Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Đề tài Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ của đột quỵ não

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.14 KB, 38 trang )

SỞ Y TẾ NGHỆ AN
TRUNG TÂM Y TẾ NGHĨA ĐÀN

THÁI THỊ HÀ
HOÀNG DƯƠNG
TRẦN THỊ THU HOÀI

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ
NGUY CƠ CỦA ĐỘT QUỴ NÃO Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ

NỘI TRÚ TẠI TRUNG TÂM Y TẾ NGHĨA ĐÀN
TỪ THÁNG 2 ĐẾN THÁNG 9 NĂM 2022

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ

NĂM 2022
SỞ Y TẾ NGHỆ AN

TRUNG TÂM Y TẾ NGHĨA ĐÀN

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ

--**--

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ
NGUY CƠ CỦA ĐỘT QUỴ NÃO Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ

NỘI TRÚ TẠI TRUNG TÂM Y TẾ NGHĨA ĐÀN
TỪ THÁNG 2 ĐẾN THÁNG 9 NĂM 2022

Thái Thị Hà


Hoàng Dương
Trần Thị Thu Hoài

NĂM 2022

DANH MỤC VIẾT TẮT

TTYT Trung tâm Y tế
WHO World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới)
CMN Chảy máu não
ĐQ Đột quỵ
NMN Nhồi máu não
TBMN Tai biến mạch máu não
YTNC Yếu tố nguy cơ
HA Huyết áp
ĐTĐ Đái tháo đường

MỤC LỤC

Đặt vấn đề 1

Chương 1 Tổng quan về Đột quỵ và các yếu tố nguy cơ. 3

Chương 2. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu 14

2.1. Đối tượng nghiên cứu 14

2.2. Phương pháp nghiên cứu 14

Chương 3. Dự kiến kết quả nghiên cứu 17


3.1 Đặc điểm chung của đối tượng 17

3.2 Mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ và bệnh đột quỵ 18

Chương 4. Dự kiến bàn luận 24

Chương 5. Dự kiến kết luận và kiến nghị 24

Tài liệu tham khảo 25

Phụ lục 27

Phụ lục 1: Phiếu điều tra 27

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo định nghĩa của Tổ Chức Y Tế Thế Giới Tai biến mạch máu não là
những thiếu sót chức năng thần kinh xảy ra đột ngột, có thể phục hồi hồn tồn
hoặc dẫn đến tử vong trong 24h do tổn thương mạch máu não, loại trừ các
nguyên nhân sang chấn. Các triệu chứng thần kinh trung ương khu trú, biểu hiện
nhanh, ngay tức thì khi tổn thương xảy ra nên tai biến mạch máu não còn gọi là
đột quỵ [2]. Đột quỵ là một vấn đề thời sự cấp bách của y học, để lại nhiều di
chứng về tâm thần kinh và là gánh nặng cho gia đình, xã hội. Theo thống kê của
hội Đột quỵ Hoa Kỳ thì: Đột quỵ là nguyên nhân gây tử vong thứ 3 sau các bệnh
tim mạch và ung thư và đứng hàng đầu trong các bệnh về thần kinh và di chứng.
Theo các nghiên cứu trên thế giới hai thập kỷ qua tỷ lệ mắc đột quỵ đã tăng
hàng năm, ở Thái Lan tỷ lệ mới mắc năm 1980 là 12,7/100.000 đến 1984 là
18,7/100.000 [2]. Ở Việt Nam, theo nghiên cứu dịch tễ học 1989 – 1994 của bộ

môn Thần kinh trường Đại học Y Hà Nội: Nhóm tuổi dưới 50 bị tai biến chiếm
tỷ lệ thấp (9,5%) trong cộng đồng nhưng lại chiếm tỷ lệ đáng quan tâm trong
bệnh viện (36%). Yếu tố nguy cơ nghiêm trọng nhất là tăng huyết áp có ở 59,3%
bệnh nhân trong cộng đồng, có ở 47,5% bệnh nhân nội trú [2]. Các yếu tố nguy
cơ của đột quỵ gồm: Tuổi, giới tính, hút thuốc lá, béo phì, tăng huyết áp, đái
tháo đường, rối loạn lipid máu, lối sống tĩnh tại, stress hoặc căng thẳng, uống
rượu [12]. Hiện nay dù chưa khẳng định được một liệu pháp chuẩn nào có hiệu
quả điều trị đột quỵ, tuy vậy giải pháp phòng ngừa đột quỵ là chiến lược hiệu
quả nhất để làm giảm hậu quả về sức khỏe và kinh tế cho bệnh nhân, dự phòng
dễ dàng hơn khi hiểu rõ nguy cơ của đột quỵ. Tại Trung tâm Y tế Nghĩa Đàn
vẫn chưa có một nghiên cứu nào về những nguy cơ và cách phòng ngừa các yếu
tố nguy cơ gây đột quỵ. Xuất phát từ nhu cầu trên chúng tôi thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ của đột quỵ não ở bệnh nhân điều trị nội trú
tại Trung tâm Y tế Nghĩa Đàn từ tháng 2 đến tháng 9 năm 2022”
với mục tiêu:

2

1. Nghiên cứu một số yếu tố nguy cơ của đột quỵ não ở bệnh nhân điều trị
nội trú tại Trung tâm Y tế Nghĩa Đàn từ tháng 2 đến tháng 9 năm 2022.

3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giải phẫu sinh lý tuần hoàn não [4]
Não được nuôi dưỡng bằng hệ thống các động mạch não, chúng được
hình thành từ bốn cuống mạch chính: hai động mạch cảnh trong và hai động
mạch đốt sống. Lazorthe (1968) phân chia tuần hoàn não thành hai khu vực tưới
máu có chế độ huyết áp khác nhau:

1.1.1 Tuần hồn ngoại vi:
Do các nhánh nông của các mạch não tưới máu cho vỏ não và lớp chất
trắng dưới vỏ, tạo thành một hệ thống nối rất phong phú. Qua mỗi lần phân
nhánh, áp lực tại đó giảm xuống, do đó có áp lực thấp, khi huyết áp hạ đột ngột
dễ bị tổn thương nhồi máu não (NMN).
1.1.2 Tuần hoàn trung tâm.
Gồm các nhánh sâu của mạch máu não tưới máu cho vùng nhân xám
trung ương, sau đó đi ra nơng tận cùng ở lớp chất trắng dưới vỏ. Các nhánh này
là những nhánh tận, do đó chịu áp lực cao. Khi đợt huyết áp đột ngột thường gây
chảy máu não (CMN). Giữa các khu vực ngoại vi và trung tâm hình thành một
đường viền ranh giới, khơng có các mạch nối quan trọng giữa hai khu vực nông
– sâu và được gọi là “ vùng tới hạn” rất dễ xảy ra các tổn thương nhồi máu lan
tỏa hoặc nhồi máu, chảy máu não.
1.1.3 Cơ chế tự điều hòa cung lượng máu não:
Theo hiệu ứng Bayliss (1902) đã mô tả cơ chế tự điều hòa cung lượng
máu não, ở người bình thường có cung lượng máu não ln cố định là
55ml/100g/phút khơng có biến đổi theo cung lượng tim, nhờ vào sự co giãn của
cơ trơn thành mạch. Khi có tang huyết áp, máu lên não nhiều, các cơ trơn thành
mạch co nhỏ lại. Khi huyết áp hạ các mạch máu lại giãn ra để máu lên não nhiều
hơn, gọi là hiệu ứng Bayliss.
Khi huyết áp trung bình thấp dưới 60 mmHg hoặc cao hơn 150 mmHg thì
lưu lượng máu não sẽ tăng hay giảm theo lưu lượng tim ( mất hiệu ứng Bayliss).

4
Vì vậy trong điều trị việc duy trì huyết áp ở mức ổn định là hết sức quan trọng.
Ngoài hiệu ứng Bayliss, sự điều hịa cịn có cơ chế khác tham gia:
- Ảnh hưởng của yếu tố thể dịch, chuyển hóa. Các mạch máu não rất nhạy cảm
với sự thay đổi hóa học trong máu đặc biệt là nồng độ khí carbonic và oxy trong
máu động mạch. Khi PaCO2 tăng gây giãn mạch não và nếu giảm sẽ gây co
mạch não. Khi PaO2 giảm sẽ làm giãn mạch não ( độ nhạy cảm ít hơn PaCO2).

- Sự điều hịa thần kinh giao cảm của mạch máu.
1.2. Phân loại đột quỵ. [13], [25]
1.2.1 Định nghĩa: ĐQ (Tai biến mạch máu não) là tình trạng tổn thương chức
năng thần kinh xảy ra đột ngột do tổn thương mạch máu não. Các tổn thương
thần kinh thường khu trú hơn là lan tỏa, tồn tại quá 24h diễn biến có thể tử vong
hoặc để lại di chứng.
1.2.2 Phân loại: ĐQ có 2 loại là nhồi máu não ( nhũn não, thiếu máu cục bộ
não) và xuất huyết não (Chảy máu não).
- Nhồi máu não : là hậu quả của sự giảm đột ngột lưu lượng tuần hoàn não do
tắc một phần hoặc toàn bộ một động mạch não.
Hình ảnh 1: Nhồi máu não

- Chảy máu não : là máu từ hệ thống động mạch, tĩnh mạch não chảy vào trong
tổ
chức não, ít nhiều đều tạo thành ổ máu tụ trong não gây ra triệu chứng thần kinh
tương ứng.

5
Hình ảnh 2: Chảy máu não

1.3. Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ.
1.3.1. Nguyên nhân: [10]
- Chảy máu não (CMN): Chủ yếu là tăng huyết áp, nhất là thể tăng huyết áp kịch
phát thường kết hợp với vữa xơ động mạch, đái tháo đường.
+ Phồng động mạch bẩm sinh hay phải, phồng động mạch- tĩnh mạch.
+U não hoại tử gây chảy máu, bệnh lơxemi cấp tính, các bệnh do thiếu yếu tố
đông máu, suy gan nặng, giảm prothrombin máu, bệnh sốt xuất huyết, bệnh
viêm não chất trắng gây chảy máu não của Hurst, bệnh Amyloid não, dùng
thuốc chống đông không đúng.
- Nhồi máu não (NMN):

+Vữa xơ động mạch, viêm động mạch, do co thắt mạch, lấp mạch.
+ Bệnh đa hồng cầu, u não.
+ Bệnh moyamoya, bệnh loạn sản tổ chức xơ – cơ động mạch não.
1.3.2. Các yếu tố nguy cơ.
Theo thống kê của TCYTTG có trên hai mươi yếu tố nguy cơ gây ra ĐQ. Yếu tố
nguy cơ ( YTNC ) là những yếu tố đóng vai trị quan trọng trong việc xuất hện
và phát triển bệnh đó. Càng nhiều YTNC thì khả năng phát bệnh càng lớn. Các
YTNC của ĐQ được chia thành hai nhóm: nhóm khơng thể thay đổi được, nhóm
có thể thay đổi được. Các yếu tố này làm tăng tỷ lệ ĐQ 7 – 10 lần.[12]:

6

- Nhóm không thể thay đổi được gồm: Bao gồm tuổi, giới, chủng tộc, di
truyền,địa lý, khí hậu, thời tiết…[18].Mặc dù khơng thể can thiệp được vào các
yếu tố nguy cơ này nhưng việc phát hiện các yếu tố này sẽ cho biết người nào có
nguy cơ bị ĐQ cao và ai cần phòng, điều trị nghiêm ngặt các yếu tố nguy cơ có
thể thay đổi được.
+ Tuổi: Tuổi có tác động rõ ràng lên hệ thống tim mạch. Theo thời gian nguy cơ
mắc tai biến tăng dần và người ta thấy sau tuổi 55, cứ 10 năm tỷ lệ này sẽ tăng
gấp đôi. Tuổi không thể thay đổi được nhưng việc ăn uống điều độ và sinh hoạt
hợp lý có thể làm chậm q trình thối hóa do tuổi tác gây ra.
+ Giới: Nam gặp nhiều hơn ở nữ. Tỷ lệ mới mắc ĐQ còn phụ thuộc vào tuổi ở
nam cao hơn ở nữ. Tuy nhiên ở lớp tuổi 35 – 44 và trên 85 tuổi, tỷ lệ mới mắc ở
nữ cao hơn ở nam. Việc dùng thuốc tránh thai cùng làm tăng tỷ lệ mắc tai biến ở
phụ nữ trẻ. Năm 2002, theo một nghiên cứu ở Hoa Kỳ, tỷ lệ tử vong do tai biến
ở phụ nữ da trắng là 53,4/100.000 và 71,8/100.000 ở phụ nữ da đen. Trong khi
tử vong ở nam giới da trắng là 54,2/100.000 và ở nam da đen 81,7/100.000.
+ Sinh nhẹ cân: Theo một số nghiên cứu nhận thấy có mối liên quan giữa trẻ
sinh nhẹ cân và nguy cơ bị ĐQ. Đối với người sinh dưới 2500g, tỷ suất chênh
mắc ĐQ lớn hơn lần so với người lúc sinh ra trên 3000g. Tuy nhiên người ta vẫn

chưa tìm thấy lý do của mối liên quan này [8].
+ Chủng tộc: So với người da trắng, những người da đen có tỷ lệ tử vong do ĐQ
cao hơn. Với độ tuổi như nhau, tỷ lệ mới mắc ĐQ ở người da đen cao hơn người
da trắng 1,5 lần ở nam và 2,3 lần ở nữ. Các nguyên nhân gây ra sự khác biệt này
có thể do khác nhau về tỷ lệ béo phì, tăng huyết áp và đái tháo đường giữa hai
nhóm người này. Ở các nước phương Đông, tỷ lệ bệnh lý mạch vành thấp, trong
khi khi tỷ lệ mắc tai biến mạch máu não (TBMN) lại cao. Tăng huyết áp ở các
nước phương Đông thường liên quan đến ăn nhiều muối, yếu tố di truyền, trong
khi mức lipid thấp có thể do ăn ít chất mỡ và đạm.
+ Các yếu tố di truyền: Tiền sử gia đình có bố hoặc mẹ bị TBMN đều làm tăng
nguy cơ bị bệnh này. Có nhiều cơ chế liên quan đến hiện tượng này như di

7

truyền các yếu tố nguy cơ của ĐQ, di truyền tính nhạy cảm đối với các nguy cơ
này, giống nhau về văn hóa, lối sống và tương tác giữa yếu tố di truyền và ngoại
cảnh. Các bất thường về di truyền có thể làm bộc lộ các yếu tố nguy cơ như tăng
huyết áp, đái tháo đường, tang lipid máu, rối loạn đơng máu.
- Các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được: Tăng huyết áp, đái tháo đường, tang
cholesterol máu, hút thuốc lá, uống rượu, các bệnh lý tim mạch, béo phì, yếu tố
tâm lý, thuốc tránh thai và một số yếu tố khác.
+ Tăng huyết áp: được coi là yếu tố nguy cơ hàng đầu của ĐQ vì nó chiếm tỷ lệ
cao trong cộng đồng . Gọi là tăng huyết áp khi huyết áp tối đa ≥ 140mmHg và/
hoặc HA tối thiểu ≥ 90mmHg. Nếu trung bình HA > 135/85 mmHg (khi thức)
và >120/75mmHg (khi ngủ) thì coi như tăng huyết áp [18]. Trong đêm HA giảm
10 – 20%, nếu không giảm bệnh nhân tăng nguy cơ bị các tai biến tim mạch.
Qua một số nghiên cứu cho thấy tăng huyết áp tối đa và tối thiểu là các yếu tố
nguy cơ độc lập gây ra ĐQ. Khi huyết áp ≥ 160/95 mmHg sẽ làm tăng nguy cơ
ĐQ vào khoảng 4 lần so với người có huyết áp bình thường và nếu chỉ số huyết
áp ≥ 140 - 159/90 - 94 thì sẽ tăng nguy cơ ĐQ gấp 2 lần những người có chỉ số

huyết áp bình thường[26]. Tăng huyết áp là nguyên nhân đứng đầu gây ra CMN,
nhất là tăng huyết áp kèm theo xơ vữa động mạch. Người ta nhận thấy khoảng
60 – 90% trường hợp chảy mãu não có tăng huyết áp. Tác giả Hồng Khánh và
cộng sự nghiên cứu trên 921 trường hợp ĐQ thấy rằng tăng huyết áp ở thể CMN
là 90,4% và ở thể NMN là 62,68%. Khi tăng huyết áp thì thành mạch dễ bị thối
hóa, đàn hồi kém, lớp áo giữa bị tổn thương hình thành các túi vi phình mạch,
khi có tăng huyết áp đột ngột do nhiều nguyên nhân khác nhau sẽ gây vỡ các vi
thành mạch đó gây ra hiện tượng CMN [8]. Mặt khác tăng huyết áp làm thúc
đẩy xơ vữa động mạch và dưới áp lực của dịng máu ln tăng cao sẽ làm nứt
mảng xơ vữa tạo điều kiện hình thành cục máu đơng, đồng thời tăng huyết áp
làm tăng cường q trình hoạt hóa, tăng đơng trong lịng mạch, cộng với tăng
các yếu tố nguy cơ gây co thắt mạch. Tất cả những thuận lợi trên có thể gây ra
hiện tượng NMN. Bogouslavsky nhận định tăng huyết áp kết hợp với hút thuốc

8

lá ở cả hai giới nam và nữ là yếu tố nguy cơ chính gây tổn thương các động
mạch lớn. Tăng huyết áp kết hợp với đái tháo đường là nguyên nhân chính dẫn
tới nhồi máu não ổ khuyết do tổn thương các nhánh động mạch sâu trong não…
Tăng huyết áp kết hợp với tăng cholesterol máu sẽ làm tăng tỷ lệ NMN. Mặt
khác việc điều trị giảm huyết áp cũng làm giảm tỷ lệ ĐQ ( cả nhồi máu não và
chảy máu não ) từ 3,8% xuống còn 2,7% hàng năm và tỷ lệ tàn phế xuống còn
33%, giảm tỷ lệ tử vong 16% cũng như giảm mức độ nặng do ĐQ gây ra xuống
còn 24% [7].
+ Đái tháo đường: Hiện nay các nghiên cứu đã chứng minh rằng đái tháo đường
là yếu tố nguy cơ gây ra các thể TBMN. Người ta cho rằng đái tháo đường là
yếu tố làm tang tình trạng xơ vữa mạch não. Khi mức đường huyết là 11mmol/l
so với mức đường huyết 6,4 mmol/l nguy cơ tương đối của đái tháo đường với
ĐQ là từ 1,4 – 2 lần. Phối hợp với tăng huyết áp, đái tháo đường làm tăng tỷ lệ
mắc nhồi máu não. Tác giả You nhận định đái tháo đường làm tăng nguy cơ ĐQ

ở bệnh nhân dưới < 55 tuổi lên 11,6 lần [7]. Nếu dự phịng tốt tình trạng tăng
đường máu có thể làm giảm các tổn thương não trong giai đoạn cấp cũng như
tiên lượng của ĐQ tốt hơn.
+ Hút thuốc lá: Thuốc lá làm thay đổi thành phần lipid máu, làm giảm tỷ lệ
cholesterol HDL. Ngoài ra, hút thuốc lá làm tăng Fibrinogen, kích thích kết dính
tiểu cầu, tăng thể tích hồng cầu…do đó làm tăng độ qnh của máu [8]. Hút
thuốc lá trực tiếp hay thụ động đều làm tăng nguy cơ bệnh lý tim mạch và nhất
là phụ thuộc vào số lượng hút và thời gian hút. Theo nhiều nghiên cứu ở nhiều
quốc gia đều thấy rằng hút thuốc lá gây ra ĐQ cho cả hai giới và cho mọi lứa
tuổi, tăng 50% nguy cơ so với người không hút thuốc lá. Thuốc lá cũng gây ảnh
hưởng khác nhau tới các thể khác nhau của ĐQ. Theo Shinton thì tuổi và giới
hút thuốc lá khác nhau sẽ gây ảnh hưởng khác nhau tới TBMN. Tuổi dưới 55 mà
hút thuốc lá sẽ có nguy cơ tương đối cao là 2,9, nguy cơ này là 1,8 ở tuổi 55 –
74 và 1,1 trên 75 tuổi.

9

+ Rối loạn lipid: Cholesterol là thành phần trong máu, được vận chuyển trong
máu. 30% do thức ăn, 70% do gan sản xuất ra ( vì là chất cần thiết cho cơ thể ).
Nguyên nhân làm tăng cholesterol máu là mỡ trong thức ăn nhất là các loại bơ
từ sữa, thịt đỏ, các loại dầu nhiệt đới như dầu dừa…. Theo một số nghiên cứu
tăng cholesterol máu là yếu tố độc lập làm tăng tỷ lệ mới mắc của thiếu máu cục
bộ và bệnh lý mạch vành. Lipid trong huyết tương tồn tại dưới dạng kết hợp với
apoprotein và được chia làm 3 loại: Lipoprotein trọng lượng phân tử thấp
( LDL/ Low Density Lipoprotein ) chiếm 40 – 50% các loại lipoprotein tham gia
vào cơ chế gây dày lớp áo trong của thành mạch. Lipoprotein trọng lượng phân
tử cao ( HDL/High Density Lipoprotein ) chiếm 17 – 23% các loại lipoprotein
có tác dụng bảo vệ thành mạch. Nồng độ LDL > 3,0 mmol/dl là yếu tố nguy cơ
của bệnh tim mạch. Ngược lại HDL lại xem là có vai trị bảo vệ, hàm lượng
HDL trong máu càng cao thì nguy cơ mắc bệnh tim mạch càng thấp (tối thiểu

cũng phải lớn hơn 1,0 mmol/dl). Theo nghiên cứu tim mạch tại thành phố
Copenhagen người ta thấy khi tăng 1 mmol/dl cholesterol HDL thì giảm tỷ lệ
NMN 47%. Triglycerid chiếm 8- 12% các loại lipoprotein và cũng tham gia cơ
chế tạo mảng xơ vữa mạch. Các tác giả thấy khi cholesterol toàn phần tăng trên
5,7 mmol đến 7,28 mmol tỷ lệ nhồi máu não tăng từ 1,31 đến 2,57 lần. Bên cạnh
tác hại của tăng cholesterol người ta thấy hạ quá mức cholesterol cũng ảnh
hưởng bất lợi đến bệnh lý mạch máu não. Người ta cho rằng Cholesterol có vai
trị trong đảm bảo tính toàn vẹn của thành mạch. Theo Vũ Anh Nhi khi LDL
tăng 10% thì nguy cơ đối với các bệnh tim mạch tăng 20% trong đó có ĐQ,
thơng qua xơ vữa động mạch [7]. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu chứng
minh rằng việc giảm cholesterol toàn phần, LDL cholesterol, triglyceride và
tang HDL sẽ làm giảm nguy cơ mắc ĐQ và tử vong nói chung.
+ Các bệnh lý tim mạch: Người ta cho rằng nguy cơ ĐQ tăng trong bệnh lý tim
mạch có liên quan đến cơ chế lấp mạch hoặc biểu hiện bệnh lý thành mạch kết
hợp với một bệnh tim. Các bệnh thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim, van tim,
rung nhĩ, huyết khối trong tim…kết hợp với yếu tố tuổi tác, tăng huyết áp góp

10

phần làm tăng nguy cơ ĐQ [5]. Nghiên cứu của Siritho và cộng sự thấy bệnh
van tim chiếm khoảng 15 – 20% các trường hợp NMN. Tại Huế theo nghiên cứu
của Hoàng Khánh và cộng sự hẹp hai lá chiếm 2,35%, nhồi máu cơ tim chiếm
3,62%, rung nhĩ 4,16% ở thể NMN tương ứng với thể CMN là: 0,28%; 0,57%;
0,57%.
+ Béo phì: Trong một nghiên cứu trên 100.000 phụ nữ có tuổi từ 30 – 55 nguy
cơ tim mạch cao gấp 3 lần ở nhóm béo nhất so với nhóm có cân nặng thấp nhất
[32]. Có hai dạng béo phì: ở dạng thứ nhất mỡ thừa thường tập trung tại vùng
bụng hay gặp ở nam giới ( gọi là “ bụng bia ” hay “ người hình quả táo ”). Dạng
thứ hai được đặc trưng bởi sự tích lũy mỡ ở vùng mơng và đùi thường gặp ở phụ
nữ ( người hình quả lê. Kiểu béo phì ở bụng có liên quan tới sự gia tăng mắc

bệnh tim mạch đặc biệt là bệnh mạch vành và ĐQ. Các nhà khoa học khuyến
cáo: nam giới khơng để vịng bụng vượt qua 90% vịng mơng, ở phụ nữ thì duy
trì con số này dưới 80% [2]. Để đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo Liên Hợp
Quốc năm 1996 đề nghị sử dụng chỉ số khối cơ thể ( Body Mass Idex – chỉ số
khối cơ thể được tính bằng cân nặng/ chiều cao2) để BMI từ 18,5 – 25 là bình
thường, BMI >25 là béo phì, BMI <18,5 là gầy. Theo AG.Shaper, SG
Wannamethee thì trọng lượng quá mức trên 30% làm gia tăng nguy cơ tai biến
mạch máu não, nguy cơ ĐQ tương đối ở nhóm có chỉ số khối cơ thể cao là 2,33
so với nhóm có chỉ số khối cơ thể thấp khi nghiên cứu trên 28.643 nam giới.
Ngoài ra những người béo phì thường có tăng huyết áp, đường máu cao, tăng
lipid máu, những yếu tố này kết hợp với nhau dẫn đến nguy cơ ĐQ cao hơn. Vì
vậy điều trị béo phì kết hợp với chế độ ăn kiêng, tập thể dục, dùng thuốc theo
hướng dẫn của bác sỹ là điều cần thiết và quan trọng.
+ Nghiện rượu: Có nhiều ý kiến khác nhau về vai trò của rượu đối với ĐQ. Nếu
uống ngày 10 – 30g ethanol đối với nam và 10 – 20 g đối với nữ thì an tồn và
có lợi thong qua giảm xơ vữa động mạch ( có thể giảm lipoprotein A hoặc tăng
HDL – C hoặc hoạt tính NO ), làm thay đổi về đơng máu như làm giảm ngưng
tập tiểu cầu, tăng tỷ lệ prostacyclin/thromboxane, giảm fibrinogen, giảm kết

11

dính hồng cầu, tăng khả năng biến thái của hồng cầu [18],[24],[26]. Nhưng có
tác giả lại thấy tỷ lệ tiêu thụ rượu tăng lên 10% sẽ góp phần làm tăng tỷ lệ mới
mắc ĐQ lên 29% và tăng tỷ lệ tử vong do ĐQ lên 16%. Nghiện rượu nặng hay
đi kèm với nghiện thuốc lá nặng sẽ dẫn tới tăng hematocrit máu. Ngộ độc rượu
cấp ở những người trẻ tuổi là tiền đề cho tai biến xuất hiện [8].
+ Stress: Stress là YTNC có thể dẫn đến ĐQ. Khi bị stress cơ thể tiết quá mức
những chất làm tăng nhu cầu oxy cơ tim nhất là adrenalin, làm co mạch vành,
rối loạn chức năng đơng máu, thành mạch…. Ngồi ra stress và ĐQ có thể liên
quan với nhau do những người lo âu cịn có khuynh hướng hút thuốc nhiều, ít

vận động, uống rượu nhiều nên dễ mắc tim mạch hơn [8].
+ Lười vận động ( Lối sống tĩnh tại ): Đây được coi là một nguy cơ của các bệnh
tim mạch. Việc vận động hàng ngày ít nhất 45 phút mang lại lợi ích rõ rệt cho
việc giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Hoạt động thường xuyên giúp kiểm soát
cholesterol, giảm béo phì, đái tháo đường, tăng lưu thơng tuần hồn máu, duy trì
huyết áp ổn định, tác dụng tốt cho thành mạch…[7] Một số yếu tố nguy cơ khác
như: Sử dụng thuốc chống đông, thuốc tránh thai, tăng Homocystein máu, hẹp
động mạch cảnh không triệu chứng, tăng acid uric máu và tập quán ăn uống…
cũng có liên quan tới ĐQ [10].
1.4. Tiến triển và biến chứng:[1]
- Người bệnh bị XHN thường 2/3 là tử vong, tử vong thường xảy ra trong những
giờ đầu hoặc cuối tuần đầu nếu như tình trạng người bệnh bị hơn mê sâu, có sốt
kéo dài, rối loạn nhịp thở, rối loạn tim mạch và huyết áp.
- Sau 10 ngày sẽ đỡ nguy hiểm hơn nhưng vẫn có thể tử vong do các biến chứng
nhiễm khuẩn đường hô hấp, tiết niệu cũng như các rối loạn nước điện giải, rối
loạn dinh dưỡng.
- Khi người bệnh qua được giai đoạn nguy kịch về sau bệnh vẫn có thể tái phát,
hầu hết để lại di chứng nặng nề. Người bệnh xuất huyết màng não có thể có hội
chứng màng não.
1.5. Phòng bệnh [8]

12

Để phòng ngừa bệnh ĐQ có hiệu quả cần tuân thủ tốt chế độ phòng bệnh:
- Phòng bệnh cấp 1 bao gồm các hành động với mục đích khơng cho bệnh và tác
nhân xấu có cơ hội gây ra bệnh.
- Phịng bệnh cấp 2 với mục đích phát hiện ra bệnh ở giai đoạn mới chưa có
triệu chứng. Nhờ đó khi áp dụng, các phương thức điều trị có thể trì hỗn hoặc
chặn đứng khơng cho bệnh xảy ra.
- Phịng bệnh cấp 3: Tránh các biến chứng xấu của bệnh đã không may mắc phải

và phịng ĐQ tái phát.
1.6. Tình hình nghiên cứu các yếu tố nguy cơ của ĐQ:
Từ nhiều thập kỷ qua ĐQ luôn là vấn đề thời sự cấp bách.
1.6.1 Trên thế giới:
- Theo điều tra tại Hội Tim mạch tại Hoa Kỳ mỗi năm có khoảng 5 triệu trường
hợp bị tai biến mới, phần lớn xảy ra sau tuổi 55 ( Rusell ) tỷ lệ tử vong: ở Hoa
Kỳ năm 1977 có khoảng 182.000 người chết do tai biến chiếm 1/10 tổng số tử
vong các loại [4]
- Tại Pháp: Năm 1982 tỷ lệ tử vong do ĐQ là 130/100.000 dân.
- Thái Lan: + Năm 1980: tỷ lệ mới mắc 12,7/100.000 dân.

+ Năm 1984 tỷ lệ mắc 18,7/100.000 dân.
- Nghiên cứu về ĐQ ở các nước Đông Nam Á cho thấy tỷ lệ NMN 65,4 % ,
CMN là 1,3%. K.S.Wong ( Trung Quốc ) nghiên cứu các yếu tố nguy cơ gây tử
vong sớm trong NMN cấp tính của 2.403 bệnh nhân tuổi từ 56 – 75 cho thấy:
tuổi trung bình là 63,7 trong đó: nam chiếm 58,3%, tăng huyết áp là 63%, đái
tháo đường 26,4%, ĐQ cũ là 31,4%, bệnh tim là 4,5%, hút thuốc lá là 39,7%[7].
1.6.2 Tại Việt Nam
- Theo nghiên cứu của Bộ môn Thần kinh trường Đại học y khoa thành phố Hồ
Chí Minh năm 1994 – 1995 tỷ lệ hiện mắc chung là 415/100.00 dân, tỷ lệ mới
mắc chung là 161/100.000 dân.

13

- Theo nghiên cứu dịch tễ học của bộ môn Thần kinh trường Đại học Y Hà Nội
tỷ lệ hiện mắc trung bình là 115,92/100.000 dân; tỷ lệ mới mắc trung bình là
28,25; tỷ lệ tử vong trung bình là 21,55 [7].
- Tại khoa Thần kinh bệnh viện Bạch Mai từ tháng 9 năm 1997 đến tháng 6 năm
2005 đã có 7,778 bệnh nhân ĐQ vào điều trị trong đó nam chiếm 69%, nữ 31%
và NMN chiếm 59%, XHN 38%, 13% là các loại khác [7].

- Tác giả Phan Thị Hường (2004) nghiên cứu các yếu tố nguy cơ của nhồi máu
não ở 25 bệnh nhân cao tuổi tại Khoa Thần kinh - Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội
cho thấy tuổi trung bình là 78,83 ± 6,38 trong đó 89,9% tăng huyết áp; 65,8%
rối loạn chuyển hóa lipid; 25,2 % tai biến mạch máu não cũ; 16% nghiện thuốc
lá; 13,2% nghiện rượu; 6,2 % đái tháo đường [7]. Với sự tiến bộ của y học tuy tỷ
lệ tử vong do ĐQ ngày càng giảm nhưng số lượng bệnh nhân bị tàn tật do ĐQ
lại có xu hướng tăng. Tuy đã thử nghiệm nhiều phương pháp điều trị nhưng cho
đến nay chưa phương pháp nào được coi là đặc hiệu, chi phí cho điều trị và
chăm sóc rất tốn kém song đạt kết quả còn chưa khả quan. Mặt khác kiến thức
về ĐQ của người dân vẫn cịn hạn chế. Do đó việc nghiên cứu về các yếu tố
nguy cơ gây ĐQ là rất cần thiết nhằm hạn chế hậu quả nặng nề do ĐQ gây nên.
Từ đó đề xuất một số kiến nghị giải pháp làm giảm yếu tố nguy cơ và đưa ra
hướng tưn vấn giáo dục thay đổi lối sống hành vi.

14

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Bệnh nhân đột quỵ nằm điều trị nội trú tại Trung tâm Y tế Nghĩa Đàn trong thời
gian từ tháng 2 đến tháng 9 năm 2022.
2.1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn vào nhóm nghiên cứu:
- Bệnh nhân đã được chẩn đoán đột quỵ đang nằm điều trị tại Trung tâm Y tế
Nghĩa Đàn.
- Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Bệnh nhân có thể trả lời hoàn chỉnh bộ câu hỏi.
2.1.2 Tiêu chuẩn loại trừ:
- ĐQ do nguyên nhân chấn thương, do u não, nhiễm khuẩn hệ thần kinh trung
ương.
- Bệnh nhân hoặc gia đình từ chối không tham gia nghiên cứu.

- Bệnh nhân không trả lời được hết bộ câu hỏi
2.2. Thời gian địa điểm nghiên cứu.
- Thời gian: Từ tháng 2 năm 2022 đến 30 tháng 9 năm 2022.
- Địa điểm: Đề tài được thực hiện tại Trung tâm Y tế Nghĩa Đàn.
2.3. Phương pháp nghiên cứu.
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu:
- Nghiên cứu theo phương pháp tiến cứu.
2.3.1 Phương pháp chọn mẫu- cơ mẫu.
- Chọn tất cả bệnh nhân được chẩn đoán đột quỵ được điều trị nội trú tại Trung
tâm Y tế Nghĩa Đàn.
2.4 Nội dung nghiên cứu:
- Họ tên, tuổi, giới, địa chỉ, nghề nghiệp, trình độ văn hóa.
- Khai thác tiền sử: Các yếu tố nguy cơ gây đột quỵ như tăng huyết áp, đái tháo
đường, hút thuốc lá, uống rượu, béo phì, bệnh tim, tiền sử đột quỵ trước đây
(bệnh nhân ), tiền sử gia đình, stress, tập thể dục, mỡ máu.

15

- Tiêu chuẩn chẩn đoán tăng huyết áp: Khai thác phát hiện tăng huyết áp từ năm

nào? Có dùng thuốc điều trị khơng? Dùng thuốc thường xun khơng? Các chỉ

số huyết áp có bình thường không?

Bảng phân loại huyết áp:

Phân loại HATT (mmHg) HATTr (mmHg)

HA tối ưu < 120 < 80


HA Bình thường < 130 < 85

HA bình thường cao 130- 139 85- 89

THA độ I ( nhẹ) 140- 159 90- 99

THA độ II ( vừa) 160- 179 100- 109

THA độ III ( nặng) ≥ 180 ≥110

HA tâm thu đơn độc ≥ 140 < 90

Tiền tăng huyết áp: Kết hợp HA bình thường và bình thường cao nghĩa là HATT

từ 120- 139 mmHg và HATTr từ 80- 89 mmHg.
- Chẩn đoán đái tháo đường: Theo tiêu chuẩn của TCYTTG: đường huyết lúc

đói ≥ 1,26 g/l ( 7 mmol/l ) ít nhất 2 lần hoặc đường huyết bất kỳ thời điểm nào

trong ngày hoặc sau khi làm nghiệm pháp dung nạp đường huyết 2 giờ ≥ 2g/l

( 11,1mmol/l ). Khai thác trước đây có phát hiện bị tiểu đường khơng? Phát hiện

từ năm nào? Có dùng thuốc điều trị khơng? Dùng thuốc có thường xun

khơng? Chỉ số đường huyết có đạt mức bình thường?

- Nghiện rượu: Nam giới uống 60 g rượu/ ngày tương đương 1200 ml bia nồng

độ 5 % và 180 ml rượu mạnh, liên tục hàng năm. Nữ uống 20 g rượu/ngày tương


đương 50 ml rượu vang hay 60 ml rượu mạnh [31].

- Nghiện thuốc lá: Một người hút trên 10 điếu/ngày, thời gian hút trên 2 năm [7].

2.5 Phương pháp thu thập số liệu:

- Phương pháp thu thập.

+ Thiết lập bộ câu hỏi phù hợp với mục tiêu nghiên cứu.

+ Nguồn thu thập số liệu: Phỏng vấn bệnh nhân đột quỵ và người nhà chăm sóc

bệnh nhân đang điều trị tại Trung tâm Y tế Nghĩa Đàn.

- Các bước tiến hành:

16

+ Lấy thông tin từ hồ sơ bệnh án ( việc lấy các thông tin này đã được sự đồng ý
của lãnh đạo Trung tâm Y tế, lấy thơng tin ngay tại phịng hành chính của các
khoa)
+ Phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân hoạc người nhà bệnh nhân được chẩn đoán đột
quỵ (bằng bộ câu hỏi được xây dựng trên mục tiêu nghiên cứu ).
2.6 Xử lý số liệu:
- Số liệu được nhập vào phần mềm SPSS 20.0 và được xử lý theo phương pháo
tốn học thống kê thơng thường.
2.7. Đạo đức trong nghiên cứu:
- Nghiên cứu được sự đồng ý và ủng hộ của lãnh đạo Trung tâm Y tế, các thành
viên tham gia vào nhóm nghien cứu.

- Các đối tượng khi tham gia nghiên cứu đã được giải thích rõ ràng về mục đích
của nghiên cứu và tự nguyện tham gia vào nghiên cứu.
- Tất cả thông tin cá nhân của bệnh nhân trong bộ câu hỏi phỏng vấn và bệnh án
đều được giữ bí mật.
- Người ngiên cứu có tính trung thực tính khách quan tính chính xác và giá trị
thực tiễn của nghiên cứu thử nghiệm.


×