Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬ;N VÀ MÔ HÌNH THAM VÁN NGHỀ NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.56 MB, 96 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
KHOA XÃ HỘI HỌC VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
------------------

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
MƠ HÌNH THAM VẤN NGHỀ NGHIỆP
(NGHIÊN CỨU TRIỂN KHAI TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG PHỔ
THÔNG Ở THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT)

CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: VŨ MỘNG ĐÓA

ĐÀ LẠT, 12/2010


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................... 2
3. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 2
4. Khách thể nghiên cứu ......................................................................................... 2
5. Giới hạn của đề tài nghiên cứu ........................................................................... 2
6. Câu hỏi nghiên cứu.............................................................................................. 3
7. Ý nghĩa nghiên cứu ............................................................................................ 3
8. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 3
9. Cấu trúc báo cáo khoa học .................................................................................. 4
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ................................................................................. 5
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TVNN ......................................................... 5
1.1. Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển của TVNN ..................... 5
1.1.1. TVNN trên thế giới ....................................................................................... 5


1.1.2. Vài nét về TVNN ở Việt Nam ...................................................................... 7
1.2. Các khái niệm ................................................................................................. 12
1.2.1. Khái niệm nghề nghiệp và các đặc điểm của nghề nghiệp .............................. 12
1.2.2. Khái niệm TVNN ......................................................................................... 17
1.2.3. Những yếu tố cơ bản của TVNN.................................................................... 20
1.3. Tiến trình và mơ hình tham vấn nghề nghiệp ............................................... 25
1.4. Các lý thuyết tiếp cận tham vấn nghề nghiệp................................................ 38
Chương 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ NHU CẦU TVHN . 48
2.1. Thực trạng định hướng nghề nghiệp ............................................................. 48
2.2. Nhu cầu tham vấn nghề nghiệp ..................................................................... 56
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO: ...................................................................................
PHỤ LỤC 1: DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ...................................................
PHỤ LỤC 2: DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU THỐNG KÊ .....................................


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

Nghĩa của từ

1

CTXH

2


HS

3

NTV

4

TC

5

THCS

Trung học cơ sở

6

TVNN

Tham vấn nghề nghiệp

7

THPT

Trung học phổ thông

8


TV

9

TPHCM

Công tác xã hội
Học sinh
Nhà tham vấn
Thân chủ

Tham vấn
Thành phố Hồ Chí Minh


DANH MỤC BẢNG BIỂU
1. Mơ hình 1:

Ba khâu liên hồn của cơng tác hướng nghiệp

2. Mơ hình 2:

Bốn kiểu tư vấn nghề

3. Mơ hình 3:

Tam giác hướng nghiệp

4. Mơ hình 4:


Vòng tròn nhân cách của Eysenck

4. Bảng 2.1:

Động cơ lựa chọn nghề nghiệp của học sinh tại hai trường
THPT Thăng Long và Nguyễn Du

5. Bảng 2.2:

Những khó khăn trong việc lựa chọn nghề nghiệp của học
sinh THPT Thăng Long và Nguyễn Du

6. Bảng 2.3:

Những yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn nghề nghiệp của
học sinh THPT Thăng Long và Nguyễn Du

7. Bảng 2.4:

Tỷ lệ học sinh biết đến TVNN tại hai trường THPT Thăng
Long và Nguyễn Du

8. Bảng 2.5:

Nhu cầu của học sinh về TVNN


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ có ý nghĩa rất lớn trong quyết định chất

lượng nguồn nhân lực của mỗi quốc gia. Định hướng nghề nghiệp chính xác sẽ giúp
cá nhân phát huy được tối đa năng lực của bản thân, hứng thú với cơng việc, vì thế
hiệu quả cơng việc của họ được nâng cao. Đồng thời định hướng nghề nghiệp đúng
đắn cũng giúp cá nhân đáp ứng nhu cầu xã hội về nguồn nhân lực, góp phần giảm
thiểu tình trạng mất cân đối trong nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
Học sinh trung học phổ thông là lực lượng tiềm năng quan trọng của nguồn nhân
lực. Hiện nay ở nước ta công tác giáo dục hướng nghiệp và tham vấn nghề nghiệp
cho học sinh chưa được coi trọng một cách đúng mức nên dẫn đến tình trạng các
chủ trương thì có, nhưng thực tiễn hoạt động lại yếu và kém hiệu quả.
Thông qua những năm giảng dạy đại học và có cơ hội tiếp xúc với nhiều sinh viên ở
nhiều ngành học khác nhau, chúng tôi nhận thấy rằng các em có sự lúng túng và gặp
khó khăn trong quá trình lựa chọn ngành học hoặc nghề nghiệp cho bản thân mình.
Có những em sinh viên sau một thời gian học đại học mới nhận thấy rằng ngành học
mà mình đang theo đuổi khơng phải là ngành nghề hợp với năng lực và sở thích của
cá nhân mình. Phần lớn trong số này thường khơng có kết quả học tập tốt vì mất đi
sự hứng thú cũng như động cơ học tập.
Khi tìm hiểu vấn đề này, chúng tơi nhận thấy rằng đa phần các quyết định của các
em khi chọn ngành nghề để theo học ở bậc đại học là do cảm tính và ảnh hưởng bởi
tác động của bạn bè hoặc các phương tiện truyền thông đại chúng. Điều này có thể
dẫn đến hậu quả là các em khơng có hứng thú học tập, hoặc khơng đủ năng lực và
nguồn lực để theo đuổi ngành học hoặc nghề nghiệp mà mình đã chọn. Đồng thời
các em cũng khơng có cái nhìn liên hệ về các ngành học với nhu cầu phát triển
nguồn nhân lực của địa phương các em hoặc của xã hội.
Chính vì thế việc lựa chọn và theo đuổi không hợp lý một ngành học hoặc ngành
nghề có thể gây nên những tổn thất cho chính các em cũng như gia đình và xã hội.
Tham vấn nghề nghiệp được tổ chức nhằm giúp các em học sinh có được những
quyết định và hành động hợp lý trong việc chọn ngành học hoặc nghề nghiệp trong
tương lai sao cho phù hợp với nhu cầu xã hội đồng thời phù hợp với năng lực và
hoàn cảnh của các em và gia đình các em.


1


Ở Việt Nam, tham vấn nghề nghiệp là một lĩnh vực tâm lý ứng dụng còn khá mới
mẻ và đang trong giai đoạn bắt đầu hình thành và phát triển. Trong bối cảnh xã hội
Việt Nam hiện nay, tham vấn nghề nghiệp thực sự là một nhu cầu không chỉ của
riêng học sinh phổ thơng mà cịn là của nhiều thành phần khác trong xã hội. Việc
nghiên cứu cơ sở lý luận và mơ hình tham vấn nghề nghiệp đối với học sinh các
trường phổ thông địa phương một mặt đáp ứng nhu cầu định hướng nghề nghiệp
của các em học sinh, mặt khác góp phần phát triển khả năng ứng dụng khoa học
tham vấn vào môi trường giáo dục.

2. Đối tượng nghiên cứu
Cơ sở lý luận và mơ hình tham vấn nghề nghiệp

3. Mục tiêu nghiên cứu
-

Tổng luận cơ sở khoa học của tham vấn nghề nghiệp: cơ sở lý luận, bối
cảnh xã hội, tiến trình tham vấn nghề nghiệp, vai trị và các kỹ năng tham
vấn nghề nghiệp.

-

Tìm hiểu một số mơ hình và kinh nghiệm tham vấn nghề nghiệp hiện nay
dành cho học sinh phổ thông ở trong nước và thế giới.

-

Xác định nhu cầu định hướng nghề nghiệp từ phía học sinh, gia đình và các

nhà giáo dục (chủ yếu là giáo viên)

4. Khách thể nghiên cứu
 90 học sinh lớp 10 – 12 của trường THPT Nguyễn Du
 76 học sinh trường THPT Thăng Long
 10 phụ huynh học sinh của hai trường THPT Nguyễn Du và THPT Thăng
Long.
 02 chuyên gia trong lĩnh vực tham vấn hướng nghiệp.

5. Giới hạn của đề tài nghiên cứu
 Về mặt lý luận: Đây là nội dung cơ bản nhất.
Đề tài tập trung nghiên cứu về tổng quan tham vấn nghề nghiệp, các lý thuyết tiếp
cận và các quá trình tham vấn nghề nghiệp và tìm hiểu một số mơ hình tham vấn
nghề nghiệp trong nước và trên thế giới.
 Địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu tại 2 trường THPT Nguyễn Du và THPT Thăng Long
2


 Thời gian nghiên cứu:
Từ tháng 04/2009 – 12/2009

6. Câu hỏi nghiên cứu
 Tham vấn nghề nghiệp có những lý thuyết tiếp cận cơ bản và mơ hình
tham vấn nghề nghiệp cơ bản nào đang được vận dụng đối với học
sinh phổ thông ?
 Các yếu tố nào sẽ ảnh hưởng đến việc định hướng nghề nghiệp của
học sinh phổ thông?
 Nhu cầu tham vấn nghề nghiệp của học sinh như thế nào?


7. Ý nghĩa nghiên cứu
Ý nghĩa lý luận
 Góp phần xác định được hệ thống các lý thuyết tiếp cận về tham vấn
nghề nghiệp.
 Góp phần làm rõ các mơ hình tham vấn nghề nghiệp đối với học sinh
trung học phổ thông

Ý nghĩa thực tiễn
 Giúp cho công tác đào tạo tham vấn nghề nghiệp trong khoa Xã hội
học và Cơng tác xã hội có hiệu quả.
 Giúp cho những người đã và đang làm công tác tham vấn nghề nghiệp
tại trường học hoặc các cơ sở dịch vụ có thể vận dụng hệ thống lý
thuyết và mơ hình này để trợ giúp học sinh đáp ứng được các nhu cầu
định hướng nghề nghiệp.

8. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phân tích các tài liệu khoa học, tham khảo ý kiến
chuyên gia được dùng trong quá trình thực hiện tổng luận cơ sở khoa học của tham
vấn nghề nghiệp.
Phương pháp nghiên cứu định lượng: Thu thập và phân tích số liệu thứ cấp, điều tra
xã hội kết hợp với phương pháp định tính (phỏng vấn sâu cá nhân) được dùng để
xác định nhu cầu định hướng nghề nghiệp của học sinh.
9. Cấu trúc của báo cáo khoa học
Gồm 3 phần:
3


-

Phần mở đầu


-

Phần nội dung:

Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu
Chương 2. Phân tích và đánh giá thực trạng nhu cầu tham vấn nghề nghiệp
-

Phần kết luận

4


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THAM VẤN NGHỀ NGHIỆP
1.1. Quá trình phát triển của ngành tham vấn nghề nghiệp
1.1.1. Quá trình phát triển của tham vấn nghề nghiệp trên thế giới
TV hướng nghiệp được hình thành khá sớm trên thế giới. Từ nhu cầu thực tế của xã
hội, cá nhân nảy sinh ra những vấn đề về hướng nghiệp, chọn nghề, họ không xác
định, khám phá ra bản thân mình. Trong khi đó tại các nước tư bản nền sản xuất
cơng nghiệp phát triển mạnh, có điều kiện chun mơn hố cả về chiều rộng và
chiều sâu, số lượng các ngành sản xuất công nghiệp tăng lên, làm nảy sinh sự phân
cơng lao động trong nhà máy, xí nghiệp và xuất hiện thêm nhiều nghề mới. Từ đó
các nhà khoa học tiến bộ đã đi đến kết luận rằng, mọi người để làm được công việc
cụ thể không chỉ được dạy học mà còn phải lựa chọn ngành phù hợp với năng lực
của mình, hiểu về ngành nghề đó. Cũng từ đây các tác giả đã bắt tay vào nghiên cứu
lĩnh vực TVNN.
Trong “Thực trạng công tác hướng nghiệp trong các trường THPT ở Hà Nội)

của Phạm Mạnh Hà (2006), chỉ ra F. Galton và A.Biet (1895), là 2 nhà tâm lý học
đã thành lập sở tư vấn nghề. Và đến đầu thế kỷ XX các cơ sở dịch vụ tư vấn, hướng
nghiệp lần lượt ra đời ở Mỹ, Anh, CHLB Đức… Và năm 1849 ở Pháp đã cho ra đời
cuốn chỉ dẫn về chọn nghề đầu tiên, trong đó có phân tích các nghề và những năng
lực cần thiết để nắm vững nghề.
Theo nghiên cứu của Phạm Mạnh Hà (2006), cho rằng những năm 1919 ở Anh đã
thông qua đạo luật cho phép các trường phổ thông được phép của Bộ giáo dục thành
lập các tổ chức tư vấn nghề. Các tổ chức này giúp đỡ các thanh niên chọn nghề hoặc
cung cấp cho họ những thông tin rất thiết thực như: Thông tin về thị trường lao
động, về các điều kiện làm việc của nghề này hoặc nghề khác… Và cũng năm 1919,
Chính phủ Anh đã ra chỉ thị về việc điều hành chung của các cơ sở giới thiệu việc
làm và các trường phổ thông. Theo chỉ thị này, tại các địa phương đã thành lập ban

5


giúp đỡ chọn nghề và trong các trường phổ thông thì lập ra các ban hỗ trợ. Từ 1912
đến 1917 các ban giúp đỡ tư vấn nghề đã được thành lập ở 130 khu vực.
Công tác hướng nghiệp dựa trên khoa học trắc nghiệm kiểm tra sự khác biệt
của cá nhân được ứng dụng trong TV nghề nghiệp được đánh dấu bởi các tác giả:
F.Galton (ở Anh,1875), với bài test về đặc điểm cá nhân, J.M.cattell (ở Mỹ, 1890),
với bài test về nhân cách… Họ là những người đi đầu trong TV hướng nghiệp của
thế giới.
Trong nghiên cứu của PGS.TS Trần Thị Minh Đức (2005-2006) đã chỉ ra,
Frank Parson (ở Mỹ, 1854-1908), được đánh giá là ông tổ của ngành tư vấn nghề,
ơng đã thành lập phịng tư vấn đầu tiên trên thế giới (ở BosTon, 1908), và có xuất
bản cuốn “Cẩm nang hướng nghiệp” (Vocational Bureau) và “chọn nghề”
(Choosing a Vocation). Đây là một cuốn sách được đánh giá là rất có giá trị cho tất
cả các bạn học sinh, sinh viên, và cả những người đang đi làm, cuốn sách này tập
trung vào việc trợ giúp cho cá nhân trong việc lựa chọn nghề nghiệp, tìm ra cách bắt

đầu và xây dựng một nghề nghiệp thành công và hiệu quả. Ơng hy vọng rằng cơng
tác tư vấn nghề nghiệp sẽ được đưa vào các trường học.
Không lâu sau cuốn sách này được xuất bản và trở thành tài sản vơ giá đầu
tiên cho mọi người ở BosTon nói riêng và trên thế giới nói chung. Ngay sau đó
BosTon trở thành địa điểm tổ chức Hội nghị về công tác hướng nghiệp đầu tiên. Hội
nghị đánh dấu sự ra đời của Hiệp hội Tư vấn hướng nghiệp Mỹ năm 1913.
Hướng nghiệp là một yếu tố quan trọng trong mỗi con người. Và TV nghề,
tuyển chọn nghề là những yếu tố cơ bản trong hệ thống hướng nghiệp. Hướng
nghiệp kết thúc bằng tuyển chọn nghề. Công tác hướng nghiệp xuất hiện ngày càng
nhiều ở các nước tư bản.
Theo nghiên cứu của Phạm Mạnh Hà (2006), chỉ ra ở Anh công tác tuyên truyền về
nghề, tư vấn nghề rất được chú trọng. Hướng nghiệp được coi là một bộ phận cấu
thành của công tác chuẩn bị cho học sinh bước vào lao động. Hệ thống hướng
nghiệp vì vậy được nghiên cứu rất kỹ. Mục đích của nó là tiếp cận học sinh với
những nghề khác nhau, nghiên cứu xu hướng, năng lực của các em và giúp đỡ các
em chọn nghề. Cũng tại Anh có các trung tâm hướng nghiệp chuyên gia soạn thảo,
6


in ấn các tài liệu về phương pháp hướng nghiệp. Các trung tâm này kết hợp với
hàng loạt các trung tâm khác trong nước, xuất bản hàng loạt các sách báo hướng
nghiệp, có nhiều tài liệu mơ tả các nghề và các tài liệu hướng dẫn thực hiện các bài
tập logíc đa dạng, nhằm phát triển những thói quen hữu ích, cần thiết khi chọn nghề
(như kỹ năng phân tích, phê phán những thuộc tính tâm lý cá nhân, tìm hiểu những
thông tin cần thiết về nghề tương lai, so sánh các đặc điểm, yêu cầu của nghề với
những khả năng, đặc điểm tâm lý cá nhân của mình, để trên cơ sở đó chọn nghề).

Tham vấn nghề nghiệp (Career Counseling) là một nhánh của ngành tham vấn tâm
lý được xuất hiện vào đầu thế kỷ 20 tại Hoa Kỳ. Jesse B. Davis có thể được xem là
một trong những người đầu tiên trong lĩnh vực này khi giới thiệu một chương trình

“Những hướng dẫn về nghề nghiệp và đạo đức” (Vocational and Moral Guidance)
cho học sinh các trường học công. Frank Parsons, được xem như cha đẻ của nghề
hướng dẫn (còn gọi Khải đạo), đã viết cuốn sách “Chọn lựa một nghề ” (Choosing a
Vocation) vào năm 1909 qua đó trình bày phương pháp kết nối những đặc điểm tính
cách của một cá nhân với một nghề nghiệp. Jesse Davis, Frank Parsons, Eli Weaver
và nhiều cộng sự khác nữa đã tạo thành một trào lưu thúc đẩy cho sự phát triển của
ngành tham vấn nghề nghiệp.
Chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra đã xuất hiện nhu cầu đánh giá (trắc nghiệm) các
cá nhân, từ lúc này thuật ngữ nhà tham vấn (counselor) thường được đề cập như là
những chuyên gia làm việc với những người trầm cảm, đã bắt đầu trở thành một
phần trong từ điển của các nhà giáo dục.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với những hậu quả nặng nề làm nảy sinh một
nhu cầu rất lớn về các trắc nghiệm tâm lý và nó đã tác động một cách trực tiếp đến
hoạt động khải đạo trong trường học. Cũng vào thời gian thế chiến thứ hai này,
chính phủ Hoa Kỳ đã đưa ra yêu cầu cho các nhà tham vấn làm công việc sàng lọc,
tuyển chọn các quân nhân và những chuyên gia cho các ngành công nghiệp.
Những năm 1930, lý thuyết đầu tiên về khải đạo được giới thiệu: lý thuyết về các
7


nhân tố và đặc điểm của E. G. Williamson, (E. G. Williamson’s Trait and Factor
theory). Lý thuyết này trở nên nổi tiếng như là một sự chỉ đạo cho hoạt động tham
vấn.
Năm 1940, đạo luật George Barden (George Barden Act) – đạo luật về giáo dục
hướng nghiệp ra đời đã mang lại những nguồn lực quan trọng cho sự phát triển và
hỗ trợ hoạt động khải đạo và tham vấn trong môi trường học đường cũng như
những môi trường khác. Đây là lần đầu tiên những nhà tham vấn nghề nghiệp,
những kiểm huấn viên địa phương và các tiểu ban nhận được những sự hỗ trợ chính
thức từ chính phủ (sự điều hành, tài chính và nguồn nhân lực…)
Năm 1957, năm mà vệ tinh Sputnik của Nga được phóng vào quỹ đạo cũng là thời

điểm mà ngành tham vấn và khải đạo được “phóng lên”. Tiếp theo đó, đạo luật
Nat’l Defense Ed, Act (NDEA) ra đời năm 1958. Luật NDEA tập trung vào hai vấn
đề: 1). Cung cấp những nguồn lực để các bang thiết lập và duy trì các hoạt động
tham vấn, trắc nghiệm và khải đạo trong trường học; 2). Ủy quyền và cho phép các
trường cao đẳng và đại học thiết kế các chương trình đào tạo tham vấn nghề nghiệp
Năm 1953, hiệp hội các nhà tham vấn tâm lý nghề nghiệp Hoa Kỳ (ASCA) tham gia
vào APGA (American Personnel and Guidance Association), tiền thân của hiệp hội
tham vấn tâm lý Hoa Kỳ ACA (American Counseling Association) ngày nay. Năm
1962, cuốn sách của Wrenn, Nhà tham vấn trong một thế giới thay đổi (The
Counselor in a Changing World) đã định chế hóa các mục tiêu của tham vấn học
đường. Năm 1964, ASCA phát triển các vai trò và chức năng dành cho các nhà
tham vấn.
Năm 1965, đạo luật Giáo dục Tiểu học và Trung học (Elementary and Secondary
Education Act) ra đời và cung cấp nguồn quỹ để phát triển những cơ hội giáo dục
cho những gia đình nghèo. Đến những năm 1980 và 1990, nhu cầu về việc làm rõ
những đặc tính và vai trị của nhà tham vấn nghề nghiệp được xuất hiện với sự hoàn
thành của những vấn đề pháp lý liên quan.
Năm 1919, ở Anh đã thông qua đạo luật cho phép các trường phổ thông được phép
của Bộ giáo dục thành lập các tổ chức tư vấn nghề.
Tại Pháp, chức danh cán bộ tham vấn (Psychologue scolaire) ra đời năm 1945 với
dự án cải cách giáo dục Langevin – Vallon. Vào năm này, nước Pháp mới được giải

8


phóng, trong nhân dân nổi lên các phong trào rộng lớn địi hỏi dân chủ hóa hệ thống
nhà trường cho con em nhân dân lao động. Trước giải phóng hệ thống nhà trường
này chia thành hai hệ thống là: một hệ thống nhà trường tiểu học, giành cho con cái
của nhân dân lao động, trong hệ thống này các em học sinh chỉ được học một số
kiến thức văn hóa tối thiểu và một số trường dạy nghề sơ cấp đào tạo công nhân bậc

thấp. Một bên là những trường trung học phổ thơng đào tạo những người có văn hóa
cao để tiến lên đại học và ra làm cán bộ cao cấp đầu ngành. Dự án Langevin –
Vallon nhằm xóa bỏ sự phân biệt này và lập lại một hệ thống nhà trường duy nhất,
tạo điều kiện thuận lợi cho con em tất cả các tầng lớp có thể phát huy tối đa tiền
năng của mình Và để giúp cho những học sinh đặc biệt gặp khó khăn trong học tập,
nhất là do hồn cảnh gia đình khơng thuận lợi, dự án đưa vào mỗi trường mẫu giáo
và tiểu học một cán bộ tâm lý để giúp giáo viên, học sinh và gia đình giải quyết
những khó khăn trong học tập cho học sinh. Dự án này không được thực hiện đầy
đủ, nhưng dần dần do áp lực của dư luận đã được nhà nước Pháp áp dụng từng
phần. Từ 1990, một số cán bộ tâm lý học đường được đưa vào biên chế nhà trường
và được chính thức cấp bằng là chuyên viên tâm lý học đường. Từ đó ngành tham
vấn tâm lý học đường ờ Pháp bắt đầu phát triển, và do nhu cầu đòi hỏi của sự phát
triển văn hóa, kinh tế và xã hội tham vấn nghề nghiệp đã phát triển nhanh chóng.
1.1.2. Q trình phát triển tham vấn nghề nghiệp ở Việt Nam
Trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam, chương trình hướng dẫn học đường đã
được triển khai trong các trường học. Sau ngày thống nhất đất nước, với sự thay đổi
gần như hoàn toàn cách thức tiếp cận của giáo dục, chương trình khải đạo đã khơng
cịn tồn tại trong các trường học với đúng nghĩa của nó.
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, với sự xuất hiện hàng loạt những vấn đề liên quan
đến đạo đức, kỷ luật trường học, học sinh tự tử, áp lực thi cử, những rối loạn tâm lý,
quan hệ thầy trò… của các trường học Việt Nam, những nhà giáo dục, tâm lý và
cùng những tổ chức và các cơ quan hữu trách đã “giật mình” và bắt đầu đề cập đến
việc phải có các hoạt động tham vấn tâm lý trong trường học.
Từ khoảng năm 2000, nhiều trường học tại TPHCM như trường Khánh Hội A –
quận 4, Nguyễn Gia Thiều – quận Tân Bình, Diên Hồng – quận 10, Trương Công
Định, Phú Mỹ - quận Bình Thạnh, Mạc Đỉnh Chi – quận 6 và rất nhiều trường khác

9



nữa… đã chủ động phối hợp với các chuyên viên tâm lý và các tổ chức trong và
ngoài nước để triển khai các chương trình tham vấn học đường cho học sinh.
Năm 2003, hội thảo “Nhu cầu tư vấn học đường tại TPHCM” được Viện Nghiên
cứu Giáo dục, trường đại học sư phạm (ĐHSP) TPHCM tổ chức với sự tham gia
của nhiều nhà tâm lý, giáo dục và hiệu trưởng các trường có hoạt động tham vấn
học đường để tìm kiếm, phân tích và kêu gọi sự quan tâm của giới chun mơn
cũng như các cơ quan chính phủ trong việc có các chiến lược nhằm phát triển hoạt
động tham vấn học đường tại Việt Nam. Cũng trong thời gian này, một vài sinh
viên khoa Tâm lý – Giáo dục trường ĐHSP TPHCM đã chọn đề tài cho luận văn tốt
nghiệp của mình về vấn đề tham vấn học đường. Những sự kiện này được xem là
những bước khởi đầu cho nhiều sự thay đổi tiếp theo của ngành tham vấn học
đường tại Việt Nam.
Năm 2004, Trung tâm Hỗ trợ tư vấn tâm lý (CACP) thuộc trường đại học Khoa học
xã hội và Nhân văn Hà Nội được thành lập và cũng đề cập đến hoạt động nghiên
cứu và hỗ trợ hoạt động tham vấn học đường.
Năm 2005, với sự chấp thuận của Ủy ban Dân số - Gia đình - Trẻ em TPHCM và sự
hỗ trợ của UNICEF, Văn phòng tư vấn trẻ em TPHCM đã tổ chức hội thảo “Kinh
nghiệm bước đầu thực hiện mơ hình tham vấn trong trường học” cũng nhận được sự
quan tâm và chia sẻ kinh nghiệm thực tế của nhiều chuyên gia và những nhà lãnh
đạo các trường học.
Đầu năm 2006, hội nghị toàn quốc về “Tư vấn tâm lý - giáo dục - thực tiễn và định
hướng phát triển” do Hội khoa học Tâm lý – Giáo dục TPHCM tổ chức cũng đề cập
đến vấn đề tham vấn học đường như là một điều khẩn thiết nhằm hỗ trợ học sinh và
nhà trường trong hoạt động giáo dục. Sở Giáo dục – Đào tạo TPHCM cũng tổ chức
những buổi sinh hoạt đề cập đến hoạt động tư vấn học đường trong thời gian này
với sự tham gia của các nhà tâm lý, giáo dục, nhà trường và phụ huynh học sinh.
Trong khoảng thời gian này, một văn bản của Bộ Giáo dục đã được ban hành nhằm
chỉ đạo và hướng dẫn các sở và trường học cùng những tổ chức liên quan trong việc
triển khai thực hiện chương trình tham vấn học đường.
Ngoài ra, chuyên mục tham vấn học đường do báo Phụ nữ TPHCM khởi xướng

cũng nhận được sự hưởng ứng rất nhiệt tình của đơng đảo học sinh, phụ huynh và

10


các trường học. Tháng 6 năm 2006, cuốn sách “Tư vấn tâm lý học đường” của tác
giả Nguyễn Thị Oanh đã được nhà xuất bản Trẻ phát hành trên toàn quốc. Trong
cuốn sách này, tác giả cũng đã đưa ra các tình huống và những giải đáp thắc mắc
của các em về việc định hướng nghề nghiệp.
Cũng theo tác giả Phùng Đình Mẫn, “ở nước ta cơng tác hướng nghiệp trong những
năm qua tiến hành còn chậm, chưa mang lại hiệu quả cao, học sinh ra trường chưa
được chuẩn bị chu đáo để đi vào lao động sản xuất trong các ngành, các nghề khác
nhau của xã hội. Công tác xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay cần đội ngủ
những người lao động trẻ, khỏe, có văn hóa, có hiểu biết khoa học kỷ thuật, có kỹ
năng lao động chuyên biệt phù hợp với các cách thức tổ chức, phân công lao động
xã hội theo từng giai đoạn phát triển trong các lĩnh vực lao động sản xuất – dịch vụ
và các hoạt động kinh tế - xã hội khác”. Do vậy, giáo dục hướng nghiệp là vần đề
vừa cơ bản, vừa cấp bách trong các trường THPT hiện nay, để giúp các em học sinh
lựa chọn ngành nghề phù hợp với nhu cầu của xã hội và khả năng của gia đình và
bản thân các em.
Ở cấp Bộ: Nghị định 85/CP (Chính phủ) thành lập bộ phận tư vấn nghề nghiệp và
việc làm cho học sinh và sinh viên (trong vụ Công tác học sinh - sinh viên), và
chính bộ phân này sẽ tham mưu giúp Bộ chỉ đạo công tác tư vấn nghề nghiệp cho
học sinh và sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Nhận thấy được tầm quan trọng của tham vấn hướng nghiệp, từ năm 2005, theo chỉ
thị số 9971/BGD&ĐT – HSSV của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các cơ sở giáo dục
trong toàn quốc cần “triển khai công tác tư vấn cho học sinh sinh viên”, chỉ thị này
có hướng dẫn một số nội dung và cơ cấu tổ chức bộ phận tư vấn học đường trong
các cơ sở giáo dục phổ thông và chun nghiệp, tuy nhiên từ đó đến nay cơng tác
này chưa được quan tâm triển khai, nguyên nhân chủ yếu là chưa có cơ sở sư phạm

nào đào tạo bồi dưỡng loại hình chun mơn này, nội dung chương trình đào tạo
chưa được nghiên cứu xây dựng [1].
Năm 2008, dự án PHE (những nẻo đường đến đại học) giai đoạn 3, thuộc trường đại
học Đà Lạt đã đưa chương trình tham vấn hướng nghiệp vào chương trình hoạt

Ngơ Thu Dung, 2008, đào tạo cán bộ tư vấn học đường – một số vấn đề lý luận và thực tiễn, khoa sư
phạm, đại học Quốc gia Hà Nội.
[1]

11


động của dự án, đối tượng phục vụ của chương trình là học sinh thuộc khu vực 1,
học sinh dân tộc thiểu số, con mồ côi, khuyết tật.
Đến nay, vấn đề tham vấn học đường tại Việt Nam đã trở thành một đề tài nóng
bỏng và nhận được nhiều sự ủng hộ từ các em học sinh, phụ huynh, nhà trường, các
nhà tâm lý – giáo dục và các tổ chức thuộc chính phủ cũng như các tổ chức phi
chính phủ. Mơ hình tư vấn mùa thi mà Bộ, các trường và báo Thanh niên tổ chức
hàng năm là hướng giải quyết tốt cho vấn đề hướng nghiệp. Những cá nhân tham
gia các chương trình này với mong muốn là khơng để cho các thí sinh, gia đình thí
sinh, nhà trường và xã hội bị thiệt hại do những định hướng nghề nghiệp sai lầm
ngay từ đầu. Tuy nhiên, diện mạo của một ngành nghề chuyên nghiệp vẫn chưa thật
sự được định hình.

1.2. Các khái niệm cơng cụ
1.2.1. Khái niệm nghề nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm về nghề - nghề nghiệp
Theo tác giả Phùng Đình Mẫn, một số vấn đề cơ bản về hoạt động giáo dục hướng
nghiệp ở trường THPT, nhà xuất bản Giáo dục. “Nghề là một thuật ngữ để chỉ một
hình thức lao động trong xã hội theo sự phân công lao động mà con người sử dụng

sức lao động và những tri thức, kỹ năng của mình để tạo ra sản phảm vật chất và
tinh thần cho xã hội”, tr.57.
Nghề hay nghề nghiệp, đại từ điển tiếng việt (nhà xuất bản Văn hóa thơng tin, 1998)
do tác giả Nguyễn Như Ý chủ biên định nghĩa: “nghề là công việc chuyên môn làm
theo sự phân công của xã hội”, cịn nghề nghiệp là nghề nói chung, (sự lựa chọn
tương lai của nhóm tác giả Phạm Tất Dong và Nguyễn Như Ất).
Cụ thể hơn: Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó nhờ được đào tạo
con người có được những tri thức, kỹ năng để làm ra các sản phẩm vật chất hay tinh
thần nào đó, đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Nghề nghiệp trong xã hội khơng phải là một cái gì đó cố định, cứng nhắc. Nghề
nghiệp cũng như cơ thể sống của chúng ta, có giai đoạn sinh thành, phát triển và
tiêu vong. Chính vì lẽ đó nghề nghiệp trong xã hội ngày càng phong phú, nghề này
mất đi nghề khác lại ra đời, do sự biến động và phát triển của khoa học và công
nghệ cho nên các nghề luôn ở trạng thái biến động và phát triển, chính vì vậy nó đã

12


tạo điều kiện cho mỗi cá nhân có cơ hội chọn lựa nghề nghiệp phù hợp với bản
thân, sự phong phú về nghề trong xã hội còn tạo cơ hội cho con người được nâng
cao tay nghề qua rèn luyện thực tế.
Nghề nghiệp được xuất hiện khi xã hội loài người có sự phân cơng lao động. Tổ tiên
lồi người bắt đầu biết săn bắt, hái lượm, sau đó chuyển qua chun mơn hóa sơ
khai để bắt đầu với cuộc sống tự tức như trồng trọt và chăn nuôi. Cuộc sống của các
thị tộc, bộ lạc xuất hiện, một số người trong bộ lạc đã dùng công cụ sản xuất là búa,
rìu… để sản xuất ra các cơng cụ sản xuất hay các đồ trang sức bằng đá, dần dần
công cụ sản xuất bằng đồng xuất hiện, nghề thủ công sơ khai ra đời, rồi nghề mộc,
đúc rèn cũng xuất hiện, nghề bn bán ra đời khi hàng hóa được đưa ra trao đổi trên
thị trường, dần dần cùng với sự phát triển của xã hội hàng loạt nghề mới được ra
đời.

Chuyên môn: Nghề bao gồm nhiều chuyên môn, chuyên môn là một lĩnh vực lao
động sản xuất hẹp mà ở đó con người bằng năng lực thể chất và tinh thần của mình
làm ra những giá trị vật chất như: lương thực, thực phẩm, công cụ lao động… hoặc
các giá trị tinh thần như: sách báo, tranh ảnh, âm nhạc… với tư cách là những
phương tiện sinh tồn và phát triển.
Trên thế giới hiện nay có trên 2000 nghề với hàng chục nghìn chun mơn. Ở Liên
Xơ trước đây người ta thống kê được 15.000 chun mơn, cịn ở Mỹ là 40.000
chun mơn. Vì hệ thống nghề nghiệp trong xã hội có số lượng nghề và chun
mơn nhiều như vậy nên người ta thường sử dụng cụm từ “thế giới nghề nghiệp” để
diễn tả sự phong phú của nghề.
Việc làm: Tại điều 13 bộ luật Lao động của nước ta quy định “mọi hoạt động tạo ra
nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Như vậy
mọi nghề nghiệp đều được xem là việc làm, nhưng không phải việc làm nào cũng
được xem là nghề nghiệp. Những việc làm nhất thời, không ổn định do con người
bỏ sức lao động giản đơn và được trả cơng để sinh sống thì khơng phải là nghề
nghiệp. Chẳng hạn, sinh viên trường đại học Đà Lạt tới các quán cà phê, quán cơm
để xin việc làm thêm ngồi giờ thì được cơng nhận là việc làm vì làm việc ở đây tạo
cho sinh viên có thêm nguồn thu nhập để phục vụ cuộc sống, nhưng không phải là
nghề nghiệp chuyên môn của các bạn sinh viên này. Nghề được đào tạo theo đặc

13


trưng, chun mơn riêng của mỗi ngành, nghề đó phải được cung cấp chun mơn,
trình độ, tri thức, rèn luyện các kỹ năng, cá nhân hành nghề đó phải có lý tưởng,
nhân cách nghề nghiệp, nghề được đào tạo chính thức cũng có thể được học hỏi qua
tích lũy kinh nghiệm trong xã hội.
1.2.1.2. Sự phù hợp nghề
Để có sự thành đạt trong nghề, để mỗi cá nhân yên tâm làm việc với nghề nghiệp
chuyên môn, chúng ta phải lựa chọn cho mình một nghề phù hợp với bản thân, với

gia đình và nhu cầu xã hội. Nhưng trong xã hội ngày nay, đứng trong xu hướng của
thế giới nghề nghiệp, số lượng ngành nghề ngày càng gia tăng, đứng trước hàng
trăm hàng ngàn nghề khác nhau chúng ta không dễ dàng gì để chọn cho mình một
nghề phù hợp nhất.
Bản thân mỗi chúng ta đều có những sở thích, nguyện vọng, những ưu và nhược
điểm riêng. Chính vì vậy khi chọn nghề chúng ta phải biết vượt qua sự tác động của
những tư tưởng, quan điểm chưa thật sự đúng đắn, hợp lý trong quá trình chọn
nghề.
Dưới đây là một số lời khuyên của các chuyên gia trong lĩnh vực tư vấn hướng
nghiệp mà chúng tôi thu thập được.
Để có một nghề phù hợp chúng ta khơng nên:


Chọn nghề theo sự áp đặt của người khác

 Chọn nghề theo chuẩn của nhóm
 Chọn nghề may rủi
 Chọn nghề chỉ ở bậc đại học
 Chọn nghề theo mác, theo nhãn
 Chọn nghề nổi tiếng, dễ kiếm tiền
 Chọn nghề gấp rút mà khơng có sự kiên nhẫn, hy sinh
 Chọn nghề khơng nghĩ đến những điều kiện có liên quan như: điều kiện kinh
tế của cá nhân, của gia đình, thời gian học nghề, tuổi thọ của nghề, đầu ra
của nghề.
Để có một nghề phù hợp nhất thiết mỗi cá nhân cần phải:


Tìm hiểu nhiều nhất có thể về các ngành nghề trong xã hội

14



Để giảm bớt sự ngỡ ngàng khi chọn và học một nghề nào đó, mỗi cá nhân nên tìm
hiểu để biết về nghề, mức lương, thị trường lao động, môi trường làm việc, những
thách thức nghề nghiệp, những khó khăn và thuận lợi trong nghề nghiệp. Cụ thể,
chúng ta nên tìm hiểu về:
+ Nội dung và tính chất của nghề
+ Tên nghề và những chuyên môn thường gặp trong nghề
+ Những điều kiện cần thiết để tham gia lao động trong nghề
+ Những chống chỉ định y học
+ Những điều kiện đảm bảo cho người lao động khi làm nghề
+ Những nơi có thể học nghề
+ Những nơi có thể làm việc sau khi học nghề
+ Tìm hiểu về đối tượng lao động, công cụ lao động, điều kiện lao động…
 Tìm hiểu về chính bản thân mình để hướng tới việc tìm nghề phù hợp
Tìm hiểu về chính bản thân chúng ta là điều quan trọng, có những cá nhân vẫn nghĩ
là mình hiểu hết về mình và cảm thấy phù hợp với nghề đã chọn, nhưng khi ra xã
hội hành nghề thì mới biết đó là sự lựa chọn khơng phù hợp. Chính vì vậy, việc tìm
hiểu về chính bản thân chúng ta là điều cần thiết, trước hết mỗi cá nhân chúng ta
phải trả lời thật chính xác những câu hỏi cơ bản về chính mình cũng như những vấn
đề tâm lý có liên quan, chẳng hạn như: tơi là ai, tơi cần gì, tơi muốn gì?... Đó là
những câu hỏi giúp chúng ta bước đầu xác lập định hướng cuộc đời của mình.
Cá nhân chúng ta phải đánh giá chính xác về những phẩm chất nhân cách và năng
lực của mình. Chẳng hạn chỉ số IQ, khả năng quan sát, tư duy không gian, khả năng
ngôn ngữ, chúng ta phải xác định khả năng học tập, cũng như những triển vọng của
chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải có ước mơ, nổ lực, sự kiên nhẫn, biết
chấp nhận và rèn luyện mình.
Chúng ta phải biết tìm hiểu những đặc điểm như tính cách, khí chất. Chúng ta phải
tự xem mình có phải là người biết kiềm chế, trung thực, dũng cảm, gan dạ hay
không… để hướng đến sự yêu cầu của những nghề phù hợp trong tương lai. Chính

chúng ta phải xác lập cho mình một suy nghĩ thật sự nghiêm túc về nghề nghiệp
mình thích và những nghề có thể chấp nhận được khi khơng có điều kiện lựa chọn

15


cho bản thân. Điều đó có nghĩa là chúng ta không nên quá cứng nhắc khi lựa chọn
con đường sự nghiệp của mình.
Nếu gặp khó khăn trong q trình chọn nghề, chúng ta khơng nên tự mình quyết
định cho qua chuyện, những lúc như vậy chúng ta nên tìm đến những chuyên gia
tham vấn hay những người có kinh nghiệm hơn. Nếu có điều kiện chúng ta hãy tìm
hiểu thêm về những kinh nghiệm thực tế qua làm thêm, hay tìm hiểu từ những
người đang hành nghề trong lĩnh vực chun mơn đó, điều quan trọng là chúng ta
phải biết tận dụng cơ hội và năng động trong công việc.
Nếu chúng ta biết tận dụng tốt những lời khuyên chân thành của những người xung
quanh, kết hợp với sự nổ lực của bản thân sẽ giúp chúng ta có sự lựa chọn nghề
nghiệp phù hợp hơn, sẽ giảm bớt sự cảm tính trong q trình lựa chọn nghề nghiệp.
1.2.1.3. Những nguyên nhân dẫn đến sai lầm trong quá trình chọn nghề
Nhiều sinh viên gần tốt nghiệp nhưng khi được hỏi bạn sẽ làm gì, bạn thích làm
nghề gì, họ vẫn cảm thấy băn khoăn với câu trả lời của mình, điều đó có thể là một
trong những nguyên nhân dẫn đến việc lựa chọn sai nghề nghiệp của sinh viên, sự
lựa chọn nghề không phù hợp là do hai nguyên nhân chính: thiếu hiểu biết về nghề
và thái độ khơng đúng trong quá trình chọn và học nghề, cụ thể:
Một số bạn vẫn nặng nề với tư tưởng khi cho rằng nghề thợ thấp kém hơn nghề kỹ
sư, giáo viên cấp 2 thua kém giáo viên cấp 3, họ chỉ coi trọng công việc kỹ thuật,
luật sư, bác sĩ… từ đó họ có thành kiến với một số nghề trong xã hội. Quan niệm
như vậy của một số cá nhân là sự phản ánh chưa đầy đủ, bởi vì trong những chun
mơn cũng có những bậc thang tay nghề khác nhau. Người cơng nhân được đào tạo
theo các chương trình riêng, họ có vai trị, khả năng riêng trong các nhà máy, xí
nghiệp, cũng như người kỹ sư có vai trị và cơng việc riêng thích ứng với khả năng

của mình. Chúng ta nên nhìn nhận các nghề trong xã hội ở vị trí ngang nhau, đã là
nghề được xã hội thừa nhận thì khơng nên có tư tưởng cho rằng có sự cao sang hay
thấp hèn trong xã hội.
Một nguyên nhân nữa dẫn đến sự sai lầm khi chọn nghề là, chúng ta dựa dẫm vào ý
kiến của người khác, không độc lập trong việc quyết định chọn nghề. Chẳng hạn
nhiều người cịn có xu thế chọn nghề theo sở thích của bố mẹ, chọn theo số đơng

16



×