Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

đề tài lạm phát 2011 - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.49 KB, 29 trang )

1
Luận văn
Đề tài: Lạm phát 2011 - thực trạng
và giải pháp
2
Mục lục
Chương 1: Cơ sở lí luận về làm phát………………………… ………………………………… …4
1.1 Khái niệm lạm phát…………………………………………………… ………….… ……… …4
1.2 Các phép đó của chỉ số lạm phát…………………………………………………………….… 4
1.3 Phân loại lạm phát………………………………………………………………………… ….…4
1.4 Nguyên nhân của lạm phát…………………………………………….………… …… ……… 5
Chương 2: Tình hình kinh tế và thực trạng lạm phát ở Việt Nam……………… … ……………7
2.1 Tổng quan nền kinh tế Việt Nam…………………………………….………………………….…7
2.2 Diễn biến lạm phát ở nước ta hiện nay………………………………………………… ………9
2.3 Nguyên nhân lạm phát ở nước ta ……………………………………………………… 12
2.4 Tác động của lạm phát đến mọi mặt của đời sống………………………………….…… 16
Chương 3: Một số biện pháp kiềm chế lạm phát của chính phủ…………………… ……… …18
3.1 Để kiềm chế lạm phát do chi phí đẩy, Việt Nam đã có những biện pháp tích cực như: giảm
thuế nhập khẩu , dãn nợ, bù giá, cho các doanh nghiệp nhập khẩu và sử dụng nguyên, nhiên
liệu nhập khẩu 18
3.2 Các biện pháp thắt chặt tiền tệ……………………………………………………………….….18
3.3 Chính phủ ban hành nghị quyết số 11/NQ-CP…………………………………………… 18
3.4 Một số biện pháp khác………………………………………………………………….…….… 19
Chương 4 : Một số dự báo chung về tình hình kinh tế Việt Nam…………………………………21
4.1 Dự báo kinh tế Việt Nam cuối năm 2011…………………………………………………….…21
4.2 Nhận định tỉ giá USD cuối năm 2011……………………………………………………….….21
4.3 Dự báo xu thế tỉ giá USD cuối năm 2011………………………………………………….… 22
4.4 Dự báo giá vàng thế giới cuối năm 2011……………………………………………….…… 22
Kết luận…………………………………………………………………………….… ……………25
3
TÓM TẮT ĐỀ TÀI


I. LÝ D O C H



N

Đ Ề

TÀI:
Gần đây, lạm phát diễn ra một cách nhanh chóng không dự báo được. Nó trở thành một mối
quan tâm mà bất kì ai cũng nhắc tới khi gặp nhau. Nó tác động đến mọi mặc đời sống và để lại những
hậu quả to lớn. Diễn tiếp trong bối cảnh lạm phát đang dần trở nên cao trào, vấn đề lạm phát không
còn là của riêng ai mà là của toàn xã hội, chung tay họp sức, họp tác cùng Chính phủ và các cán bộ
điều hành chính sách là một điều tất yếu để vượt qua giai đoạn khó khăn này. Khắc phục, ngăn chặn
lạm phát là điều cần làm ngay bây giờ chứ không thể chần chừ được nữa. Vì vậy em chọn đề tài
“Lạm phát 2011 - thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu.
II. M Ụ C T

I Ê

U N G H I

Ê

N C Ứ

U:
2.1 Mục tiêu lý luận
- Làm rõ các vấn đề về lạm phát trong giai đoạn hiện tại.
- Nghiên cứu các giải pháp kiềm chế lạm phát và rút ra các giải pháp phù hợp nhất cho

việc này.
2.2 Mục tiêu thực ti

n
- Hệ thống lại các đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam và thực trạng lạm phát tại Việt Nam
diễn ra trong thời gian qua.
- Đưa ra các đề xuất, biện pháp kiểm soát lạm phát để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế,
phát triển đất nước mà Quốc hội đã đề ra.
III.
P H Ƣ

ƠN



G

P

H



Á



P




N



G

H





N

C







U

V

À

ĐỐ




I





T





Ƣ







NG



N

G


HI

Ê



N C







U

3.1 Phƣơng pháp nghiên
cứu
Đề tài sử dụng các biện pháp nghiên cứu sau để thu thập tài liệu rồi tổng hợp lại để đưa ra
cách nhìn tổng quan nhất, hợp lý nhất trong khả năng người viết:
P

hương

ph á p t

ổ n

g hợ p : Thu thập và sử dụng có hiệu quả các tài liệu.

P

hương

ph á p

ph â n



c h

: Được sử dụng để làm rõ, củng cố vững chắc hơn các luận điểm
cũng như để các luận điểm được trình bày một cách khoa học.
P

hương

ph á p

l o

g ic,

so

s

á nh : Giúp cho cấu trúc vấn đề đưa ra sẽ đi theo một thứ tự hợp
lý,

thông qua đó sẽ làm sáng tỏ nội dung.
3.2 Đối tƣợng
nghiên cứu: Nghiên cứu về vấn đề lạm phát đang diễn ra ở Việt Nam trong
thời gian gần đây
IV. N Ộ

I D U N

G N

G HI Ê

N C Ứ

U : gồm 4 chương

Chƣơng





1 : Cơ sở lý luận về lạm phát
4

Chƣơng






2 : Tình hình kinh tế và thực trạng lạm phát ở Việt Nam

Chƣơng





3 : Một số biện pháp kiềm chế lạm phát của chính phủ

Chƣơng





4 : Một số dự báo chung về tình hình kinh tế Việt Nam
V. ĐÓNG

G Ó

P

CỦ

A

Đ Ề


TÀI
Đề tài đưa ra nghiên cứu vấn đề khá “nóng bỏng” hiện nay, đó là vấn đề lạm phát đang diễn ra
ở Việt Nam. Đề tài đã phản ánh, cung cấp cách nhìn khá chi tiết về tình hình lạm phát và đưa ra
những giải pháp, kiến nghị phù hợp.
5
CH
Ƣ
ƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1.1 Khái
niệm
lạm phát
Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất
giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt.
1.2 Các
phép đo chủ yếu
của chỉ
số
lạm phát
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ
thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi
khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
- Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của
một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ.
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu dùng thông
thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm
hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới.
- Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính đến giá bổ
sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa
bán buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.
- Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa chọn.

Trong trường họp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản
vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.
- Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là tỷ lệ của
tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác
định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực).
- Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách tiền tệ cho Quốc
hội" sáu tháng một lần của mình ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm 2000, Federal
Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của
mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá nhân".
1.3 Phân loại lạm phát
Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là sự tăng lên của giá cả hàng hóa, nên các nhà kinh tế
thường dựa vào tỷ lệ tăng giá để làm căn cứ phân loại lạm phát ra thành ba mức độ khác nhau:
- Lạm phát vừa phải: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở mức độ một
con số hàng năm (dưới 10% một năm). Lạm phát vừa phải còn được gọi là lạm phát nước kiệu hay
lạm phát một con số. Loại lạm phát này thường được các nước duy trì như một chất xúc tác để thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
5
- Lạm phát cao: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ hai con số hàng
năm (từ 10% - 100% một năm). Lạm phát cao còn được gọi là lạm phát phi mã. Lạm phát phi mã gây
ra nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Siêu lạm phát: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ ba con số hàng
năm trở lên. Siêu lạm phát còn được gọi là lạm phát siêu tốc. Không có điều gì là tốt khi nền kinh tế
rơi vào tình trạng siêu lạm phát.
* Ngoài ra, người ta còn phân loại lạm phát dựa vào việc so sánh hai chỉ tiêu là tỷ lệ tăng giá
và tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Theo cách này lạm phát sẽ ở trong hai giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Ở giai đoạn này tỷ lệ tăng giá nhỏ hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Một bộ phận của
khối tiền gia tăng về cơ bản đáp ứng nhu cầu lưu thông tiền tệ của nền kinh tế. Theo các nhà kinh tế,
lạm phát nằm ở giai đoạn này có thể chấp nhận được và thậm chí còn cho rằng lạm phát khi đó còn là
liều thuốc để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Giai đoạn 2: Ở giai đoạn này tỷ lệ tăng giá lớn hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Sở dĩ như vậy là

do lạm phát với tỷ lệ cao kéo dài đã làm cho kinh tế suy thoái. Hệ quả là khối lượng tiền phát hành
vượt mức khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Trong trường họp này lạm phát gây nguy hiểm
trầm trọng cho nền kinh tế.
1.4 Nguyên nhân của lạm phát
Khi nghiên cứu nguyên nhân của lạm phát, các nhà kinh tế có nhiều quan điểm khác nhau do
tiếp cận nó ở nhiều góc độ. Tuy vậy, tựu trung lại có các quan điểm sau:
1.4.1 Lạm phát do cầu kéo
Khi nền kinh tế đạt tới hay vượt quá sản lượng tiềm năng, việc tăng tổng mức cầu dẫn tới lạm
phát được gọi là lạm phát do cầu kéo hay lạm phát nhu cầu.
Số cầu tăng là do tổng khối lượng tiền lưu hàng (M) tăng hoặc do tốc độ lưu thông tiền tệ (V)
tăng. số lượng tiền tệ tăng do nhiều yếu tố, trong đó quan trọng hơn hết và thường xảy ra hơn hết là
do thiếu hụt ngân sách nhà nước. Thiếu hụt này được tài trợ bằng nhiều cách: phát hành trái phiếu,
vay mượn ở nước ngoài và nay mượn ở ngân hàng trung ương.
1.4.2 Lạm phát do chi phí đẩy
Khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng sẽ đẩy giá cả tăng lên ngay cả khi các yếu tố sản xuất
chưa được sử dụng đầy đủ, chúng ta gọi đó là lạm phát do chi phí đẩy. vấn đề đặt ra là tại sao chi phí
tăng lên? Nhiều nhà kinh tế cho rằng tiền lương tăng lên là một nguyên nhân đẩy chi phí tăng lên khi
tốc độ tăng tiền ltrong cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Một số nhà kinh tế cho rằng việc đẩy
chi phí tiền ltrong tăng lên là do các công đoàn gây sức ép. Tuy nhiên một số nhà kinh tế khác lại cho
rằng chính công đoàn đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm tốc độ tăng của lạm phát và giữ
6
cho lạm phát không giảm xuống quá nhanh vì các họp đồng ltrong của công đoàn thường là dài hạn
và khó thay đổi. Ngoài ra, các cuộc khủng hoảng về nhiên liệu, nguyên vật liệu cơ bản như dầu mỏ,
sắt thép cũng làm cho giá cả của nó tăng lên và đẩy chi phí sản xuất tăng lên, dẫn đến sức ép đòi
tăng giá bán.
1.4.3 Lạm phát do những nguyên nhân liên quan đến sự thiếu hụt mức cung
Khi nền kinh tế đạt đến mức toàn dụng, nghĩa là các yếu tố sản xuất: nhân công, nguyên vật
liệu, máy móc thiết bị gần như đã được khai thác tối ưu. Khi đó, mức cung hàng hóa và dịch vụ trên
thị trường có khuynh hướng giảm dần. Bên cạnh đó, tình trạng tắt nghẽn của thị trường cũng làm giới
hạn mức cung hàng hóa. Đó là tình trạng mất cân đối các yếu tố sản xuất giữa các khu vực nhưng thị

trường lại không tạo ra cơ chế điều phối có hiệu quả, khiến cho khối lượng hàng hóa không đáp ứng
tốt nhu cầu tăng lên của thị trường. Hàng hóa khan hiếm làm cho giá cả tăng lên, đó là hậu quả tất
yếu. Cũng cần lưu ý rằng, ngay lúc nền kinh tế chưa đạt tới mức toàn dụng nhưng nếu cơ cấu kinh tế
tổ chức bất họp lý thì cũng không cho phép tạo ra khối lượng hàng hóa và dịch vụ đầy đủ để thỏa mãn
nhu cầu ngày càng gia tăng của thị trường. Trường họp này cũng làm nảy sinh hiện tượng lạm phát.
1.4.4 Những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác
* Nguyên nhân chủ quan: chính sách quản lý kinh tế không phù họp của nhà nước như chính
sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất làm cho nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, kinh tế tăng
trưởng chậm ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì điều
tất yếu là nhà nước phải tăng chỉ số phát hành tiền. Đặc biệt đối với một số quốc gia, trong những
điều kiện nhất định, nhà nước chủ trương dùng lạm phát như một công cụ để thực thi chính sách phát
triển kinh tế.
* Nguyên nhân khách quan: thiên tai, chiến tranh, tình hình biến động của thị trường nguyên
vật liệu, nhiên liệu trên thế giới
7
CH
Ƣ
ƠNG 2: TÌNH HÌNH KINH TẾ VÀ THỰC TRẠNG LẠM PHÁT
VIỆT NAM
2.1
Tổng
quan
nền
kinh
tế Việt
Nam
2.1.1 Tình hình lạm phát
Chì số giá tiêu dùng tháng 8/2011 so với tháng 12/2010 tăng 15,68%. So với cùng kì thì lạm
phát đã tăng 23,02%. Đây là mức lạm phát cao nhất so với các nước trong khu vực.
2.1.2 Một số vấn đề khác

• Chính sách tiền tệ
Để phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã cắt giảm 3% chỉ tiêu
tăng trưởng tín dụng, duy trì 20% thay vì 23% như đề xuất ban đầu với Chính phủ.
Chính sách tiền tệ bị thắt chặt quá mức, cả tăng trưởng huy động và cho vay đều giảm
rất mạnh so với năm trước. Tăng trương tín dụng chỉ tăng 7.13%
• Lãi suất
(nguồn: nhóm VFA)
Lãi suất huy động đang ở mức cao nhưng vẫn chưa thu hút được người gửi tiền do lãi
suất không bù đắp được tỷ lệ lạm phát. Lãi suất cho vay đang ở mức rất cao, vượt quá
khả năng vay vốn của doanh nghiệp.
• Tăng trưởng kinh tế
(Nguồn: nhóm VFA)
Mục tiêu hàng đầu của chính phủ là kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa làm tốc độ tăng trưởng GDP 7 tháng đầu năm ở
mức 5.67% thấp hơn 0.56% so với cùng kì.
(nguồn: nhóm VFA)
• Tổng vốn đầu tư xã hội – FDI – Đầu tư công
Tổng nguồn vốn đầu tư xã hội 6 tháng đạt mức tăng 5% so với cùng kì năm trước,
thấp hơn rất nhiều so với mức tăng 13% cùng kì năm 2010 và 18% năm 2009.
Vốn FDI giảm mạnh trong 6 tháng đầu năm do bất ổn kinh tế vĩ mô, chỉ đạt 56.7% so
với cùng kì năm 2010
• Sản xuất công nghiệp
(nguồn: nhóm VFA)
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 8 tăng 7.3% so với cùng kì năm 2010. Diễn biến
kinh tế khó lường làm sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn và hàng tồn kho đang
tăng lên.
• Xuất nhập khẩu
Xuất khẩu và nhập khẩu 8 tháng đầu năm đều tăng mạnh so với cùng kì năm 2010.
Nhập siêu tháng 8 năm 2011 ước tính đạt 800 triệu USD. Nhập siêu 8 tháng 6.2 tỷ
USD là bằng 10.2% kim ngạch xuất khẩu.

(nguồn: nhóm VFA)
• Tổng mức bán lẻ hàng hóa – Doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tính chung 8 tháng đầu năm nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì mức tăng chỉ ở 3.9% thấp
hơn mức tăng trung bình 15 - 20% những năm gần đây.
(nguồn: nhóm VFA)
2.2
Diễn biến
tình trạng lạm phát ở
nƣớc
ta
hiện
nay.
Nền kinh tế Việt Nam hiện đang đứng trước nguy cơ lạm phát phi mã, với tỷ lệ thuộc hàng
cao nhất trong khu vực.
ốn tháng liền, chỉ số CPI ở Việt Nam đều ở mức hai chữ số. Tỷ lệ lạm phát tháng Hai lên tới
12,31%, cao nhất trong hai năm nay. So với tháng Một, chỉ số CPI vào tháng Hai tăng 2,1%, mức
tăng nhanh nhất tính theo từng tháng kể từ tháng Sáu năm 2008. Vào tháng Một, chỉ số CPI tăng
12,17% so với cùng kỳ năm trước, và đã tăng 1,74% so với tháng 12 năm 2010. Tính từ đầu năm,
biểu đồ CPI chưa hề ghi nhận con số âm nào.
Nhìn lại diễn biến CPI 6 tháng đầu năm 2011, có 2 điểm đáng lưu ý: một là CPI không giảm
hoặc tăng thấp ở tháng sau Tết Nguyên đán mà lên đến đỉnh của nửa đầu năm; hai là CPI giảm tốc rất
nhanh, Cùng lúc Chính phủ “bung ra” một loạt chính sách điều chỉnh giá cả điện, xăng dầu, than…
sau giai đoạn dài kìm nén, CPI tháng 4-2011 tăng đột biến và cao hơn cả tháng Tết nguyên đán trước
đó. Tuy nhiên, ngay lập tức các giải pháp thắt chặt tiền tệ, tài khóa đã được áp dụng để hỗ trợ kiểm
soát lạm phát.
CPI tháng 9 chỉ tăng 0.82% mức thấp nhất trong 12 tháng qua kể từ 9/2010. Điều này phát đi
tín hiệu cho thấy chính sách thắt chặt của chính phủ đã phát huy tác dụng.
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Trong các nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng, chỉ có giá bưu chính viễn thông do công nghệ
tiến bộ nhanh, có cạnh tranh mạnh giữa các doanh nghiệp nên giá có giảm (1.68%) , còn tất cả các

nhóm khác giá đều tăng. Điều đó chứng tỏ yếu tố tiền tệ vẫn còn tác động mạnh đến lạm phát, nên
mới làm cho giá của tất cả các nhóm hàng đều tăng. Tốc độ tăng dư nợ tín dụng cao chứng tỏ tiền từ
ngân hàng ra lưu thông tăng cao, tạo áp lực cho lạm phát.
Nhìn chung giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao 3,01% (trong đó lương thực tăng 1,77%;
thực phẩm tăng 3,53%; ăn uống ngoài gia đình tăng 2,67%) Nhóm hàng này tăng cao không chỉ bởi
khó khăn trong nước (thiên tai, thay đổi khí hậu, diện tích đất canh tác giảm, dịch bệnh, chi phí đầu
vào tăng) mà còn bởi giá thế giới tăng cao, kéo theo giá trong nước tăng lên. Theo tính toán của Liên
hợp quốc, Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) và Ngân hàng thế giới, bước sang năm 2011,
chỉ số giá lương thực trên thế giới tăng 28.3% so với giữa năm 2010. Do nhóm hàng này chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong tổng hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng của dân cư nên đã tác động lớn đến tốc độ tăng
giá chung.
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng (gồm tiền thuê nhà ở,điện, nước, chất đốt và vật liệu xây
dựng) giá tăng cao nhất với 3.19% càng làm cho mong muốn cải thiện về nhà ở của những người có
nhu cầu thực, nhất là những người có thu nhập thấp trở lên xa vời.
Biu giỏ ca cỏc nhúm trong thỏng 5/2011.
(Ngun: GSO, NDHMoney)
Trong giai on lm phỏt va qua, khi nim tin vo tin ng st gim, vai trũ ca vng v USD cng
c khng nh.
(ngun: Tng cc thng kờ)
Ch
s
giỏ tiờu dựng, ch
s giỏ vng v ụ
la M
thỏng
Chớn
nm 2011
Tha
:
K

g

c
2009
Thang
9
n

m
2010
Tháng
12
năm
2010
Th
a
ng 8
n

m
2011
135.74 122.42 116.63 100.82 118.16
H
àng

ăn và dịch vụ ăn
uống
148.55 133.38 123.18 100.28 125.94
Tr
ong

Lơng
t
hực
141.83 126.88 112.22 101.53 122.90
Thực
p
hẩ
m
152.13 137.88 127.72 99.72 128.71
Ă
n

uống ngoài
g
i
a
đì
nh
144.41 126.35 121.33 100.90 120.49

u

ng

v

t
hu

c


l
a
125.23 112.99 109.52 100.59 111.69
May
m
ặc
,
giầy

p
,

nón
123.71 113.98 110.51 100.92 111.58
Nh

v

v

t

l
i

u

xây
dự

ng
145.66 122.89 116.59 100.37 119.72
Thi
ế
t

bị và đồ dùng gia
đì
nh
116.53 109.82 107.57 100.51 108.46
Thuốc và dịch vụ y
t
ế
109.84 106.21 104.88 100.28 105.51
Giao
t
hông
135.92 120.13 119.01 99.76 114.86
Bu
chính viễn
t
hông
88.43 98.02 98.13 99.93 96.30
Gi
á
o

dục
144.43 121.43 116.52 108.62 124.10
V

ăn

hóa, giải
t
r
í

và du
l

ch
115.15 108.71 107.39 100.62 107.29
Đ


dùng và dịch vụ
k
hác
130.55 114.19 111.11 101.37 111.61
Chỉ số giá vàng
241.88 161.26 130.48 113.14 141.09
Chỉ số giá đô la Mỹ
120.38 107.78 101.12 100.80 109.67
2.3 Nguyờn nhõn gõy ra lm phỏt
nc
ta
T u nm, chớnh ph ó ch trng thit lp mt mt bng giỏ mi khi ng loi
tng giỏ xng (2900/1lớt), tng giỏ in (165/1kWh) v giỏ than (5%) mc dự CPI ca 2 thỏng u
nm ó tng khỏ cao.
(ngun: worldbank)

Chỳng ta bit rng lm phỏt l mc tng giỏ chung ca c nn kinh t. Nguyờn nhõn gõy ra
lm phỏt cú th l t bờn ngoi (khỏch quan) hay nhng vn ni ti ca nn kinh t (nguyờn nhõn
ch quan), nhng cn nguyờn ca lm phỏt Vit Nam nm 2011 chớnh l yu t tin t.
2.3.1 Lm phỏt do yu t tin t
Cú th nhn nh, nguyờn nhõn ch yu gõy ra lm phỏt ca Vit Nam khụng phi do cỏc yu
t bờn ngoi. Trong thi gian qua, lm phỏt ca Vit Nam luụn cao hn mt cỏch bt thng so vi
cỏc nc trong khu vc hay cỏc i th cnh tranh cng nh cỏc nc cú iu kin tng t.
cỏc nc ny, nhỡn chung mc lm phỏt luụn thp hn mc tng trng GDP (c th l hu
ht u di 5%), trong khi t nm 2004 n nay, lm phỏt Vit Nam luụn cao hn tng trng
GDP. Cỏ bit nm 2008 lờn n 23%, gp khong 3 ln mc tng GDP; nm 2010 mc 11,75%,
gp gn 2 ln mc tng GDP; v ch mi 4 thỏng u nm 2011 lm phỏt ó gn 2 con s.
Mc tng tin quỏ cao so vi mc tng hng húa ó dn n lm phỏt. Núi mt cỏch khỏc
ngun vn ó khụng c s dng hiu qu do ba nguyờn nhõn c bn sau:
Do u t cụng quỏ mc. Khụng th ph nhn s cn thit ca u t cụng. Nhng
nh nc ch nờn tham gia vo nhng lnh vc em li li ớch ln cho c nn kinh t
nhưng tư nhân không có động cơ để làm hoặc làm không có hiệu quả. Trên thực tế nhà
nước đã tham gia quá nhiều vào các hoạt động kinh tế và nhiều khi còn cạnh tranh và
chèn lấn khu vực tư nhân. Với mức chi tiêu của khu vực công (bao gồm chi tiêu
thường xuyên và chi đầu tư) trong những năm vừa qua luôn ở mức 35-40% GDP và
đầu tư của nhà nước bằng khoảng 20% GDP (một nửa tổng đầu tư toàn xã hội) là một
mức quá cao. Mức chi tiêu này ắt hẳn là một mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng và
những hợp đồng có nhiều ưu ái cho một số đối tượng như phân tích dưới đây.
• Sự thiên lệch trong việc phân bổ vốn ở khu vực doanh nghiệp (khu vực thị trường).
Nhìn vào nền kinh tế sẽ thấy rằng các doanh nghiệp nhà nước và một số doanh nghiệp
tư nhân lớn có nhiều quan hệ đang là đối tượng dành được sự ưu ái trong việc phân bổ
vốn. Câu chuyện của Vinashin đã chi tiêu hoang phí trong thời gian qua và hiện vẫn
được khoanh nợ và tiếp tục vay vốn là một ví dụ rất điển hình của sự ưu ái dành cho
các doanh nghiệp nhà nước.
• Việc theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá đồng tiền trong bối cảnh lạm phát luôn cao
làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Như nhiều lần tôi đã phân

tích, khi lạm phát cao mà tỷ giá cứng nhắc sẽ làm cho hàng hóa của các doanh nghiệp
Việt Nam (kể cả tiêu thụ trong nước và xuất khẩu) trở nên đắt đỏ hơn so với hàng
nhập khẩu. Điều này làm cho một lượng hàng hóa ít hơn sẽ được sản xuất ra trong nền
kinh tế Việt Nam và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam bị giảm sút.
Bên cạnh đó, việc nền kinh tế quá mở: kim ngạch nhập khẩu có lúc chiếm tới 80% GDP, gây
ra nhập siêu là một căn nguyên dẫn tới lạm phát.
Nói chung tình trạng phân bổ nguồn lực cộng với chính sách điều hành tỷ giá như trên đã dẫn
đến sự mất cân bằng kép trong nền kinh tế mà nó thể hiện bởi thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân
sách luôn dai dẳng và trầm trọng hơn cùng với lạm phát luôn ở mức rất cao.
2.3.2 Lạm phát do cầu kéo
Bao gồm nhiều yếu tố liên quan đến quan hệ cung- cầu , quan hệ đến tiền – hàng với các giải
pháp tăng cung (tăng thêm khối lượng hàng hóa, chủng loại hàng hóa), đồng thời phân phối hàng hóa
đến người sử dụng kịp thời, đúng lúc, đúng địa chỉ , giảm lượng tiền mà xã hội sử dụng vào mục
đích tiêu dùng. Xét tổng quát là sản xuất trong nước chưa đủ cho đầu tư và tiêu dùng cuối cùng, hay
đầu tư và tiêu dùng vượt qua sản xuất lên đến trên dưới 10% hàng năm, phải nhập siêu, phải vay nợ
từ nước ngoài để bù đắp.
Khi tổng cầu vượt quá tổng cung thì Việt Nam không chỉ ở vị thế nhập siêu, mà còn rất dễ rơi
vào lạm phát cao, nếu có sự bất ổn ở bên ngoài (khủng hoảng, lạm phát ) và có trục trặc ở bên trong
(thiên tai, dịch bệnh, bất ổn vĩ mô ).
Vốn đầu tư/GDP gia tăng từ 34,9% trong thời kỳ 1996-2000 lên 39,1% trong thời kỳ 2001-
2005 và lên 43,5% trong thời kỳ 2006-2010. Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam đã tăng tương
ứng từ 71,1% thời kỳ 2001-2005 lên 72,2% thời kỳ 2006-2010.
Đây là tỷ lệ cao so với một số nước (năm 2009 của Việt Nam là 72,8%, trong khi của runei
là 47%, Trung Quốc 48,7%, Singapore 52,4%, Malaysia 64%, Indonesia 68,2%, Thái Lan 68,3%, Ấn
Độ 69,6%, Hàn Quốc 70,3% ).
Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam cao và tăng lên, có một phần do quy mô GDP bình
quân đầu người thấp, có một phần do tiêu dùng có xu hướng tăng lên; nhưng có một phần do đã xuất
hiện tình trạng “ăn chơi sớm” và chuộng hàng ngoại của một bộ phận dân cư.
Do đầu tư và tiêu dùng cuối cùng vượt xa so với GDP, nên nhập siêu tăng lên qua các thời kỳ
(thời kỳ 1996-2000 mới gần 9,4 tỷ USD, đã tăng lên trên 19,1 tỷ USD thời kỳ 2001-2005 và tăng lên

gần 62,8 tỷ USD thời kỳ 2006-2010).
Trong tình trạng thiếu hụt nguồn cung, phải nhập khẩu từ nước ngoài, trong đó đáng lưu ý có
các mặt hàng mà một nước đi lên từ nông nghiệp phải nhập khẩu lớn như thủy sản, sữa và sản phẩm
sữa, rau quả, ngô, dầu mỡ động thực vật, thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu, cao su, gỗ và nguyên
phụ liệu, đường, thịt; mà một nước có bờ biển dài nhưng phải nhập muối; một nước có tỷ lệ xuất
khẩu/GDP cao, nhưng do tính gia công, lắp ráp cao mà nhập khẩu nguyên phụ liệu lớn, như nguyên
phụ liệu dệt may, giày dép, chất dẻo nguyên liệu, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; một số
loại hàng tiêu dùng có kim ngạch lớn, như điện thoại các loại và linh kiện, ô tô nguyên chiếc, xe máy
nguyên chiếc, hóa mỹ phẩm lên đến mấy tỷ USD.
2.3.3 Lạm phát do chi phí đẩy
Riêng với ngành chế biến, Việt Nam gần như là công xưởng gia công cho nước ngoài, bởi
nguyên liệu chính cho các ngành giầy da, dệt, may mặc, nhựa, hầu hết phụ thuộc vào nhập khẩu,
đặc biệt 100% nhiên liệu lỏng đã chế biến (xăng dầu) phải nhập khẩu. Vì vậy giá cả phụ thuộc rất
nhiều vào phía đối tác. Trong tình hình, giá cả thế giới đang tăng cao, không tránh khỏi chi phí sản
xuất, gia công của các doanh nghiệp trong nước cũng tăng cao.
Tỷ lệ xuất, nhập khẩu/GDP của Việt Nam đã tăng nhanh và hiện ở mức khá cao (năm 1992
đạt 51,6%, năm 1995 đạt 65,4%, năm 2000 đạt 96,5%, năm 2005 đạt 130,8%, năm 2010 đạt 154,4%,
khả năng năm 2011 sẽ còn cao hơn), tức là có độ mở khá cao, đứng thứ 5 thế giới nên biến động giá
cả trên thế giới sẽ tác động nhiều đến biến động giá ở Việt Nam hơn các nước khác. Giá thế giới tăng
sẽ làm cho chi phí đẩy ở trong nước tính bằng VND tăng kép: vừa tăng do đơn giá tính bằng USD
tăng, vừa tăng do tính bằng VND tăng.
2.3.4 Một số nguyên nhân khác
• Hiệu quả đầu tư và năng suất lao động thấp. Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở hệ số
ICOR cao và tăng lên qua các thời kỳ (thời kỳ 1996-2000 là 5 lần, thời kỳ 2001-2005
lên 5,2 lần, thời kỳ 2006-2010 lên 6,2 lần, cao gấp đôi nhiều nước trong khu vực).
Tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư của Việt Nam từ năm 2003 trở về trước ở mức
trên dưới 57%, từ 2004 đã giảm xuống nhưng vẫn ở mức trên dưới 40%, trong khi
ICOR của khu vực này cao gấp rưỡi hệ số chung của cả nước.
Năng suất lao động xã hội của Việt Nam năm 2010 đạt 40,3 triệu đồng/người, chỉ
tương đương với 2.067 USD, thấp xa so với các con số tương ứng của một số nước

(năm 2008 của Nhật ản 73.824 USD, runei 72.500 USD, Singapore 62.724 USD,
Hàn Quốc 38.235 USD, Malaysia 17.718 USD, Thái Lan 6.915 USD, Trung Quốc
5.460 USD, Indonesia 4.597 USD, Philippines 4.535 USD, Ấn Độ 2.706 USD ).
• Tình trạng vàng hóa và Đô la hóa khá cao, tác động tiêu cực đối với lạm phát trên 4
mặt.
- Hút vào đây một lượng vốn lớn của xã hội mà không được đầu tư trực tiếp cho sản
xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm để cân đối với tiền.
- Vàng và USD trở thành phương tiện thanh toán, làm cho tổng phương tiện thanh
toán tăng lên.
- Giá vàng trong nước biến động, nhiều lần cao hơn g iá

v

à n

g thế giới, tác động tới
nhập lậu, kéo tỷ giá biến động theo. Khi g i

á

v à

ng và tỷ giá tăng cao lại tác động
đến tâm lý, đến lòng tin vào đồng nội tệ
- Tỷ giá tăng tuy khuyến khích xuất khẩu, nhưng lại làm khuyếch đại lạm phát ở
trong nước và đây là yếu tố lạm cho lạm phát của Việt Nam cao hơn lạm phát của
thế giới; làm tăng nợ quốc gia khi tính bằng VND.
• Việc thực hiện lộ trình giá thị trường khi chuyển sang kinh tế thị trường là tất yếu,
đúng hướng, là một nội dung quan trọng của đường lối đổi mới. Tuy nhiên, kết quả
của việc thực hiện lộ trình này nếu thực hiện dồn dập cùng một lúc sẽ tạo ra mặt bằng

giá mới cao hơn, như đã từng xảy ra trong thời kỳ lạm phát phi mã, hay vào tháng 2-3
vừa qua.
2.4
Tác
động
của lạm phát
đến mọi mặt đời s

ng
2.4.1 Thị trường tài chính
Thị trướng chứng khoán hiện đang giảm liên tục, các phiên giao dịch cũng ít dần, làm cho tình
hình ngày càng xấu đi. Thâm hụt tài khoản vãng lai sẽ tăng lên, thặng dư tài khoản thanh toán giảm,
thặng dư cán cân thanh toán giảm. Từ đầu năm đến nay, luồng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp sau
khi Việt Nam gia nhập WTO đã tăng lên nhanh chóng đã tạo sức ép tăng giá tiền đồng và một mặt
gây khó khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ và giám sát tài chính, đặc biệt trong bối cảnh thị
trường chứng khoán tăng trưởng rất khả quan.
2.4.2 Doanh nghiệp
Để bù đắp quỹ lương tăng do lạm phát, các công ty phải tăng cường cắt giảm chi phí từ hoạt
động không trực tiếp tạo ra lợi nhuận, hạn chế tuyển dụng nhân viên mới, sa thải những nhân viên
không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Lạm phát thúc đẩy các doanh nghiệp để giảm chi phí,
quản lý tốt hơn quá trình hoạt động kinh doanh.
2.4.3 Nông dân, người lao động nghèo
Giá lương thực - thực phẩm do nông dân làm ra tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của 9
nhóm hàng hóa. Đây là tình trạng chung trên thế giới.
Chỉ số CPI tăng cao làm cho đời sống người nghèo ngày càng khó khăn. Khoảng cách giàu
nghèo ngày càng mở rộng.
2.4.4 Sinh viên
Đời sống sinh viên ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn khi mà giá cả leo thang. Các chi phí
sinh hoạt hằng ngày tăng cao: tiền ăn, ở, đi lại, sách vở càng làm cho giới sinh viên càng lo âu.
Một vài dẫn chứng thực tế về đời sống sinh viên trước cơn bão giá:

- Giá thuê nhà ở thành phố Hồ Chí Minh tăng trung bình từ 100000-200000đ so với năm
trước.
- Giá gửi xe cũng tăng từ 1000-2000đ, có nơi chủ nhà tăng giá thu tiền điện lên đến 3500đ kw.
- Giá nước cũng được thu 40000-50000đ/1người. Cao hơn rất nhiều so với giá nước sạch của
tổng công ty cấp nước Sài Gòn.
Tóm lại: Hậu quả của lạm phát rất nặng nề và nghiêm trọng. Lạm phát gây ra hậu quả đến
toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của môi nước. Lạm phát làm cho việc phân phối lại sản phẩm xã hội
và thu nhập trong nền kinh tế qua giá cả đều khiến quá trình phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng hơn.
Lạm phát làm cho một nhóm này nhiều lợi nhuận trong khi nhóm khác bị thiệt hại nặng nề. Nhưng
suy cho cùng, gánh nặng của lạm phát lại đè lên vai của người lao động, chính người lao động là
người gánh chịu mọi hậu quả của lạm phát.
Chính vì các tác hại trên, việc kiểm soát lạm phát, giữ lạm phát ở mức độ hợp lý trở thành một
trong những mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, mục tiêu kiềm chế lạm phát không đồng
nghĩa với việc đưa tỷ lệ lạm phát bằng không. Bởi lẽ, lạm phát không hoàn toàn tiêu cực, nếu duy trì
lạm phát ở một mức độ vừa phải nó lại trở thành một công cụ điều tiết kinh tế.
CH
Ƣ
ƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
CỦA CHÍNH PH

3.1
Để kiềm chế lạm phát do
chi phí đẩy,
Việt Nam
đã
có những biện
pháp tích cực
nhƣ:
giảm
thuế

nhập khẩu , dãn nợ, bù giá, cho các doanh
nghiệp
nhập khẩu và sử dụng nguyên,
nhiên
liệu
nhập khẩu
Tác động: đây cũng được coi là nguyên nhân chính đẩy CPI lên. Các biện pháp liên quan đến
lạm phát chi phí đẩy, trong thực tế ít hiệu lực, vì khi giảm thuế nhập khẩu còn có độ trễ nhất định về
thời gian (không phải giảm thuế nhập khẩu, các sản phẩm được sản xuất từ các nguyên liệu nhập
khẩu này có thể giảm giá ngay được), mặt khác Nhà nước không kiểm soát được các Doanh nghiệp
có giảm giá đúng với mức độ giảm thuế nhập khẩu, trong khi đó lại có doanh nghiệp tuy được hưởng
chính sách giảm thuế nhập khẩu, nhưng giá sản phẩm sản xuất ra không những không giảm mà lại
còn tăng; và trên một mức độ nhất định, Nhà nước hơi quá kỳ vọng vào biện pháp này, trong khi đã
không tính toán được mức độ sẽ giữ giá hoặc giảm giá không phải chỉ với một nhóm sản phẩm mà
toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, dùng biện pháp bù giá, đây là biện pháp không lâu dài, không có tính
cơ bản vì không phù hợp với kinh tế thị trường, không làm trên phạm vi rộng (ngân sách Nhà nước
không đủ sức làm việc này), thay vì bằng trợ cấp cho nhân dân các vùng thiên tai, dịch bệnh,
3.2 Các
biện
pháp thắt chặt
tiền t

Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ngân hàng nhà nước đã ra quyết định tăng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng them 1%. Như vậy, việc tiếp tục tăng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc bằng ngoại tệ sẽ trực tiếp tác động đến chi phí huy động vốn bằng ngoại tệ của các tổ
chức tín dụng; lãi suất cho vay ngoại tệ theo đó dự báo sẽ tăng trong thời gian tới, hạn chế nhất định
cầu và tăng trưởng tín dụng ngoại tệ sau khi đã tăng rất mạnh kể từ đầu năm (trên 18%).
Đây là l ầ n

t h




3 kể từ đầu năm nay, NHNN có quyết định điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, mỗi lần điều chỉnh tăng thêm 1%. Đây là một trong những động thái của NHNN nhằm chống
tình trạng đô la hóa, giảm áp lực tỷ giá, kiềm chế lạm phát trong bối cảnh, gần đây, nhiều ngân hàng
đẩy lãi suất đồng USD "vượt trần" nhằm thu hút nguồn vốn huy động.
Kể từ ngày 1/5/2011, lãi suất tái cấp vốn sẽ tăng lên 14%/năm thay cho mức 13%/năm áp
dụng từ ngày 1/4 vừa qua. Lãi suất chiết khấu cũng được tăng lên 13%/năm thay cho mức 12%/năm
áp dụng từ ngày 8/3/2011.
3.3 Chính phủ ban hành nghị
quyết số
11/NQ-CP
Ngày 24/02/2011, chính phủ đã ban hành nghị quyết số 11/NQ-CP về những giải pháp chủ
yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Với những nội dung
chính sau đây
- Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, Chính phủ đề nghị Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị
trường, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng. Các hoạt động của
ngân hàng thương mại về huy động, cho vay, tín dụng cần được giám sát chặt chẽ, đảm bảo đúng quy
định.
- Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà
nước. Chính phủ sẽ điều chỉnh chính sách tài khóa theo hướng kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả
chi tiêu công gồm tăng thu ngân sách vượt dự toán, giảm chi phí hành chính. Các hạng mục đầu tư sẽ
được rà soát chặt chẽ. Cắt bỏ công trình đầu tư kém hiệu quả, tập trung vốn cho những công trình sắp
hoàn thành. Bộ Tài chính sẽ đảm trách việc rà soát, đề xuất biện pháp chấn chỉnh hoạt động đầu tư
của các doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế, tổng công ty lớn. Giảm bội chi ngân sách nhà nước
năm 2011 xuống dưới 5% GDP. Giám sát chặt chẽ việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp,
nhất là vay ngắn hạn. Thực hiện rà soát nợ Chính phủ, nợ quốc gia, hạn chế nợ dự phòng, không mở
rộng đối tượng phạm vi bảo lãnh của Chính phủ. ảo đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công, dư nợ nước

ngoài trong giới hạn an toàn và an toàn tài chính quốc gia.
- Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết
kiệm năng lượng.
- Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo: ộ Tài chính chủ động điều hành
linh hoạt giá xăng dầu theo đúng quy định tại Nghị định số 84/2009/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm
2009 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu, bảo đảm giá xăng dầu trong nước bám sát giá xăng dầu
thế giới.
- Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội: Thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh xã hội theo
các chương trình, dự án, kế hoạch đã được phê duyệt; đẩy mạnh thực hiện các giải pháp bảo đảm an
sinh xã hội theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ. Các biện pháp thích hợp tiếp theo sẽ được
đề ra tùy thuộc vào diễn biến của lạm phát.
- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền: Các phương tiện thông tin đại chúng cần đẩy
mạnh thông tin và tuyên truyền một cách chính xác, ủng hộ các chủ trương,chính sách của Nhà nước
trên lĩnh vực nhạy cảm này, tránh thông tin sai sự thật có tính kích động, gây tâm lý bất an trong xã
hội.
3.4
Một số biện
pháp khác
- Bảo đảm cân đối cung-cầu hàng hoá, dịch vụ trong mọi tình huống, trước hết là các mặt
hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống, không để xảy ra thiếu hàng sốt giá. Sắp xếp lại tổ chức
mạng lưới lưu thông hợp lý, tránh đẩy chi phí lưu thông tăng cao. Rà soát, kịp thời tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc và có các giải pháp hỗ trợ phù hợp về tiếp cận vốn, lãi suất, thuế…cho sản xuất kinh
doanh, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển để tăng cung cho thị trường, giảm chi phí tạo ra cơ hội
giảm sức ép đẩy giá tăng.
- Thường xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm soát thị trường, ngăn chặn các hành vi gian lận
thương mại, đầu cơ găm hàng thao túng thị trường giá cả. Tiếp tục thực hiện các biện pháp quản lý thị
trường vàng, thị trường ngoại hối.
- Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; tiếp tục có lộ trình thích hợp để xoá bao cấp qua
giá đối với các loại hàng hoá dịch vụ còn bao cấp và phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát như:
điện, xăng dầu, nước sạch, than bán cho điện…

CH
Ƣ
ƠNG 4: MỘT SỐ DỰ BÁO CHUNG VỀ TÌNH HÌNH
KINH TẾ VIỆT NAM
4.1 Dự báo kinh
tế Việt
Nam
cuối năm
2011
Tăng trương kinh tế năm 2011 sẽ thấp hơn năm 2010, trong đó khu vực đầu tư sẽ bị ảnh
hưởng nặng nhất. Việc tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặc tiền tệ, cắt giảm đầu tư công và hướng
dòng vốn vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh sẽ giúp CPI giảm dần nhưng lạm phát năm 2011 khó có
khả năng tăng dưới 18%
Động thái mới của ngân hàng nhà nước cho thấy cung tiền các tháng còn lại sẽ tăng mạnh
nhằm mục đích hạ lãi suất thị trường để hỗ trợ hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp. Do đó lãi
suất sẽ có xu hướng giảm. Tuy nhiên, do áp lực lạm phát vẫn còn lớn và kinh tế vĩ mô còn nhiều bất
ổn, do đó lãi suất sẽ khó giảm mạnh được. Dự báo trong thời gian tới, lãi suất thị trường sẽ tiếp tục
duy trì ở mức cao trong quý 3 và sẽ giảm dần trong giai đoạn cuối năm.
Mặc dù cung tiền cuối năm dự kiến tăng mạnh, tuy nhiên tín dụng sẽ chỉ ưu tiên cho lĩnh vực
sản xuất trong khi vẫn quản lý chặt dòng tiền tham gia vào lĩnh vực phi sản xuất. Do vậy, sẽ rất khó
có cơ hội cho thị trường bất động sản trong năm này. Mặc dù lãi suất và CPI giảm phần nào tác động
tích cực lên thị trường chứng khoán, tuy nhiên, không có dấu hiệu cho thấy thị trường chứng khoán
cuối năm sẽ thực sự lấy lại đà tăng trưởng mạnh.
4.2
Nhận
định tỉ giá USD
cuối năm
2011
Tỉ giá đã hạ nhiệt vào quý II/2011 nhưng có dấu hiệi tăng trở lại từ cuối tháng 7/2011. Điều
này cho thấy áp lực tỉ giá cuối năm sẽ có dấu hiện tăng nóng do nhu cầu ngoại tệ để đáo hạn các

khoản vay và trả nợ nước ngoài.
Chính sách quản lý chặt thị trường ngoại hối kết hợp với việc chính phủ đẩy mạnh mua vào từ
đầu năm phần nào giúp hạ nhiệt tỉ giá. Tuy nhiên, trên nền tảng cơ bản là nhập siêu vẫn chưa được cải
thiện và nguồn vố bên ngoài vào giảm sẽ tạo áp lực lên tỉ giá cuối năm.
Chênh lệch lãi suất giữa đồng nội tệ và ngoại tệ đang khác lớn, góp phần hạ nhiệt tỉ giá. Tuy
nhiên điều này gây khó khăn lớn cho sản xuất kinh doanh vì chịu lãi suất tiền đồng quá cao.
Dự trữ ngoại hối của Việt Nam bị suy giảm mạnh trong 2 năm 2009 – 2010. Tình hình được
cải thiện nhẹ vào cuối quý II/2011
4.3 Dự báo xu
thế
tỉ giá USD
cuối năm
2011
Chính phủ đang tập trung ổn định tình hình ngoại hối. Tuy nhiên, tình hình vẫn còn nhiều vấn
đề cần giải quyết. Kinh tế vĩ mô sẽ từng bước ổn định sẽ góp phần ổn định CPI và tỉ giá. Nhưng nhập
siêu vẫn cao, dòng vốn FDI chưa cải thiện, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đang ở mức thấp và sẽ tạo
áp lực tỉ giá vào cuối năm 2011. Các doanh nghiệp đang đẩy mạnh vay USD, trong khi huy động
USD của các ngân hàng bị giảm có thể tạo ra sực cầu USD của doanh nghiệp để trả nợ vay.
Tỉ giá quý 3 duy trì ổn định trong xu thế tăng nhẹ. Tuy nhiên, trong trường hợp đồng USD
phục hồi mạnh và Việt Nam chưa thu hút tốt nguồn vốn đầu tư nước ngoài thì tỉ giá có thể tăng đến
22500 VND vào cuối năm.
4.4 Dự
đoán giá vàng thế
giới
cuối năm
2011
Tám tháng đầu năm giá vàng thế giới biến động trong xu hướng tăng. Đặc Biệt bước sang đầu
tháng 8, giá vàng trong nước đã tăng lên rất mạnh, lên trên 49 triệu đồng/lượng
Các nh


ân t



tác độn

g t ă n

g giá vàng

Kinh tế thế giới phục hồi chậm, bất ổn còn lớn.
Áp lực lạm phát toàn cầu.
Khủng hoảng nợ công Châu Âu.
Bất ổn chính trị tại Trung Đông – Bắc Phi.
Giá vàng tháng 8 dao động cực mạnh theo xu thế tăng khiến cho giới đầu cơ trở nên hoang
mang. Biến động mạnh xuất phát từ việc S&P hạ bật tín nhiệm trái phiếu chính phủ Mỹ. Nhiều
chuyên gia nhận định giá vàng đag cho xu thế bong bong khi tăng đến 1900USD/OZ.
“Sự kết hợp giữa chính sách bơm tiền, sự phát triển èo uột và vấn đề về nợ sẽ tiếp tực đẩy giá
vàng lên cao” – chuyên gia phân tích David Wilson của ngân hàng Société Générale nhận định. Xu
hướng tăng được nhận định sẽ tiếp tực cho đến khi kinh tế thế giới xuất hiện dấu hiệu tích cực. Các
chuyên gia ngân hàng J.P.Morgan Chase dự đoán giá vàng sẽ chạm mức 2.500 USD/ounce vào cuối
năm nay.
* G iá

vàn






g





t

r

on





g





n
ƣ





ớ c

Giá vàng trong nước đã tăng 31% so với đầu năm và tăng tới 64% so với cùng kì năm trước.
Hiện giá vàng trong nước đang cao hơn giá vàng thế giới khoảng gần 1 triệu đồng/lượng.
Giá vàng thế giới tiếp tục xu hướng tăng mạnh trong khi cầu ảo của thị trường trong nước tăng
cao và việc đẩy mạnh xuất vàng 7 tháng đầu năm khiến giá vàng trong nước biến động rất mạnh theo
xu hướng tăng.
Do các kênh đầu tư khác chưa khai thông, ngoài ra còn ảnh hưởng bởi yếu tố đầu cơ và tỉ giá,
trong quý III/2011 giá vàng trong nước vẫn duy trì mức cao hơn giá vàng thế giới. Tuy nhiên khả
năng cuối năm giá vàng thế giới xuống dưới 1700USD/Oz thì giá vàng sẽ quay lại mức 44 triệu
đồng/lượng.

×