
cong và bồi ở bên bờ thấp đối diện, làng ven sông phải chịu cái cảnh một


5

phần đất bị đưa qua sang bên kia sông và phải theo sang trồng trọt ở đó, có
khi cả làng phải chuyển dịch; do đó mà có hiện tượng làng ven sơng có hai bộ
phận ở hai bên bờ sơng, hoặc làng ở bờ sông bên này dăm bảy chục năm sau
thấy ở bờ sông bên kia, dân làng phải bám đất bám bãi để có chỗ ở và trồng
trọt” (1)
Cũng làm trong điều kiện tự nhiên ven sông Hồng, đất đai của làng Bá
Giang hình thành hai khu vực rõ rệt đó là trong đồng và ngồi bãi. Ngồi bãi
được dịng sơng Hồng quanh năm bồi đắp phù sa màu mỡ thuận tiện cho việc
trồng màu: như ngô, khoai, sắn, đậu… nhưng không ổn định. Khu vực trong
đồng đất đai khơng tươi tốt bằng, nhưng có thể thâm canh, ổn định sản xuất.
1.2.

Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của làng Bá Giang.

1.2.1. Truyền thuyết về lịch sử làng Bá Giang
Làng Bá Giang (Bá Dương Nội) xưa có tên nơm là làng Kẻ Bá. Vùng
đất Kẻ Bá xưa mà nay là làng Bá Giang vốn thuộc vùng đất cổ xứ Đoài. Năm
1975 – 1976 khi đào giếng người ta phát hiện thấy có những hiện vật bằng đá

của người xưa, theo giới Khảo cổ học nghiên cứu thì đây là một vùng đất
chứa đựng nhiều giá trị lịch sử q báu của nền văn minh sơng Hồng.
Mặt khác, nơi đây còn lưu truyền khá nhiều những truyền thuyết xung
quanh lễ hội thả diều, cánh diều và cả những di tích (trong đó bao hàm một số
yếu tố về lịch sử làng).
Truyện kể rằng, khi xưa trời đất còn chưa phân chia rõ rệt như giờ mà
còn giao hòa gần gũi. Người trên trời và người dưới đất sống hòa hợp. Bỗng
một ngày kia trời long đất lở bầu trời cao dần, xa dần giờ tách biệt hẳn với
mặt đất. Người trên trời không xuống mặt đất được nữa. Người dưới đất nhớ
nhung khôn xiết, họ ước rằng mình có một đơi cánh giống như lồi chim để
bay lên trời. Họ làm ra cánh diều và coi đó như thứ để liên lạc giữa người trên


6

trời và người dưới đất, sau đó họ cịn gắn tre thành sáo diều, mỗi khi chiếc
diều bay lên, gió lùa vào ống tre nghe rất vui tai.
Theo thần phả của làng có ghi lại: Thời Hùng Vương thứ 18 có ơng
Nguyễn Xí lấy vợ họ Trần (người ở Nam Châu) sinh được cậu con trai đặt tên
là Hùng Hưu. Lớn lên cậu trở thành một tráng sĩ khỏe mạnh thông minh, gặp
lúc đất nước loạn lạc trộm cướp quấy phá, dân tình lầm than. Chúa Bộ Sơn
Tây sai Hùng Hưu đem quân dẹp loạn. Đạo của ông đi đến đâu thì nơi đó n
ổn. Khi ơng tới Bồng Lai – Bá Giang thấy cảnh đẹp, dân lành, liền ở lại nơi
đây rồi nối nghiệp cha làm chúa Bộ Sơn Tây. Khi vua Hùng nhường ngôi cho
thục phán An Dương Vương ông bất mãn bỏ đi ngao du thiên hạ. Nhân dân
Bá Giang nhớ ơn nên dựng ngôi đền trên nền nhà cũ của ông, các đời vua sau
phong sắc tôn làm Linh Hựu đại vương.
Tuy rằng, đây chỉ là những truyền thuyết còn lưu truyền đến ngày nay,
nhưng qua những di chỉ khảo cổ học và những di tích cịn tồn tại, ta có thể
khẳng định rằng đây là một làng quê có bề dày lịch sử.

1.2.2. Từ kháng chiến chống Pháp đến nay
Xã Hồng Hà nói chung và làng Bá Giang nói riêng đã góp phần to lớn
vào công cuộc đấu tranh và giành độc lập của Tổ quốc. Tự hào về truyền
thống đánh giặc của cha ông, năm 1985 Đảng bộ xã Hồng Hà đã ấn hành
cuốn sách “ Truyền thống cách mạng xã Hồng Hà”, trong đó ghi lại những
tấm gương tiêu biểu:
“Thơn Bá Giang dưới sự chỉ huy của cụ Phạm Văn Thiều, Phạm Văn Tỉnh,
Phạm Văn Thêm đã cùng nhân dân trong làng cương quyết đánh giặc bằng
nhiều hình thức như: đánh lẻ diệt gọn, nếu cứ năm bảy thằng giặc qua đường
là bị các cụ tiêu diệt gọn…Cuộc chiến đấu này kéo dài hơn 3 tháng đã gây
cho địch nhiều thiệt hại.”


7

Cụ Lang Sáng được nhắc đến như một tấm gương dũng cảm. Khi
phong trào chống Pháp trở nên rộng khắp, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Hoàng
Hoa Thám, cụ Lang Sáng đã bí mật xây dựng cơ sở ở Bồng Lai – Bá Giang.
Cụ được giao nhiệm vụ cao cả: là cắm cờ lên cột cờ thành Hà Nội. Việc
không thành, cụ bị bắt và tra tấn hết sức dã man, nhưng cụ vẫn kiên quyết
khơng cung khai. Nhờ đó, các đồng chí khác trong cơ sở vẫn tiếp tục hoạt
động mà không bị thực dân Pháp phát hiện.
Trong cuộc kháng chiến cứu nước thanh niên làng Bá Giang nói riêng
và xã Hồng Hà nói chung đã hăng hái lên đường nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc.
Góp phần viết lên những trang sử hào hùng của dân tộc, khơng ít những người
con của quê hương Bá Giang đã ngã xuống vì độc lập tự do của Tổ quốc,
khơng ít những người phải bỏ lại một phần máu thịt của mình lại chiến
trường. Công lao của họ đời đời được ghi nhận.
Sau khi đất nước được giải phóng, cũng như các miền quê khác, nhân
dân Bá Giang thi đua lao động sản xuất khắc phục hậu quả chiến tranh. Đến

nay làng Bá Giang có trên 1000 hộ dân với khoảng hơn 5000 nhân khẩu. Đời
sống vật chất của người dân cũng được cải thiện đáng kể.
1.3.

Cư dân làng Bá Giang

1.3.1. Đời sống kinh tế của cư dân Bá Giang
Địa hình mang nhiều đặc trưng của điều kiện tự nhiên ven sông Hồng.
Mặt khác, đây là khu vực dân cư tập trung đơng đúc từ lâu đời nên q trình
sản xuất nơng nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên.
Ngoài ra, có một số nghề thủ cơng như: nghề mộc, nghề rèn, nghề thêu
ren, đan lát, dệt lụa…nhưng đến nay hầu hết đã bị mai một chỉ còn nghề mộc
là cịn tồn tại. Trong làng có một số hộ gia đình bn bán nhỏ như hàng sáo,
nấu và bán rượu…Rượu Bá Giang nổi tiếng khắp vùng nên nguồn thu từ việc
nấu rượu và bán rượu cũng góp phần khơng nhỏ vào việc cải thiện kinh tế cho


8

nhân dân. Chợ Bá Giang ngày nào cũng họp, các sản vật mua và bán nơi đây
chủ yếu là các vật dụng phục vụ đời sống hàng ngày của người dân.
Dưới thời phong kiến, nhân dân làng Bá Giang sống trong cảnh đói
khổ, nghèo nàn, hàng năm bị lũ sơng Hồng đe dọa. Sau khi thực dân Pháp
xâm lược, tình trạng đói khổ gần như kéo dài triền miên. Mãi đến khi hịa
bình được lập lại ở miền Bắc 1954 với bản chất cần cù, ngồi việc trồng trọt
chăn ni, người dân Bá Giang còn phát triển thêm nghề phụ như: nấu rượu,
làm đậu phụ, làm bánh gio, bánh tẻ... Nên đời sống kinh tế của người dân Bá
Giang “thay da đổi thịt” từng ngày. Góp phần vào thành cơng đó, ta khơng thể
khơng kể đến những nghề chế biến nơng sản của địa phương, vừa phục vụ gia
đình vừa mang lại thu nhập kinh tế.

Rượu Bá Giang thơm ngon nổi tiếng một vùng. Rượu được nấu từ
chính gạo nếp cái hoa vàng do người dân nơi đây trồng cấy và được giao bán
khắp các vùng lân cận.
Đặc sản thứ hai là đậu phụ. Đây là một nghề thủ công truyền thống, đặc
sản này được bày bán khá nhiều tại địa phương cũng như cung cấp cho các
khu vực xung quanh.
Vào những dịp Tết lễ, người dân thường làm bánh gio để cúng thần, gia
tiên. Bánh được làm từ gạo nếp thơm ngon, được xay xát kĩ. Ngày nay, bánh
gio trở thành một mặt hàng ưa chuộng của nhân dân quanh vùng.
Những năm gần đây, đời sống kinh tế được nâng cao, các hoạt động văn
hóa cũng ngày càng được chú trọng. Đảng bộ và nhân dân xã Hồng Hà nói
chung và làng Bá Giang nói riêng đã có ý thức giữ gìn những nét văn hóa bản
địa đã tồn tại hàng trăm đời nay.
1.3.2. Văn hóa truyền thống làng Bá Giang
Nêu cao đạo lý uống nước nhớ nguồn, ngoài việc thờ cúng tổ tiên, ở
làng Bá hầu như các dịng họ lớn đều có nhà thờ họ và duy trì việc giỗ họ


9

hàng năm như: họ Phạm, họ Nguyễn, họ Hoàng, họ Đỗ…nhằm ôn lại truyền
thống của gia tộc, giáo dục con cháu xây dựng đời sống mới không xa rời
những giá trị tốt đẹp của dân tộc.
Ngồi ra, nơi đây cịn tồn tại nhiều di tích gắn liền với những hoạt động
văn hóa mang tính truyền thống của cư dân nơng nghiệp.
Đình Bá Giang được cơng nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia
năm 1991. Ngơi đình là nơi thờ thành hoàng làng Nguyễn Cả và là nơi sinh
hoạt văn hóa cộng đồng. Ngơi đình trước đây là ngơi miếu, nhưng sau khi
ngơi đình chung của làng bị đốt để thực hiện nhiệm vụ “tiêu thổ kháng chiến”
nên ngơi miếu dần thay thế chức năng của ngơi đình và trở thành đình Bá

Giang hiện nay.
Cho đến nay, ngơi đình Bá Giang được đánh giá là một trong những
ngơi đình cịn khá ngun vẹn. Các cơng trình được bố trí hài hịa và thống
nhất trong một khn viên khép kín. Nghi mơn bao gồm: 2 cột to và 2 cột nhỏ
xây theo kiểu lối cột đứng, vuông cạnh. Tường hoa thấp bao xung quanh vòng
vào hai tòa nhà tả vu và hữu vu. Ở giữa tạo thành một khoảng sân rộng lát
gạch, đây là nơi tổ chức các buổi tế lễ khi làng vào hội.
Đi qua lớp sân ngoài là đến dãy tiền tế của đình, cách nhà tiền tế một
khoảng sân hẹp về phía trong là tịa nhà đại đình, tới thiêu hương và trong
cùng là hậu cung. Tả vu, hữu vu là 2 ngơi nhà có diện tích nhỏ nằm bên phải
và bên trái tịa đại đình. Đề tài trang trí trong đình Bá Giang hết sức đơn giản
nhưng đường nét chau chuốt mang phong cách của thế kỉ XIX. Mặt khác, nơi
đây cịn là khơng gian lý tưởng để duy trì sự tồn tại và phát triển của các lễ
hội truyền thống: như lễ hội thả diều truyền thống, lễ hội rước bánh dày
Chùa Bá Giang hay cịn gọi là chùa Già Lê, nằm ở phía gần ngồi đê.
Căn cứ vào những di vật cịn lại có thể xác định ngơi chùa này có niên đại thế
kỉ XVII với những hoa văn chạm trổ trên gỗ diễn tả cảnh người đi săn, trai gái


10

tự tình, cảnh mây rồng quận vào nhau, cảnh tiên (giống cảnh tiên ở đình Đại
Phùng- Đan Phượng)…
Đặc điểm nổi bật là nơi đây ngồi thờ phật cịn thờ một pho tượng của
ơng “Lê triều thái phó Thiếu Khanh hậu phật tơn thần”, người có cơng giúp
dân làng trong lúc hoạn nạn, khó khăn do mất mùa hạn hán. Chính vì thế, vào
ngày mùng 3 Tết hàng năm, nhân dân Bá Giang thường tổ chức rước bánh
dày để nhớ ơn ông bà những người đã có công với dân làng. Lễ hội diễn ra từ
mùng 3 Tết Nguyên Đán và kéo dài suốt 10 ngày. Qua lễ hội cũng là dịp
người ta gặp gỡ, chúc nhau những lời chúc tốt đẹp nhân dịp đầu năm.

Vào chiều mùng 2, mọi người bước vào công việc chuẩn bị cho lễ hội
như chọn gạo, thổi xôi và giã bánh dày. Bánh dày thơm dẻo, trắng trong, hình
trịn thể hiện cho bầu trời, là sản phẩm của cư dân nông nghiệp. Hơn nữa, việc
làm bánh cũng có những qui định chặt chẽ và mang nhiều yếu tố tín ngưỡng
cổ xưa, ban đầu là nước dùng để thổi xôi phải là nước giếng tinh khiết được
lấy từ nước giếng giữa làng. Gạo được vo sạch ở nơi trong nhất của dịng
nước từ sơng Hồng. Chày giã bánh được làm từ tre tươi bánh tẻ, lấy từ những
cây tre giữa vụ. Những người giã bánh nhất thiết phải là trai chưa vợ, gái chưa
chồng, được chọn ra từ đám nam thanh nữ tú trong làng. Điều đặc biệt là cuộc
giã bánh được diễn ra suốt đêm trong khơng khí nhộn nhịp, hạnh phúc. Điều
này, khiến cho người ta dễ dàng liên tưởng tới hình ảnh trai gái giã gạo trên
mặt trống đồng? Sau đó là việc tế lễ, rước bánh và thụ lộc. Tất cả đều được
thực hiện với sự thành tâm cầu mong những điều tốt đẹp nhất đến trong năm
mới.
Bên cạnh đó phải kể đến: miếu Châu Trần thờ thần diều, gắn liền với lễ
hội thả diều, một trong những lễ hội độc đáo và lôi cuốn không chỉ nhân dân
tỉnh Hà Tây (cũ) mà có thể nói là nhân dân trong cả nước và những người u
thích nghệ thuật dân gian trong ngồi nước.


11

Trước kia, miếu Châu Trần nằm phía ngồi đê nhưng do đất lở nên
nhân dân trong làng phải chuyển về vị trí như hiện nay (cách đình khoảng
300m). Hiện nay, miếu Châu Trần vẫn đang được xây dựng và dự kiến sẽ
khánh thành trước ngày 15 – 3 âm lịch (tức là ngày diễn ra lễ hội thả diều
truyền thống hàng năm).
Qua khảo sát tín ngưỡng – văn hóa cổ truyền làng Bá Giang cho thấy
nơi đây còn bảo lưu được nhiều yếu tố văn hóa mang tính cổ xưa của cư dân
lâu đời làm nông nghiệp, qua những lễ hội cịn tồn tại và duy trì đã tạo nên

những bản sắc hết sức tốt đẹp: Đó là tính cấu kết cộng đồng cao thường thấy
ở những làng quê Việt Nam.


12

CHƯƠNG 2
LÀNG DIỀU TRUYỀN THỐNG BÁ GIANG
NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HỐ TIÊU BIỂU
2.1. Qui trình làm diều
Qui trình làm diều truyền thống ở Bá Giang cũng tương tự như qui
trình làm một cánh diều hiện đại, bao gồm các công đoạn: chuẩn bị nguyên
vật liệu, làm khung diều, dán diều và hoàn chỉnh một con diều. Nhưng đi sâu
vào từng cơng đoạn cụ thể lại thấy có một số điểm khác biệt mang đậm những
nét văn hóa truyền thống.
2.1.1. Nguyên vật liệu làm diều
Có rất nhiều nguyên vật liệu mới thay thế cho những nguyên vật liệu cổ
truyền để làm ra những cánh diều hiện đại. Nhưng ở Bá Giang, tre gần như là
một nguyên vật liệu truyền thống không thể thiếu.
Xuất phát từ một vùng quê lâu đời làm nơng nghiệp, cây tre gắn bó
thân thuộc với bao đời, nên việc dùng nguyên vật liệu sẵn có trong tự nhiên là
điều phổ biến. Tuy nhiên, tài năng của người nghệ nhân lại thể hiện ở chỗ
chọn được nguyên vật liệu nào là tốt nhất để làm ra được sản phẩm ưng ý
nhất. Vì thế, việc chọn tre làm diều cũng có những yêu cầu nhất định:
Trước hết, tre làm diều phải là những cây tre đực, chắc thịt, không có
lõi và mọc ở giữa bụi, có gióng dài và đều, thân tre khơng bị trầy xước. Để có
đủ những tiêu chuẩn trên, những nghệ nhân diều thường chọn tre vào tháng 8
âm lịch. Theo kinh nghiệm dân gian đây là thời điểm tốt nhất. Có câu:
“ Tháng 8 tre non làm nhà
Tháng 3 tre già làm lạt”

Nói là tre non nhưng thực ra đó là lúc tre bánh tẻ, tre vào lúc này sẽ có
độ dẻo cần thiết để uốn khung, mà không mối mọt, điều này sẽ đảm bảo cho


13

một bộ khung chắc chắn, dễ uốn mà nhẹ. Nếu để qua tháng 8, tre đã già mà
dùng để vót khung có thể sẽ gẫy trong lúc uốn hoặc lúc thả diều, hơn nữa dễ
bị mối mọt.
Việc chọn tre làm sáo diều lại khác, ngồi những tiêu chí của một cây
tre làm diều, thì cây tre được chọn làm bộ sáo phải là tre chiết sóc (tre chết già
ngay trong bụi), vỏ màu cánh gián xen kẽ những sọc trắng ngà, không bị nứt
nẻ. Đảm bảo độ nhẹ cần thiết của một bộ sáo để diều có thể bay cao, chọn loại
tre này làm sáo sẽ tạo cho tiếng sáo kêu to và hay.
Việc còn lại là chuẩn bị giấy dán, keo dán giấy hoặc keo dán gỗ, sơn để
sơn màu cho sáo nếu có và dây thả diỊu. Những sản phẩm này được bày bán
rất phổ biến trên thị trường.
2.2.2. Cánh diều Bá Giang xưa và nay
Truyền thuyết, phong tục, luật lệ, cách chơi, cách làm diều được truyền
từ đời này sang đời khác chỉ đơn giản là cha ơng làm rồi thì con cháu cũng
làm theo. Chính họ cũng khơng nghĩ rằng chính tình u đối với diều vơ hình
dung đã giúp họ gìn giữ bảo lưu được những truyền thống văn hố của ơng
cha. Tuy giờ đây đã có một vài nguyên vật liệu được thay thế bằng những vật
liệu hiện đại. Nhưng về cơ bản những cánh diều vẫn giữ được kiểu dáng giản
dị, mộc mạc như xưa.
Các nghệ nhân Bá Giang không chỉ làm diều để thả trong lúc nơng
nhàn mà cịn dùng để tham gia lễ hội thi thả diều truyền thống hàng năm diễn
ra vào ngày 15 tháng 3 âm lịch. Thế nên các con diều được làm rất công phu,
tỉ mỉ. Diều được làm chủ yếu từ tre, thế nên việc chọn tre làm diều được rục
rịch ngay từ đầu tháng 8. Chọn được cây tre như ý, là việc không dễ. Sau đó,

thân tre được chẻ ra theo các kích cỡ khác nhau, tuỳ theo ý muốn của chủ diều
và kích thước của mỗi con diÒu. Những thanh tre này được bỏ lõi, vót nhẵn và
đem phơi từ 2 đến 3 nắng cho đến khi tre ngà vàng và có độ mềm cần thiết


14

(Tránh phơi lâu q, tre sẽ bị khơ và giịn; cịn nếu ít q, tre vẫn “ngậm”
nhiều nước khi thả diỊu sẽ khó lên được cao, dễ gây ẩm mốc trong môi
trường độ ẩm cao). Rồi đem cuộn lại luộc với nước vôi trong hoặc nước muối
hay đơn giản hơn là cho vào thùng vôi đang tôi. Làm như thế có tác dụng bảo
quản tre: chống mối mọt, dẻo dễ uốn, lại không bị ẩm mốc khi nhiệt độ trong
không khí tăng cao. Sau đó, lại phơi cho khơ, rồi bắt đầu làm khung diều.
Khung diều là bộ phận nâng đỡ toàn bộ cánh diều. Khi diều lên cao,
khung diều là bộ phận chịu lực từ sức cản của gió. Mặt khác, khi làm khung
cũng phải đảm bảo nhẹ, chuẩn để diều có thể bay lên được. Có các loại diều
phổ biến như: Diều cánh chanh, diều cánh muỗm, diều cánh mộc, diều cánh
tiên...Nên khung diều cũng được uốn theo nhiều hình thù khác nhau. Nhưng
có điểm chung là: khung cái được tạo ra từ 2 thanh tre ngang buộc 2 đầu và
thanh tre dọc ở giữa diều. Khung cái tạo thành lưng diều và một sợi dây dài
nối 2 đầu khung tạo thành bụng diều, tạo độ cong để diều đón gió. Đồng thời,
trên khung diều người ta cũng buộc cố định một số sợi dây để gò khung theo
những hình nhất định, tất cả các chi tiết đều phải đảm bảo độ chính xác cao để
khi thả diều lên, không phải chỉnh lại.
Các công đoạn làm khung diều cho đến ngày nay hầu như vẫn được
duy trì nguyên vẹn, nhưng giấy dán diều thì đươc thay thế bằng giấy xi măng,
nilon thay vì làm bằng giấy gió như các thế hệ trước. Trước kia, người ta
dùng giấy gió để dán diều. Loại giấy này có ưu điểm là rất nhẹ và ít thấm
nước. Tuy nhiên, nếu dùng 1 lần giấy thì khơng đủ để chống lại sức cản của
gió, nên các nghệ nhân thường phải bồi giấy bằng cách: trải tờ giấy ra rồi quÐt

lên đó 1 lớp nhựa hoặc hồ dán. Sau đó, trải lên 1 lớp xô hoặc 1 tờ giấy nữa lên
trên, làm như thế khoảng 2 đến 3 lần sẽ có loại giấy có độ dầy đáp ứng được
yêu cầu của người sử dụng.


15

Ngày nay người ta sử dụng giấy nilon hay giấy xi măng thay cho giấy
dó, để tiết kiệm thời gian và kinh phí. Bên cạnh đó chất kết dính cũng được
thay thế bởi các loại keo như: keo dán giấy, keo dán gỗ...thay vì dán bằng các
loại nhựa cây hay bột gạo nếp khi xưa. Nó vừa đảm bảo chỗ dán không bị
nấm mốc, côn trùng phá hoại lại bền đẹp, dễ sử dụng.Dán diều hay còn gọi là
phất mành diều là công việc tương đối đơn giản hơn các công đoạn khác. Tuy
nhiên, phải đảm bảo áo diều không quá căng – vì khi áo diều quá căng diều sẽ
khơng đón được gió, và khơng được q chùng – vì nếu q chùng diều dễ bị
gió làm thủng.
Vậy là đã có một chiếc diều hồn chỉnh. Việc làm sáo có thể được tiến
hành khơng đồng thời với việc làm diều. Và nhìn chung các cơng đoạn để
hồn thành 1 bộ sáo hay chiếc sáo cũng được bảo tồn đến ngày nay (như cách
thức làm khung diÒu). Bắt đầu cũng là việc chọn tre, nhưng tre làm sáo chỉ
cần đoạn tre ngắn (gồm 2 ống tre chứ không cần cả thân tre như việc làm
khung diều).
Kích thước của chiếc sáo được quy định bởi sức mang của chiếc diều
và quan trọng hơn là những giai âm ưa thích của chủ nhân. Có 4 loại sáo
thường dùng là:
Sáo tiếng chng: tiếng kêu “bi bi”
Sáo tiếng ốc: tiếng kêu “đu đu” như tiếng Tù và
Sáo tiếng còi: tiếng kêu “ vo vo” đanh tiếng, sáo nhỏ hơn những loại
trên.
Trong đó, loại sáo được ưa chuộng nhất là sáo tiếng ốc, nhưng sáo có

kêu to và hay hay khơng lại phụ thuộc vào sức gió và kĩ thuật làm sáo.
Ống tre được nạo bỏ ruột, bỏ cật, chỉ giữ lại 1 phần rất mỏng và bóng.
Hai đầu ống tre được nắp mặt sáo. Mặt sáo được nắp vào 2 đầu ống tre bằng


16

keo dán gỗ. Thay vì nhựa sung hay nhựa mít (xem ảnh số : ống sáo và ảnh
số

: ống tre). một bộ sáo thường có từ 2 đến 3 sáo, có khi lên đến 5 sáo.

Khơng nhất thiết 1 bộ sáo phải là các sáo cùng loại. Có thể xen lẫn các sáo
khác loại như: 1 sáo tiếng ốc đi cùng với 1 sáo tiếng chuông, tạo ra âm luật
như tiếng “mẹ gọi con thưa”... bộ sáo lớn gồm 5 sáo, khi tha nghe như 7 nốt
nhạc: đồ, rê, mi, pha, son, la, si...Sáo thường được sơn màu đỏ hoặc vàng hay
để mộc tuỳ vào sở thích của mỗi người.
Cuối cùng là việc buộc lèo và chuẩn bị dây thả diÒu. Điểm khác biệt lý
thú nhất giữa cách sử dụng dây diều xưa và nay là ở chỗ: ngày nay chúng ta
đã có sẵn các loại dây như dây dù, dây cước nên thật ít ai nghĩ rằng xưa kia
cha ông ta thả diều bằng dây được làm từ tre!
Những diều có kích thước lớn từ 2,2 m trở lên địi hỏi phải có cuộn dây
dài hơn 700 m. Điều này đơn giản nếu đó là dây dù hay dây cước, nhưng khi
chưa xuất hiện các loại nguyên vật liệu này cha ông ta đã phải làm những
cuộn dây tre thật vô cùng vất vả và mất thời gian.
Trước hết, dây diều phải được làm từ tre đủ tuổi (tre bánh tẻ). Thân tre
được chẻ ra vót thành sợi, đều tăm tắp từ gốc tới ngọn, đem cuộn lại cho vào
nồi luộc với nước muối và hạt thầu dầu giã nhuyễn, suốt 1 đêm (7- 8 tiếng).
Sau đó vớt ra để ráo nước, nối các mối theo kiểu con ong rồi lấy chỉ quấn lại,
hoặc đun sơn ta quyết lên. Cuộn dây được vuốt 1 lớp sáp bóng rồi cuộn lại

một cái lồng (Cũng đan bằng tre, có gờ nổi). Dây diều tre bền đẹp, dẻo, dai có
thể sử dụng từ 5 đến 7 năm. Có thể nói, từ quá trình làm diều đến quá trình
thả diều và thu dây đều đòi hỏi sự tỉ mỉ và say mê đặc biệt.
Thế mới biết để làm hoàn chỉnh 1chiếc diều theo kiểu truyền thống
không hề đơn giản - và để đạt tới mức chuẩn là điều vơ cùng gian nan, đáng
kính nể.


17

2.2. Hội thi thả diÒu
2.2.1. Một số nghi thức nghi lễ tiến hành trong hội thi
Rằm tháng 3 (âm lịch), làng Bá Giang bước vào hội, nhưng khơng khí
nhộn nhịp đã bắt đầu từ đầu tháng. Người ta đăng kí dự thi, bầu ban giám
khảo, chọn người đánh trống cầu phong,chuẩn bị đồ tế tự...tất cả được tiến
hành trong không khí trang nghiêm và thành kính. Nhưng ai nấy đều thÊy
lịng mình rộn ràng và háo hức mong đợi.
Lễ hội thả diều bắt đầu từ chiều 14 tháng 3 âm lịch, dân làng làm lễ
cáo yết thần linh tại đình Bá Giang. Đồng thời mở của đền (đền thờ thần diều)
lấy nước tắm cho thần và tuyên sắc. Đây cũng là nơi thực hiện các thủ tục tâm
linh của hội diều như: lễ trình diều, lễ khám diều, trao giải thưởng và lễ tạ ơn
đối với những chủ diều được giải. Đêm 14, tiÕp tục tế lễ và dâng hương.
Sáng 15, cả làng nghỉ ngơi ăn bánh tết buổi sáng và tham gia một số
trò chơi dân gian như: đấu vật, chọi gà... đồng thời, các chủ diều ra đền làm lễ
trình diều, cáo yết thần linh cầu xin sự che chở và phù hộ cho diều lên cao
thuận gió. Khoảng hơn 13 h, mọi người đã có mặt đơng đủ tại miếu Châu
Trần. 13 h 30, người được dân làng tin cậy bầu ra sẽ đánh 3 hồi 9 tiếng trống
cầu phong. DiÒu được các chủ diều mang ra bãi đất rộng và bắt đầu thả. Hằng
năm thường có từ 40 đến 100 chiếc diều dự thi. Mỗi diều đều đảm bảo sải
cánh dài trên 2,2m và đèo 3 sáo. “Người thi đa số ở trong làng, có thêm người

ở Hạ Lỗ, Tân Hội, Liên Trung...cũng mang diều đến dự. Buổi chiều quê, khi
gió nồm nam lộng thổi, cánh dồng lúa đang thì con gái xao động rì rào. Trước
cửa miếu Bá Giang, mấy chục cánh diÒu nối tiếp bay lên, bầu trời xanh vi vu
tiếng sáo... Đứng trên bờ đê, trong làng xóm, ngồi đồng ruộng, ở đâu cũng
được xem diều bay. Thỉnh thoảng lại có diều đứt dây bay mất ra phía sơng.
Có diều chao đảo rồi rơi xuống nước, lại có những diều đan chéo dây quấn
vào nhau, cả 2 đều rơi...gây thành những cuộc reo hò huyên náo và những


18

chuỗi cười sảng khoái của người xem. Lũ trẻ trong làng rủ nhau thả diều con
theo hội, thế là có hàng chục hàng trăm diều nhỏ dán đuôi bay khắp hội, tạo
thành mấy tầng diều cao thấp bay chấp chới trong gió xn. Nghe đâu đây
ngân nga tiếng “Chng đồng cồng Bá”. Hoà cùng tiếng sáo, tiếng vẳng của
hội diều. Cảnh làng quê biết bao ngoạn mục” 1
Sau khoảng 2- 3h, những chiếc diều không bị rơi và lên thẳng, đứng
im được kéo dần về đền. Đến trước cửa đền chỉ còn lại khoảng hơn chục diều.
Ban tổ chức thường trực ở đền Châu Trần, giải thưởng được trao cho chiếc
diều lên cao nhất, tựa hồ như đứng im và sáo hay nhất. Giải thưởng của hội
diều là cờ và tặng phẩm, xếp theo thứ tự nhất, nhì, ba. Người được giải lần
lượt vào tạ lễ thần, hội thi diều dành cho người lớn kết thúc. Hôm sau, là hội
thi diều dành cho thiếu nhi từ 16 đến 18 tuổi. DiỊu dự thi khơng nhất thiết là
diều truyền thống, có thể là diều với đủ màu sắc kích thước khác nhau. Thêm
vào đó, những chiếc diều cịn được các em gắn thêm đi dài phía sau, trơng
rất đep mắt. Thể lệ cuộc thi như thi diều người lớn nhưng ưu tiên những chiếc
diều có hình thức và màu sắc bắt mắt.
2.2.2. Một số quan điểm xung quanh lễ hội thả diều Bá Giang
Tục thả diều trong lễ hội phải chăng có liên quan đến tục thả chim để
cầu tạnh. Trong cuốn “ lễ hội nơng nghiƯp Việt Nam” có đoạn viết: Hội thi

thả diều là nghi thức cầu tạnh phổ biến của cư dân nông nghiêp, học giả người
Pháp Porê matxpêro đã chứng minh điều này qua cơng trình nghiên cứu nổi
tiếng của bà mang tên “ Nghiên cứu lễ hội nông nghiệp Campuchia”. Nhưng
vấn đề tôi muốn đề cập ở đây là: trong hầu hết các bài viết đăng trên sách báo
đều viết rằng lễ hội thả diều có liên quan đến đình làng Bá Giang (thờ ơng
Nguyễn Cả). Nhưng chính một số nghệ nhân diều trong làng lại không cho
rằng như vậy.


19

Theo các sách, báo viết thì sau khi ơng Nguyễn Cả - tướng nhà Đinh
hoá, dân làng tổ chức hội thi diều để nhớ ơn công lao của ông với làng với
nước. Trên thực tế thì chiều ngày 14 tháng 3 âm lịch (tức là trước hơm hội
chính 1 ngày), dân làng làm lễ cáo yết thần linh tại đình Bá Giang. Thần phả
cũng ghi lại rằng: khi ông được triều đình phong quan có về vinh quy bái tổ,
khi đó ơng đã chức lễ hội khao qn và dân làng, trong đó có thi vật chọi gà
và thi thả diều. Đó là cơ sở thực tiễn chứng minh rằng thành hồng làng
Nguyễn Cả có liên quan đến lễ hội thả diều truyền thống bá Giang.
Nhưng qua ý kiến của ông Nguyễn Hữu Kiêm - trưởng câu lạc bộ thả
diều truyền thống xã Hồng Hà và khảo sát trên thực tế lễ hội thì xem ra vấn đề
này cịn cần được nghiên cứu nhiều hơn để có một kết luận thuyết phục. Theo
thần phả ghi lại thì thành hồng làng Nguyễn Cả hoá ngày 12 tháng 8 âm lịch,
dân làng tổ chức giỗ vào rằm tháng riêng. Nếu thực sự ông là người khởi
xướng hội thi thả diều truyền thống thì tại sao lễ hội khơng được tổ chức vào
ngày giỗ của ơng? Và vai trị của thần diều với lễ hội? Mặt khác, truyền
thuyết về cánh diều cũng khẳng định rằng ngày dân làng lập miếu thờ thần
diều là ngày 15 tháng 3 âm lịch và lấy ngày đó làm ngày mở hội hàng năm.
Căn cứ vào 2 quan điểm trên thật khó xác định lễ hội diều từ đâu mà
có. Hơn nữa trong tâm thức của người dân nơi đây khi họ dâng lễ cầu xin sự

may mắn trong lễ hội thi thả diều, hầu như họ đều mang lễ đến miếu Châu
Trần (miếu thờ thần diều), chứ ít ai biểu thị lòng thành kính như vậy ở đình
thờ thành hồng làng Nguyễn Cả - thế mới thấy sự dung hồ tín ngưỡng trong
tâm thức người dân Việt - Dường như khơng cần phân biệt rạch rịi ai là thánh
nhân của hội diều, họ vẫn tổ chức cáo yết thần linh tại đình Bá Giang và dâng
lễ tại miếu Châu Trần, với tấm lịng thành kính cầu xin những điều tốt đẹp
đến trong cuộc sống.


20

2.3. Cánh diÒu truyền thống - một biểu tượng văn hoá
Trải qua bao năm tháng mưa bom bão đạn của cuộc chiến tranh giành
độc lâp trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Những cánh diều,
hội thi thả diều truyền thống vẫn tồn tại như chứng tỏ sức sống trường tồn của
những giá trị văn hoá dân gian quý báu.
2.3.1. Giá trị lịch sử
Theo các nhà nghiên cứu trên thế giới thì tuổi đời của diều là hơn
2000 năm. Nhưng phát minh này vẫn chưa có nhà sáng chế chính thức được
cơng nhận, và các nước trên thế giới vẫn còn tranh luận về sự ra đời của nó.
Trên thực tế thì ở các châu lục đều có diều và ngồi Châu Á thì ở Châu Âu và
Châu Mĩ cũng được coi là quê hương của diều. Cũng bởi thế, diều đa dạng về
kiểu dáng, phong phú về màu sắc, kích thước, cũng như mục đích sử dụng.
Hay nói cách khác, diều có 1 bề dày các giá trị văn hố - lịch sử chứ khơng
đơn thuần là một trị chơi giải trí.
Diều giấy là hiện thân của chim diều, một loài chim ăn thịt. Theo
quan niệm lưỡng lập được rút ra từ thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội, với nền
văn minh sông nước của các cư dân Đơng Nam Á cổ đại thì tổ chức xã hội
được phân chia làm hai thành tố đối lập nhau, một bên là các động vật sống
nơi khô cạn và một bên là các động vật sống nơi ẩm ướt. Nhiều dân tộc Đơng

Nam Á có các huyền thoại theo quan niệm trên như Campuchia với triều đại
Mặt trăng của Rắn thần Naga, đối với bên kia là triều đại Mặt trời của Chim
thần Garuđa, hay người Mường ở nước ta, trong lễ diễn xướng mo có một vật
thiêng, trên đó vẽ hai vật biểu tượng chim và cá. Theo lẽ đó, con diều bay trên
trời được coi là biểu tượng của sự khơ ráo. Vì thế, tục thả diều được thực hiện
sau mùa mưa để cầu mưa tạnh gió hịa, cho mùa màng nơng nghiệp được bội
thu.



×