Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Luận văn Phân tích vai trò của thuế đối với nền kinh tế thị trường tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.22 KB, 60 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA TÀI CHÍNH CÔNG
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA THUẾ ĐỐI
VỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG TẠI VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: ThS. ĐẶNG VĂN CƯỜNG
Sinh viên thực hiện: LÊ NỮ NGỌC HÂN
Lớp: NN004
Khóa: K36
-TP.HCM, tháng 4 năm 2014-
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đối với các anh chị tại Chi cục
thuế Quận Phú Nhuận, đặc biệt là các anh chị thuộc đội Kiểm tra thuế số 3 đã tạo điều
kiện cho em trong quá trình thực tập tại đơn vị. Và em cũng xin cám ơn thầy Đặng Văn
Cường đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp.
Trong quá trình thực tập cũng như trong quá trình làm đề tài tốt nghiệp khó tránh khỏi
những sai sót, rất mong các anh chị cùng thầy bỏ qua. Đồng thời, do trình độ lý luận cũng
như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót,
em rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu từ các anh chị và Thầy để kiến thức của
em trong lĩnh vực này được hoàn thiện hơn.
Sau cùng, em xin kính chúc các anh chị hiện đang công tác tại Chi cục thuế Quận Phú
Nhuận nói chung và các anh chị Đội kiểm tra 3 nói riêng cùng Thầy hướng dẫn thực tập-
Ths. Đặng Văn Cường thật dồi dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao
đẹp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
TP.HCM, ngày tháng năm
Sinh viên thực hiện
NHẬN XÉT CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP
…………………………………………………………………………………………………………………


…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………….
TP.HCM, ngày tháng năm 2014
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………


TP.HCM, ngày tháng năm

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
TP. HCM, ngày tháng năm
Mục lục
Danh mục bảng
Danh mục từ viết tắt
NSNN: Ngân sách nhà nước
GTGT: Giá trị gia tăng
XNK: Xuất nhập khẩu
TNCN: Thu nhập cá nhân
TNDN: Thu nhập doanh nghiệp
TTCK: Thị trường chứng khoán
TTĐB: Tiêu thụ đặc biệt
SXKD: Sản xuất kinh doanh

TBCN: Tư bản chủ nghĩa
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang trên con đường đổi mới và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Quá trình
mở cửa, hội nhập kinh tế trong khu vực tiến đến toàn cầu hóa nền kinh tế đang dần chứng
tỏ là một qui luật của loài người tiến bộ. Trong quá trình đó, thuế luôn được các quốc gia
đặc biệt chú trọng bởi tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển và ổn định lâu dài về
mọi mặt của mỗi quốc gia.
Đối với Việt Nam, sau khi gia nhập WTO thì những biến đổi về chính sách thuế và
nguồn thu ngân sách là điều không thể tránh khỏi. Nhận thức được điều đó, nước ta đã và
đang tiến hành cuộc cải cách nhằm hoàn thiện hệ thống thuế còn nhiều thiếu sót để có thể
theo kịp và bắt nhịp với tốc độ phát triển kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế
giới, đồng thời cũng có thể đạt được các mục tiêu về kinh tế xã hội-chính trị mà Nhà nước
đã đề ra.
Là một sinh viên chuyên ngành Tài chính công, em rất mong muốn được tìm hiểu và
nghiên cứu về Thuế. Đề tài “Phân tích vai trò của thuế đối với nền kinh tế thị trường tại
Việt Nam” mà em dự định nghiên cứu sẽ là một cơ hội tốt cho em được nghiên cứu sâu
hơn về thuế. Em hi vọng sau khi viết đề tài này, với sự giúp đỡ của thầy giáo viên hướng
dẫn ThS. Đặng Văn Cường và các cô chú tại Chi cục thuế quận Phú Nhuận, nơi em thực
tập, em sẽ bổ sung và hoàn chỉnh hơn nữa những kiến thức và hiểu biết của mình về thuế
nói chung và vai trò, ảnh hưởng của thuế đối với nền kinh tế tại Việt Nam nói riêng.
Mục tiêu nghiên cứu:
- Mục tiêu tổng quát: đánh giá vai trò, tầm ảnh hưởng của thuế đối với sự phát triển
nền kinh tế Việt Nam.
- Mục tiêu chi tiết: xác định mối quan hệ giữa chính sách thuế và các yếu tố kinh tế
thị trường (cụ thể là hành vi tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư).
Câu hỏi nghiên cứu:
Đề tài này được thực hiện nhằm trả lời các câu hỏi sau:
(1) Với nền kinh tế ngày càng hội nhập như hiện nay, thuế có tầm ảnh hưởng như thế

nào? Mức độ ảnh hưởng ra sao?
(2) Để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế đất nước, thuế cần phải được hoàn
thiện theo hướng nào?
Quy trình thực hiện
Đề tài được thực hiện theo qui trình sau:
■ Đầu tiên, khái quát các lý thuyết về thuế nhằm làm rõ thuế là gì, phân biệt thuế với phí,
lệ phí. Đồng thời, thông qua các học thuyết kinh tế cận, hiện đại để thấy rằng: thuế trong
từng giai đoạn lịch sử có vai trò không giống nhau, một xã hội muốn phát triển không thể
thiếu đi vai trò của thuế, thuế là công cụ để Nhà nước điều tiết thị trường theo định hướng
đã định.
■ Tiếp đến, phân tích thực trạng tác động của thuế đối với nền kinh tế thị trường tại Việt
Nam, trên cơ sở đó rút ra một số nhận xét.
■ Phần tiếp theo là nghiên cứu thực nghiệm về tác động của thuế đối với kinh tế Việt
Nam. Cách thức nghiên cứu sẽ được thực hiện dựa trên phương pháp nghiên cứu của tác
giả Ehigiamusoe Uyi Kizito về ảnh hưởng của thuế đối với nền kinh tế tại Nigeria. Cụ
thể, bài sẽ sử dụng phương pháp tiếp cận mô tả và phân tích, đồng thời tiến hành kiểm
định nhân quả Engle- Granger. Kết quả nghiên cứu của Ehigiamusoe Uyi Kizito cho thấy:
thuế có tác động rất nhỏ vào nền kinh tế tại Nigeria, câu hỏi đặt ra là: với cùng một
phương pháp nghiên cứu, liệu rằng khi áp dụng vào Việt Nam kết quả mang lại có thay
đổi gì không? Sự thay đổi này là tích cực hay tiêu cực? Đây sẽ là mục tiêu cho phần
nghiên cứu thực nghiệm.
Dữ liệu cho nghiên cứu này bao gồm giai đoạn 1995-2011, số liệu lấy từ một nguồn duy
nhất là Tổng cục Thống kê. Do đó, tính thống nhất của dữ liệu cao, kết quả nghiên cứu
thực nghiệm được xem là đáng tin cậy.
■ Cuối cùng, là một số kiến nghị nhằm điều chỉnh và hoàn thiện chính sách thuế Việt
Nam trong thời gian tới.
Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu, người viết bài tiến hành nghiên cứu định
tính, sử dụng thống kê mô tả, đánh giá, phân tích sau đó tổng hợp các ý kiến, tập trung
làm rõ mục tiêu đề tài.

Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Luật thuế Việt Nam và thực trạng áp dụng chính sách
thuế trong giai đoạn 1995-2011. Ngoài ra, để phục vụ cho bài viết được đầy đủ, hoàn
chỉnh hơn, người viết còn nghiên cứu các đối tượng khác là các công trình nghiên cứu đã
được công nhận của các nhà kinh tế học trên thế giới về vai trò của thuế đối với nền kinh
tế thị trường, tiêu biểu là nghiên cứu của tác giả Ehigiamusoe Uyi Kizito về Mối quan hệ
giữa chính sách thuế và phát triển kinh tế tại Nigeria.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
1.1. Tổng quan về thuế:
Khái niệm:
Thuế là một công cụ tài chính vô cùng quan trọng gắn liền với sự tồn tại và phát triển
của Nhà nước mà bất cứ quốc gia nào cũng sử dụng công cụ thuế để tham gia vào việc
thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình. Đánh thuế không đơn thuần để tạo ngân sách
chính phủ mà còn mang nhiều ý nghĩa quan trọng về kinh tế, chính trị và xã hội. Một hệ
thống thuế hữu hiệu không chỉ củng cố nguồn lực tài chính công, kích thích tăng trưởng
kinh tế của quốc gia mà còn góp phần tăng cường khả năng cạnh tranh và hội nhập của
nền kinh tế. Tùy thuộc vào từng thể chế chính trị, từng giai đoạn lịch sử khác nhau đã
xuất hiện rất nhiều học thuyết về thuế. Những học thuyết này đã thể hiện nhiều quan điểm
tương đồng cũng như những quan điểm đối kháng lẫn nhau về thuế.
Thuyết thuế ước khẳng định rằng “thuế là đối giá của hàng hóa và dịch vụ công cộng
chính phủ cung cấp”. Thuyết tương đẵng phát biểu “thuế là một phần tài sản công dân
đóng góp để yên hưởng phần còn lại. Hai học thuyết này khá tương đồng và thể hiện rất
rõ quyền lợi của người nộp thuế, khẳng định hoàn toàn không có sự bắt buộc nào, thuế
được xây dựng và thực thi trên cơ sở tự nguyện.
Theo thuyết trái khoản xã hội, thuế là một món nợ xã hội. Khác với hai học thuyết
trên, thuyết trái khoản xã hội bắt đầu thể hiện mạnh mẽ nghĩa vụ bắt buộc của thuế. Học
thuyết trái khoản xã hội thể hiện tính công bằng theo khả năng thụ thuế của người nộp
thuế dựa trên cơ sở người nộp thuế có thu nhập cao hơn sẽ nộp thuế nhiều hơn.
Theo E.R.A Seligman “sự đóng góp cưỡng bách của mọi người cho chính phủ để trang
trải các chi phí vì quyền lợi chung, không căn cứ vào các lợi riêng được hưởng”. Theo

Philip E. Taylor “Thuế là sự đóng góp cưỡng bách của mỗi chính phủ để trang trải các chi
phí vì quyền lợi chung mà ít căn cứ vào lợi ích riêng được hưởng”. Theo Simon James và
Christopher Nobes “Thuế là một khoản thu do Nhà nước thực hiện mà không có sự hoàn
12
trả nào”. K. Marx và F. Engles cũng đưa ra quan điểm về thuế khá tương đồng, theo K.
Marx “Thuế là cơ sở kinh tế của Nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để Kho bạc thu được tiền
hay sản vật mà người dân đóng góp để dùng cho việc chi tiêu của Nhà nước”. Theo F.
Engles “Để duy trì quyền lực công cộng cần có sự đóng góp của công dân cho Nhà nước,
đó là thuế”.
Tóm lại, đã có nhiều học thuyết đưa ra nhiều khái niệm về thuế khác nhau. Tuy nhiên,
cho đến nay các khái niệm đều thừa nhận: thuế là một khoản nộp của các tổ chức và cá
nhân cho Nhà nước theo luật định nhằm chu cấp cho các chi phí của Chính phủ, thuế gắn
liền với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Về mặt lý thuyết, các công dân nhận được
bất cứ một số các lợi ích nào từ phía Chính phủ đối với tiền thuế họ đã nộp. Tuy nhiên,
giá trị những lợi ích nào từ phía Chính phủ mà một cá nhân cụ thể nhận được không
tương ứng với số tiền thuế mà họ phải nộp. Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế xã
hội, thuế đã thay đổi và phát triển theo sự phát triển của chức năng Nhà nước. Trong nền
kinh tế tự do cạnh tranh thuế chỉ đơn thuần là công cụ tạo nguồn thu cho Nhà nước, đến
nền kinh tế hiện đại thuế đã tham gia vào điều tiết nền kinh tế.
Phân biệt thuế với phí, lệ phí
■ Thuế là khoản đóng góp bắt buộc theo quy định pháp luật của các cá nhân và pháp
nhân đối với Nhà nước không mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp.
■ Lệ phí là khoản thu vừa mang tính chất phục vụ cho đối tượng nộp lệ phí về việc
thực hiện một số thủ tục hành chính vừa mang tính chất động viên sự đóng góp cho ngân
sách Nhà nước.
■ Phí là khoản thu mang tính chất bù đắp chi phí thường xuyên hoặc bất thường như
phí về xây dựng, bảo dưỡng, duy tu của Nhà nước đối với những hoạt động phục vụ
người nộp phí.
Thuế, lệ phí và phí đều là nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và đều mang tính pháp lý
nhưng giữa chúng có sự khác biệt như sau:

● Xét về mặt giá trị pháp lý:
13
Thuế có giá trị pháp lý cao hơn lệ phí, phí. Thuế được ban hành dưới dạng văn bản
pháp luật như: Luật, Pháp lệnh do Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua.
Trình tự ban hành một Luật thuế phải tuân theo một trình tự chặt chẽ.
Trong khi đó lệ phí, phí được ban hành dưới dạng Nghị định, Quyết định của Chính
phủ; Quyết định của các Bộ, cơ quan ngang Bộ , cơ quan thuộc Chính phủ; Nghị quyết
của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
● Xét về mục đích và mức độ ảnh hưởng đối với nền kinh tế-xã hội thì thuế có 3 tác
dụng lớn:
- Tạo nguồn thu lớn cho NSNN.
- Điều chỉnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý và định hướng phát triển
kinh tế.
- Đảm bảo sự bình đẳng giữa những chủ thể kinh doanh và công bằng xã hội.
Qua đó chúng ta thấy, thuế có tác động lớn đến toàn bộ quá trình phát triển kinh tế-xã
hội của một quốc gia, đồng thời thuế là một bộ phận rất quan trọng cấu thành chính sách
tài chính quốc gia.
Trong khi đó, lệ phí, phí không có những tác dụng nói trên, nó chỉ có tác dụng tạo
nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, việc tạo nguồn này không phải dùng đáp
ứng chi tiêu mọi mặt của Nhà nước mà trước hết dùng để bù đắp chi phí các hoạt động
của các cơ quan cung cấp cho xã hội một số dịch vụ công cộng như: dịch vụ công chứng,
dịch vụ đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản, dịch vụ hải quan…
Ngoài dấu hiệu là thuế được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước,
thuế còn được phân biệt với phí, lệ phí ở chỗ các cá nhân và pháp nhân có nghĩa vụ nộp
thuế cho Nhà nước nhưng không trên cơ sở được hưởng những lợi ích vật chất tương ứng
mang tính đối giá. Trong khi đó hình thức phí, lệ phí và công trái nói chung mang tính tự
nguyện và có tính chất đối giá. Tính bắt buộc của lệ phí và phí chỉ xảy ra khi chủ thể nộp
phí, lệ phí thừa hưởng trực tiếp những dịch vụ do Nhà nước cung cấp.
Bên cạnh đó, thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Tính
chất không hoàn trả trực tiếp của thuế thể hiện ở chỗ Nhà nước thu thuế từ các các cá

nhân và pháp nhân trong xã hội nhưng không bị ràng buộc bởi trách nhiệm phải hoàn trả
14
lại cho người nộp. Người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận được các lợi ích vật chất từ việc
sử dụng các dịch vụ công cộng do Nhà nước sử dụng các khoản chi của Ngân sách Nhà
nước để thực hiện các chính sách kinh tế- xã hội chung cho cả cộng đồng. Tuy nhiên, giá
trị phần dịch vụ đó không nhất thiết tương đồng với khoản tiền thuế mà họ đã nộp cho
Nhà nước. Tính chất này của thuế cho phép chúng ta phân biệt thuế với phí, lệ phí và các
khoản thu mà Nhà nước tập trung vào Ngân sách Nhà nước nhưng ràng buộc trách nhiệm
hoàn trả cho đối tượng nộp dưới các hình thức như: vay nợ, tạm ứng cho ngân sách Nhà
nước.
● Xét về tên gọi và mục đích:
Mục đích của từng loại phí rất rõ ràng, thường phù hợp với tên gọi của nó. Nói một
cách chính xác hơn, tên gọi của loại phí nào phản ánh khá đầy đủ mục đích sử dụng loại
phí đó. Mỗi một Luật thuế đều có mục đích riêng. Tuy nhiên, đa số các sắc thuế có tên gọi
không phản ánh đúng mục đích sử dụng, mà thường phản ánh đối tượng tính thuế.
Nói chung, mục đích của việc sử dụng các loại thuế thường là tạo nguồn quỹ ngân
sách Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi ngân sách Nhà nước, thực hiện chức năng quản
lý xã hội của Nhà nước.
Các đặc trưng cơ bản của thuế.
a) Tính chất bắt buộc.
Thuế thể hiện quan hệ kinh tế-chính trị giữa Nhà nước và các tổ chức, cá nhân. Nhà
nước là thể chế chính trị có quyền lực tối cao nhất ban hành các Luật thuế được thông
qua của Quốc hội và bắt buộc các tổ chức và cá nhân phải thực hiện trách nhiệm của
mình. Thuế không thể trông chờ vào sự tự nguyện của người nộp thuế, bởi lẽ từ khi thuế
xuất hiện với hình thức thu thuế sơ khai nhất thì loài người đã bắt đầu biết trốn thuế, khi
kiến thức về thuế phát triển cao hơn con người bắt đầu biết tránh thuế. Cả hai hành động
này dù có mức độ tinh vi khác nhau nhưng đều nhằm vào mục tiêu cuối cùng là tối thiểu
gánh nặng thuế của người nộp thuế gây thiệt hại cho số thu ngân sách Nhà nước từ thuế
và làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của toàn xã hội. Để ổn định nguồn thu cho ngân
sách, thuế được quy định bằng các văn bản pháp quy để tăng tính bắt buộc (cưỡng chế)

15
của thuế. Người nộp thuế theo quy định phải thực hiện quy trình tuân thủ thuế để chấp
hành các quy định của Luật thuế. Nếu không tuân thủ các quy định của Luật thuế thì tùy
theo mức độ nặng hay nhẹ, người nộp thuế sẽ trở thành tội phạm và bị xử phạt thích đáng
với hành vi vi phạm.
b) Thuế không hoàn trả một cách trực tiếp.
Thuế thể hiện sự chuyển dịch quyền sở hữu thu nhập. Thông qua thuế, thu nhập từ các
tổ chức, cá nhân được chuyển sang Nhà nước. Nhà nước có toàn quyền sử dụng thu nhập
từ thuế vì lợi ích chung của toàn xã hội. Số thu từ thuế được Nhà nước đưa vào cân đối
chung cho các nhu cầu chi tiêu của Ngân sách Nhà nước. Về mặt lý thuyết, khẩu hiệu
“Thuế là nghĩa vụ và quyền lợi của công dân” không nên được hiểu theo quan điểm trao
đổi ngang giá. Số tiền nộp thuế sẽ không tương ứng với quyền lợi mà người nộp thuế
nhận được. Bởi lẽ sản phẩm trao đổi là các hàng hóa, dịch vụ công chứ không phải hàng
hóa, dịch vụ thông thường mua bán trên thị trường theo nguyên tắc trao đổi ngang giá.
Khác với hàng hóa, dịch vụ thông thường giao dịch trên thị trường, hàng hóa, dịch vụ
công nhằm vào lợi ích của toàn xã hội mà chủ yếu là lợi ích của người có thu nhập thấp.
Thông thường, người hưởng thụ các hàng hóa, dịch vụ công chỉ chi trả thấp hơn giá trị
thực sự của hàng hóa, dịch vụ công này. Để bù đắp cho sự không tương thích về giá trị
trao đổi không có sự hoàn trả trực tiếp hay không có đối giá trực tiếp này đó là tiền thuế
của Nhà nước.
Tóm lại, nộp tiền thuế cho Nhà nước là một nghĩa vụ theo luật định của người nộp
thuế. Người nộp thuế phải tuân thủ luật bằng cách nộp thuế và khi nộp thuế sẽ không có
quyền đòi hỏi bất cứ một sự hoàn trả trực tiếp hay thậm chí gián tiếp riêng tư nào từ phía
Chính phủ vì sự hoàn trả này sẽ nhằm vào lợi ích chung của toàn xã hội chứ không vì lợi
ích riêng tư nào cho dù đó là những người nộp thuế nhiều nhất. Tuy nhiên, trong xã hội
dân chủ việc sử dụng tiền thuế của Nhà nước phải chịu sự giám sát của người dân và các
tổ chức chính trị. Mặc dù không hoàn trả một cách trực tiếp nhưng chi tiêu của Nhà nước,
đặc biệt là các khoản chi phúc lợi xã hội sẽ góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của người dân được tài trợ bằng tiền thuế. Như vậy, một cách gián tiếp, nhà nước
hoàn trả cho người dân qua chi tiêu từ thuế.

c) Thuế dùng vào chi tiêu công.
16
Tổng số thu từ thuế được đưa vào Ngân sách Nhà nước và cân đối chung nhằm đáp
ứng nhu cầu chi tiêu trên nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội. Suy cho cùng, chi tiêu từ thuế của
Nhà nước đều phục vụ cho lợi ích của cộng đồng xã hội. Ngay cả chi tiêu cho bộ máy
quản lý Nhà nước (chi quản lý hành chánh) không đơn thuần chỉ nhằm duy trì hoạt động
của các cơ quan Nhà nước. Bởi lẽ, các cơ quan Nhà nước cũng cung cấp nhiều dịch vụ
hành chính phục vụ cho nhu cầu của người dân nói chung.
Bản chất và vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường.
a) Bản chất của thuế.
Thu thuế thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và các tổ chức, cá nhân. Xét về bản chất
là quan hệ tái phân phối thu nhập. Thu nhập từ các tổ chức và cá nhân, chuyển thành thu
nhập của Nhà nước, góp phần tạo lập quỹ Ngân sách Nhà nước.
Có thể khái quát bản chất của thuế như sau: thuế thể hiện quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước và các tổ chức, cá nhân trong xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước-bằng quyền
lực của mình-tham gia tái phân phối tổng sản phẩm quốc nội nhằm tạo lập quỹ ngân sách
Nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Cơ sở chính trị-xã hội dẫn đến sự ra đời của thuế là quyền lực Nhà nước. Cơ sở kinh
tế, mang ý nghĩa quyết định đến số thu thuế chính là sự tăng trưởng của nền kinh tế. Điều
này yêu cầu Nhà nước phải xây dựng chính sách thuế trong mối quan hệ với sự tăng
trưởng của nền kinh tế.
b) Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường.
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của hệ thống thuế trong những
điều kiện kinh tế-xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự thay đổi
phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế đóng vai trò hết sức
quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Vai trò của thuế được thể hiện ở các
khía cạnh sau đây:
■ Huy động một phần của cải vật chất trong xã hội vào Ngân sách Nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp
nhân và thể nhân trong xã hội. Việc các chủ thể nộp thuế-thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo

quy định của pháp luật đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ
cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước.
17
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của nền
kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nề kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động
mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung
nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng
tăng.
Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập
quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hiện nay nguồn thu nước
ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển thành có vay có trả. Trước tiên thuế là một
công cụ quan trọng để góp phần ổn định trật tự xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho
việc phát triển lâu dài.
Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống
nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế đã điều chỉnh được hầu hết các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng xã hội. Đây là nguồn thu chính của
ngân sách Nhà nước.
■ Góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế-xã hội.
Điều 26 Hiến pháp 1992 ghi nhận: Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam,
pháp luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Thông qua việc ban
hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hóa và thực hiện chính sách điều tiết
đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Điều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước trong
điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của luật thuế về cơ cấu các loại
thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm thuế…Nhà nước chủ động phát
huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Dựa vào thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn
chế việc đầu tư, tiêu dùng.
Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp đến cung-
cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung cầu của nền kinh tế

một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Bằng các quy
định của luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến cung-cầu của nền kinh tế trong tất cả
các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
18
Điều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường. Thông qua các quy định của luật thuế, Nhà nước tác động đến các quan hệ tiêu
dùng của xã hội. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch vụ, Nhà
nước tăng thuế suất giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu…đối với việc sản xuất kinh
doanh, tiêu dùng các loại hàng hóa đó.
Để thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích
xuất khẩu, luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các qui định khuyến khích hoặc hạn chế
việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện
tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập
khẩu.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, tất yếu
dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Đối với những ngành
nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định chung, luật
thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài
chính, tạo sự ổn định và phát triển cho các doanh nghiệp.
Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong nước để đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Thông qua luật thuế, Nhà nước có tác động tích cực trong
việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu quả các
nguồn lực của đất nước trong việc điều chỉnh cung-cầu và cơ cấu kinh tế.
■ Thuế góp phần đảm bảo sự công bằng xã hội.
○ Công bằng theo chiều ngang: là khi một loại thuế được soạn thảo dành cho những cá
nhân có cùng khả năng nộp thuế như nhau (được đo lường theo căn cứ tính thuế) nợ
cùng một khoản thuế như nhau.
Công bằng theo chiều ngang của thuế thu nhập được làm nổi bật bằng cách tính toán
tinh tế thu nhập chịu thuế để gộp các biến số đáng kể tác động đến hoàn cảnh kinh tế của
một cá nhân. Nhưng căn cứ tính thuế tinh tế có giá của nó: mỗi sự tinh tế sẽ thêm vào các

trang mới quy định trong luật thuế. Việc này có thể cải thiện tính công bằng theo chiều
ngang của thuế nhưng lại làm cho luật thuế trở nên vô cùng phức tạp.
19
○ Công bằng theo chiều dọc: một hệ thống thuế công bằng theo chiều dọc nếu những
cá nhân với một khả năng nộp thuế cao hơn sẽ nộp thuế nhiều hơn những cá nhân cá khả
năng nộp thuế thấp hơn. Trong khi công bằng theo chiều ngang cho phép đo lường có
chừng mực mà không thiên vị của căn cứ tính thuế, công bằng theo chiều dọc thì liên
quan đến cấu trúc mức công bằng mà qua đó tính thuế. Trong thực tế để áp dụng nguyên
tắc này cần xác định rõ hai vấn đề: tiêu thức xác định khả năng nộp thuế của từng người
và mức độ nộp thuế cao hơn nhiều bao nhiêu.
Công bằng trong hệ thống thuế phụ thuộc rất nhiều vào việc nhận định các vấn đề kinh
tế xã hội của Nhà nước, nền tảng đạo đức và truyền thống của mỗi dân tộc. Công bằng chỉ
mang tính chất tương đối. Có thể các hiện tượng công bằng ngày hôm nay rồi cũng trở
nên bất công trong tương lai và xã hội sẽ thiết lập một trật tự công bằng mới ở mức độ
nhận thức cao hơn, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội quốc gia.
Phân loại thuế.
a)
b) Theo phương thức huy động của thuế: bao gồm thuế trực thu và thuế gián thu.
Thuế trực thu Thuế gián thu
20
Thuế thu đối với thu nhập: Thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu đối với hàng hóa, dịch vụ: thuế Doanh
thu, GTGT, tiêu thụ đặc biệt, thuế XNK…
Theo đối tượng
của thuế
Thuế thu đối với tài sản: thuế sử dụng đất phi
nông nghiệp, thuế bất động sản, thuế động sản,
thuế tài nguyên, thuế di sản…
Là các loại thuế điều tiết trực tiếp vào thu

nhập hoặc tài sản của người nộp thuế.
Là loại thuế đánh vào hàng hóa và dịch
vụ, được xem như một khoản giá trị cộng
thêm vào giá bán của hàng hóa, dịch vụ
mà người tiêu dùng phải chi trả.
Người nộp thuế cũng chính là người chịu
thuế, vì vậy thuế trực thu tạo cảm giác rõ
ràng và thường gặp phải phản ứng của
người nộp thuế.
Người chịu thuế (người tiêu dùng) và
người nộp thuế (người bán) là hai người
hoàn toàn khác nhau, do đó thuế gián thu
ít gây phản ứng đối với người nộp thuế và
người chịu thuế hơn so với thuế trực thu.
Có tính đến khả năng của người nộp thuế,
người có thu nhập cao hơn phải nộp thuế
nhiều hơn, còn người có thu nhập thấp thì
nộp thuế ít hơn.
Mang tính chất bình quân, không tính đến
khả năng thu nhập của người chịu thuế.
Người có thu nhập cao hay thấp đều chịu
thuế như nhau nếu cùng mua một loại
hàng hóa, dịch vụ.
Lệ thuộc vào thu nhập của xã hội, do đó là
loại thuế phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ
phát triển kinh tế, mức độ tăng thu nhập của
xã hội nên thiếu ổn định.
Phát sinh khi hoạt động tiêu dùng diễn ra.
Mặc khác, đối với loài người thì ngay
trong hoàn cảnh kinh tế bị suy thoái, hoạt

động tiêu dùng vẫn tiếp diễn. Do đó, thuế
gián thu ổn định hơn thuế trực thu.
Có khuynh hướng là thuế lũy tiến và mang
ý nghĩa công bằng theo chiều dọc.
Có khuynh hướng lũy thoái.
c) Theo tính chất của thuế.
Phụ thuộc vào mức độ động viên của thuế so với thu nhập phân loại thành: thuế lũy tiến,
thuế theo tỷ lệ cố định và thuế lũy thoái.
- Thuế lũy tiến thiên về khía cạnh điều tiết công bằng thu nhập, chú trọng đến nhân thân,
hoàn cảnh của đối tượng chịu thuế.
- Thuế theo tỷ lệ cố định áp dụng một tỷ lệ phần trăm duy nhất đối với toàn bộ căn cứ tính
thuế, thường được áp dụng cho các loại thuế gián thu.
- Thuế lũy thoái nhằm tập trung số thuế cho ngân sách nhà nước, do đó chưa thật sự công
bằng trong điều tiết thu nhập của đối tượng chịu thuế.
d) Các yếu tố cấu thành luật thuế.
○ Tên gọi của luật thuế:
21
Thông thường, tên gọi một loại thuế nên ngắn gọn và nêu lên được đối tượng, phạm vi
của loại thuế đó vì đây là hai vấn đề mà người nộp thuế quan tâm trước hết.
○ Người nộp thuế:
Là các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm phải nộp thuế theo luật định. Tùy thuộc vào
tính chất trực thu hay gián thu của thuế, người nộp thuế có thể là người chịu thuế hay chỉ
là người nộp thay khoản thuế.
Về mặt kỹ thuật, thay vì liệt kê người nộp thuế, luật thuế chú trọng hơn đến việc giải
thích các trường hợp không nộp thuế.
○ Căn cứ tính thuế:
Đây là yếu tố phục vụ cho phương pháp tính thuế, mang ý nghĩa là phương tiện để
tính toán số thuế. Mỗi loại thuế có căn cứ tính thuế khác nhau. Tuy nhiên, luật thuế
thường sử dụng các luật thuế như: số lượng hàng hóa, dịch vụ; đơn giá tính; đơn vị tính;
thu nhập chịu thuế…khi soạn thảo một luật thuế Chính phủ cần phải xác định căn cứ tính

thuế để những người nộp thuế không thể dễ dàng né tránh hoặc che giấu.
○ Thuế suất:
Là mức thu hay suất thu thuế, được ấn định trên căn cứ thu thuế. Thuế suất cũng giống
như căn cứ tính thuế là một trong hai biến số trong hàm số xác định số thu thuế vào ngân
sách Nhà nước T = B x r. Có nhiều hình thức thuế suất được sử dụng, mỗi hình thức đều
có những ưu nhược điểm nhất định, rất khó để có thể chọn ra một hình thức tối ưu để áp
dụng chung cho cả hệ thống.
Thuế suất tuyệt
đối
Thuế suất tỷ
lệ cố định
Thuế suất tỷ lệ lũy
tiến
Thuế suất tỷ
lệ lũy thoái
Đặc điểm Mức thu thuế
được quy định
bằng con số
tuyệt đối, đơn vị
tính bằng tiền
Tính bằng tỷ
lệ % trên căn
cứ tính thuế,
tỷ lệ này cố
định, không
phụ thuộc vào
căn cứ tính
thuế
Tính bằng tỷ lệ %
và tăng dần theo

sự gia tăng của
căn cứ tính thuế,
biểu thuế sẽ có
nhiều bậc.
Quy định
theo tỷ lệ %
và giảm dần
khi căn cứ
tính thuế
tăng lên.
Ưu điểm ổn định trong
thời gian dài,
đơn giản, dễ
hiểu và dễ tính
toán.
Đơn giản, dễ
hiểu và dễ
tính toán.
Điều tiết công
bằng thu nhập
trên cả hai khía
cạnh: công bằng
về số thuế và công
22
bằng về thu nhập
còn lại sau thuế.
Nhược điểm Dễ bị lạc hậu;
chưa tạo nên
công bằng thật
sự trong điều

tiết thu nhập.
Thu nhập của
người chịu
thuế chưa thật
sự được điều
tiết công bằng
Phức tạp, thường
gây ngộ nhận là
thuế cao do thuế
suất trên biểu thuế
không là thuế suất
thực.
Không công
bằng trong
điều tiết thu
nhập.
○ Miễn, giảm thuế:
Số thuế được miễn hoặc giảm, thực chất là số thuế phải nộp, nhưng được để lại cho
người nộp thuế. Yếu tố miễn giảm cho phép nhà nước sử dụng công cụ thuế một cách linh
hoạt hơn, ngoài ra còn “mềm hóa” yếu tố thuế suất, giúp chính sách thuế có thể tiếp cận
đến các trường hợp cụ thể.
Trên thực tế, có những yếu tố hay hoàn cảnh khách quan hoặc chủ quan, gây tác động
bất lợi cho người nộp thuế. Có thể dẫn đến sự thiệt hại về tài sản, sút giảm thu nhập; trong
khi thuế suất thường áp dụng chung không tính đến từng trường hợp cụ thể và thường ổn
định trong một thời gian dài. Khi đó, chính yếu tố miễn giảm sẽ hỗ trợ để tạo sự công
bằng trong điều tiết thu nhập giữa các tổ chức và cá nhân. Mục đích miễn giảm trong
trường hợp này còn mang ý nghĩa hỗ trợ cho người nộp thuế khi gặp khó khăn trong đời
sống.
Trên góc độ kinh tế, chính sách thuế còn được Nhà nước sử dụng như công cụ nhằm
điều tiết kinh tế vĩ mô nền kinh tế. Các qui định miễn giảm thuế có tác dụng khuyến khích

đầu tư mới hay theo chiều sâu; khuyến khích đầu tư vào những ngành nghề hoặc vùng
lãnh thổ; từ đó góp phần cơ cấu lại nền kinh tế.
Tuy nhiên, miễn giảm thuế cũng có tác động tiêu cực: làm phức tạp luật thuế; tăng
quyền lực cho cơ quan thuế, do đó bị lợi dụng nhằm mục đích trục lợi không hợp pháp;
làm giảm tính chặt chẽ của luật thuế.
1.2. Lý thuyết về sự tác động của thuế đối với nền kinh tế.
Thuế là công cụ để Nhà nước tác động vào nền kinh tế thị trường, do đó suy cho cùng
thì tác động của thuế đối với nền kinh tế cũng chính là tác động mà Nhà nước gây ra
nhằm định hướng cho nền kinh tế thị trường theo đúng hướng đã vạch. Sau đây, chúng ta
23
sẽ cùng nghiên cứu về vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường thông qua một
số học thuyết kinh tế cận, hiện đại.
Cách nhìn của trường phái Tân cổ điển.
Cũng giống như các nhà kinh tế Cổ điển, trường phái Tân cổ điển không xem xét vai
trò của nhà nước một cách biệt lập mà đặt nó trong một hệ thống lý thuyết chung. Họ
đưa ra một quan niệm tổng quát về nền kinh tế thị trường để từ đó đánh giá vai trò của
nhà nước, phân biệt rõ chỗ nào để thị trường hoạt động, chỗ nào cần nhà nước can thiệp.
Theo phái Tân cổ điển, nền kinh tế thị trường là một hệ thống mang tính ổn định, mà
sự ổn định bên trong là thuộc tính vốn có chứ không phải là kết quả sự sắp đặt của nhà
nước. Khả năng đó được quyết định bởi một cơ chế đặc biệt - “cơ chế cạnh tranh tự do.”
Cạnh tranh tự do thường xuyên bảo đảm sự cân bằng chung của nền kinh tế. Chính cơ
chế này cho phép phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý, tận dụng triệt để mọi nguồn
lực và dẫn đến quan hệ phân phối mang tính công bằng giữa các bộ phận xã hội. Công
bằng ở đây theo nghĩa, những bộ phận nào có khả năng thích ứng tốt nhất với những diễn
biến và những nhu cầu thị trường thì sẽ có thu nhập và thu nhập chính đáng. Nếu như
trên thực tế xảy ra những hiện tượng không bình thường thì phải tìm nguyên nhân của
những hiện tượng đó từ chính sách can thiệp của nhà nước.
Theo quan niệm phổ biến của phái Tân cổ điển, để lựa chọn được cách can thiệp hợp
lý, nhà nước phải hiểu được cấu trúc của nền kinh tế thị trường, cơ chế vận hành của nó
và tôn trọng những quy luật khách quan liên quan đến cung - cầu. Muốn xác định chính

xác ngưỡng can thiệp thì phải hiểu những nhân tố ảnh hưởng tới cung - cầu và những
điều kiện cho sự cân bằng cung và cầu. Cũng theo các nhà kinh tế Tân cổ điển, cạnh
tranh tự do không bao giờ nảy sinh một cách tự nhiên, nó chỉ xuất hiện và phát huy tác
dụng khi được đảm bảo bởi nguyên tắc số một: sở hữu tư nhân. Đây là cơ sở để nền kinh
tế thị trường thích ứng với mọi sự thay đổi của giá cả. Chính chế độ sở hữu tư nhân là
nhân tố cơ bản làm cho nền kinh tế thị trường luôn khôi phục được sự cân bằng chung.
Do vậy, khi nhà nước thu hẹp không gian kinh tế của khu vực tư nhân chắc chắn dẫn tới
sự bất ổn. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, quyền tự do kinh doanh của các nhà sản
24
xuất và quyền tự do lựa chọn của người tiêu dùng là những lực lượng chế ngự, chi phối;
chế độ tư hữu là cơ sở bảo đảm cho sự hòa hợp tự nhiên, do vậy không cần sự điều chỉnh
nào của chính phủ hay các cơ quan điều tiết khác.
Với những quan niệm trên đây, trường phái Tân cổ điển khuyến nghị nhà nước nên
dừng ở những chức năng chính là: 1- Duy trì ổn định chính trị; 2- Tạo môi trường pháp
luật ổn định và chính sách thuế khóa hợp lý, khuyến khích người tiêu dùng; 3- Sử dụng
hợp lý ngân sách quốc gia, hướng chi tiêu ngân sách cho mục tiêu phát triển kinh tế như
đào tạo nhân lực, nghiên cứu cơ bản để đổi mới công nghệ, hỗ trợ cho những ngành sản
xuất có triển vọng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới Ngoài những chức năng cơ
bản đó, nhà nước không nên can thiệp gì thêm, hãy để cho giới kinh doanh và người tiêu
dùng quyết định những vấn đề còn lại.
Quan niệm của Keynes và trường phái Keynes
So sánh cách nhìn của Keynes và cách nhìn của Tân cổ điển, có thể thấy sự khác nhau
căn bản trong quan niệm về vai trò của nhà nước. Nếu Tân cổ điển cho rằng nhà nước
không nên điều tiết trực tiếp mà chỉ dừng lại ở chức năng tạo môi trường thì Keynes
khẳng định, muốn thoát khỏi khủng hoảng, thất nghiệp và suy thoái, nhà nước phải trực
tiếp điều tiết kinh tế. Cách thức điều tiết là thông qua những chương trình công cộng và
dùng những chương trình này để can thiệp tích cực với hướng kích thích và duy trì tốc độ
gia tăng ổn định của tổng cầu, vai trò của thuế cũng tác động đáng kể.
Keynes đưa ra cách lập luận mới về đầu tư khác hẳn với trường phái Tân cổ điển.
Theo các nhà kinh tế Tân cổ điển, mức đầu tư gắn chặt với lãi suất và nếu lãi suất thấp,

quan hệ vay vốn được khuyến khích dẫn đến sự gia tăng quy mô đầu tư. Khi nền kinh tế
bắt đầu rơi vào tình trạng suy thoái, lãi suất sẽ giảm và do đó dẫn đến mức đầu tư tăng
lên. Trường phái Tân cổ điển cho rằng đây là quy luật tự điều tiết và chính quy luật đó
giúp tạo khả năng ngăn chặn suy thoái. Ngược lại, theo Keynes, ở thời điểm suy thoái,
ngay cả những nhà đầu tư mạo hiểm nhất cũng không dám đầu tư kể cả khi lãi suất thấp
vì họ cho rằng bỏ vốn vào kinh doanh trong bối cảnh như vậy chắc chắn sẽ thua lỗ. Như
vậy không có một cơ chế tự hành nào có thể thúc đẩy nền kinh tế tư bản đến khả năng sử
25

×