Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

TÌM HIỂU BA HÌNH THÁI GIA ĐÌNH Ở PHÁP: GIA ĐÌNH HẠT NHÂN, GIA ĐÌNH ĐƠN THÂN VÀ GIA ĐÌNH TÁI TẠO LẬP - ĐIỂM CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 16 trang )

86 Xã hội học Thế giới Xã hội học, số 2 (142), 2018

TÌM HIỂU BA HÌNH THÁI GIA ĐÌNH Ở PHÁP:
GIA ĐÌNH HẠT NHÂN, GIA ĐÌNH ĐƠN THÂN

VÀ GIA ĐÌNH TÁI TẠO LẬP

HOÀNG VĂN DŨNG*

Tóm tắt: Từ những năm 1970 ở Pháp, gia đình hạt nhân dù vẫn chiếm đa số trong
những gia đình có con ở tuổi vị thành niên, song đã khơng cịn nắm giữ vị trí độc quyền
nữa, ít nhất là trên phương diện tên gọi. Trong khi tỷ lệ gia đình hạt nhân suy giảm thì
gia đình đơn thân và gia đình tái tạo lập xuất hiện với số lượng liên tục gia tăng. Ba hình
thái gia đình này có mối quan hệ mật thiết với nhau và có thể chuyển từ hình thái này
sang hình thái kia. Bài viết tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển và đặc trưng của ba
hình thái gia đình này ở Pháp. Từ đó, những khái niệm như tư cách làm cha mẹ, tư cách
làm đồng cha mẹ, và tư cách làm nhiều cha mẹ được tạo lập và tranh luận nhằm chuẩn
hóa những hình thái gia đình mới này.

Từ khóa: gia đình hạt nhân, gia đình đơn thân, gia đình tái tạo lập, tƣ cách làm cha
mẹ, tƣ cách làm nhiều cha mẹ.

Nhận bài: 06/02/2018 Gửi phản biện: 18/5/2018 Duyệt đăng: 08/6/2018

1. Đặt vấn đề

Sau Chiến tranh thế giới thứ II, tổ chức đời sống gia đình theo tơn ti thứ bậc vẫn là
mơ hình thống trị ở Pháp. Các thành viên có một sự phân biệt rõ ràng về vai trị và vị trí.
Ngƣời cha mang về thu nhập Ngƣời mẹ có nhiệm vụ ni con trong khi con cái phục
tùng cha mẹ. Đến tận cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, số lƣợng các vụ kết
hôn vẫn ở mức cao và hiện tƣợng sống chung khơng hơn thú vẫn cịn xa lạ. Déchaux


(2007) ghi nhận có khoảng 1/35 các cặp sống chung không hôn thú vào năm 1968 so
với 1/5 năm 2002 Đồng thời với thay đổi nêu trên là các thay đổi nhƣ thời gian học tập
kéo dài, phụ nữ tham gia đông đảo vào thị trƣờng lao động, tuổi thọ tăng, số lƣợng kết
hôn giảm, ly hôn và số lƣợng trẻ em ngoài giá thu tăng Damon (2012: 13-17) giải thích
rằng những biến đổi này là do hệ quả của ba cuộc cách mạng lớn về kỹ thuật, tình cảm
và tƣ pháp

Cách mạng kỹ thuật: Sự phát triển của công nghệ sinh học từ giữa những năm 1960
nhƣ phƣơng pháp tránh thai cho phép tách tình dục ra khỏi sinh sản; sinh sản không cần

* Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn

Hồng Văn Dũng 87

quan hệ tình dục; thử nghiệm di truyền học giúp cho tƣ cách ngƣời cha đƣợc đảm bảo
trong khi tƣ cách ngƣời mẹ sẽ phức tạp hơn về mặt pháp lý nhƣ trƣờng hợp mang thai hộ.
Trƣớc đây, ngƣời ta quan niệm ngƣời mẹ nào sinh con thì là ngƣời mẹ sinh học, nhƣng
với sự ra đời của cơng nghệ ADN thì điều này khơng phải luôn luôn đúng do nhiều ngƣời
phụ nữ mang thai hộ nên tƣ cách ngƣời mẹ cũng phải dựa vào thử ADN mới biết đƣợc.
Đây là điều mới mà trƣớc đây chƣa có tiền lệ, đặt ra nhiều vấn đề xã hội mới đối với quan
hệ cha mẹ và con cái.

Cách mạng tình cảm: Đây là mối quan hệ giữa tình dục, hạnh phúc và con cái. Tình
dục khơng cịn là thứ duy nhất trong cuộc sống, hạnh phúc mới đƣợc coi là đối tƣợng cốt
lõi của việc tạo lập hay kéo dài của đời sống lứa đôi Các cặp đôi ngày càng có ít con,
nhƣng nếu có thì đứa trẻ ra đời trong tình trạng đƣợc mong đợi, dù trong hơn nhân hay
ngồi hơn nhân. Cho nên, có một sự phân tách giữa cặp đôi vợ chồng (couple conjugal)
và cặp đôi cha mẹ (couple parental) trong mối quan hệ tình cảm, tình yêu giữa họ và với

con cái. Cặp đôi ngày càng có nguy cơ tan vỡ nhiều hơn vì họ muốn đi tìm hạnh phúc,
nhƣng cặp đơi cha mẹ thì lâu bền vì họ muốn kéo dài mối liên hệ này ngay cả khi đã ly
hôn/ly thân1 nhằm đảm bảo hạnh phúc cho con cái.

Cách mạng pháp lý: Luật pháp, thay vì hạn chế những hệ quả của sự bấp bênh tình
cảm vợ chồng thì đang đồng hành với những thăng trầm đó Luật pháp mang đến sự bình
đẳng giữa vợ và chồng, giữa trẻ em hợp pháp và ngồi giá thú Gia đình hạt nhân không
chỉ đƣợc công nhận bằng hôn nhân, mà sống chung không đăng ký kết hôn cũng đƣợc
thừa nhận. Nhiều thay đổi đến mức mà ngày nay ngƣời ta gọi một cặp đôi “nguyên vẹn”
(intact), tức là cha mẹ sống cùng với con cái ruột của họ, dù có kết hơn hay khơng là gia
đình “truyền thống”/hạt nhân.

Những biến đổi của gia đình gây ra hai luồng dƣ luận. Một số tỏ ra bi quan và hoài
niệm về sự tan rã của thiết chế gia đình truyền thống, nơi ƣu tiên tơn ti thứ bậc. Số khác
lạc quan hƣớng về gia đình quan hệ (famille relationnelle), nơi ƣu tiên chất lƣợng các
quan hệ cá nhân, sự tôn trọng lẫn nhau thay cho uy quyền (Singly, 2004; Damon, 2012).
Vai trò của nhà nƣớc thơng qua chính sách cơng và luật pháp giúp cho vợ chồng bình
đẳng hơn Hầu hết các nhà xã hội học gia đình ở Pháp (Théry, 1998; Singly, 2004;
Déchaux, 2007; Damon, 2012; Ségalen, 2014) nhận định là quá trình phi hạt nhân hóa gia
đình đang diễn ra Hình thái gia đình hạt nhân đƣợc coi là điển hình của tính hiện đại và
của cuộc cách mạng cơng nghiệp khơng cịn là cách tiếp cận độc đáo nhất hay hiệu quả
nhất. Nhiều hình thái gia đình mới nhƣ gia đình cha/mẹ đơn thân và gia đình tái tạo lập
xuất hiện trong một xã hội đƣợc gọi là “hậu công nghiệp”

Để phác họa chân dung gia đình Pháp, INSEE2 định nghĩa gia đình là thành phần
của một hộ bao gồm ít nhất hai ngƣời và đƣợc tạo nên hoặc từ một cặp đơi có kết hơn hay
khơng, có con hay khơng có con, hoặc từ một ngƣời lớn với một hay nhiều ngƣời con của

1 Trong bài viết này, ly thân bao gồm cả những trƣờng hợp chấm dứt chung sống của những cặp đôi không
đăng ký kết hôn.

2 INSEE - Viện Thống kê và nghiên cứu kinh tế quốc gia Pháp.

BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn

Hồng Văn Dũng 88

mình. Tất cả cá nhân độc thân (khơng có con) sống trong cùng hộ với cha hay mẹ hay cả
hai cha mẹ, không giới hạn tuổi cho ngƣời con đó, đƣợc coi là con. INSEE xác định 3
kiểu loại gia đình lớn qua các cuộc thống kê: các cặp đơi khơng có con3, các cặp đơi có
con4, và gia đình cha/mẹ đơn thân

Ba hình thái gia đình hạt nhân/“truyền thống” (famille “traditionnelle”)5, gia đình
cha/mẹ đơn thân (familles monoparentales)6, gia đình tái tạo lập (familles recomposées)
có mối liên hệ khăng khít và đều coi con cái là đơn vị tính có giá trị nhất (xem phần 4.1).
Nhìn chung, mỗi hình thái gia đình này tạo thành một giai đoạn của chu kỳ gia đình, tiếp
nối nhau. Sống chung thời thanh niên dẫn đến kết hơn/cặp đơi hình thành gia đình hạt
nhân. Ly hơn/ly thân là tiền thân của của gia đình cha/mẹ đơn thân Tái hơn/hình thành
cặp đơi mới cho ra đời gia đình tái tạo lập Năm 2011, cuộc Điều tra Gia đình và nhà ở
(Famille et logements, 2011) ghi nhận nƣớc Pháp có 7,8 triệu gia đình thuộc ba hình thái
này với 13,7 triệu trẻ em ở tuổi vị thành niên (xem Bảng 1).

Bảng 1. Phân chia gia đình và trẻ em ở tuổi vị thành niên theo
hình thái gia đình năm 1999 và 2011

Đơn vị: %

Gia đình Trẻ em vị thành niên

1999 2011 1999 2011


Gia đình hạt nhân 75,0 70,4 75,5 71,3
Gia đình tái tạo lập 8,7 9,3 10,4 10,8
Gia đình cha/mẹ đơn thân 20,3 14,1 17,9
TN 16,3 7774 13193 13700
7369

Phạm vi: Nước Pháp chính quốc, gia đình với ít nhất 1 trẻ em ở tuổi vị thành niên
Nguồn: INSEE, 2015: 106.

2. Gia đình hạt nhân

Mức sinh thấp7 và ly hôn/ly thân là những nhân tố chính khiến tỷ lệ gia đình hạt
nhân giảm so với các hình thái gia đình khác Hình thái gia đình này đƣợc hiểu là một cặp
đơi, kết hôn hay không kết hôn, sống cùng với những ngƣời con của mình (những ngƣời
con đó chƣa lập gia đình hay chƣa có ngƣời bạn đời). Theo cuộc điều tra về Gia đình và
nhà ở 2011 (Famille et logements), gia đình hạt nhân chiếm 70,4% số gia đình có con ở
tuổi vị thành niên (dƣới 18 tuổi) Hơn 7/10 trẻ em vị thành niên sống trong những gia
đình hạt nhân này. Nhìn chung, tình trạng cơng ăn việc làm của cha mẹ, điều kiện chỗ ở,
thành công trong học tập của con trong gia đình hạt nhân tốt hơn trong hai hình thái gia
đình mới (INSEE, 2015).

3 Bài viết khơng phân tích các cặp đơi khơng có con
4 Các cặp đơi có con bao gồm hai hình thái gia đình: gia đình hạt nhân và gia đình tái tạo lập.
5 Trong tiếng Pháp, thuật ngữ này chỉ hình thái gia đình gồm cha mẹ có kết hơn hay khơng và sống với con

ruột của họ, tạm dịch sang tiếng Việt là gia đình hạt nhân.
6 Chúng tơi dịch thuật ngữ “familles monoparentales" là gia đình cha/mẹ đơn thân, và để thuận tiện có thể

gọi là gia đình đơn thân.
7 Mức sinh đã giảm từ 2,9 trẻ em/phụ nữ năm 1964 xuống còn 1,98/phụ nữ năm 2006


BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn

Hoàng Văn Dũng 89

3. Gia đình cha/mẹ đơn thân

3.1. Nguồn gốc, định nghĩa và ý nghĩa

Khái niệm gia đình chỉ có cha hoặc mẹ xuất hiện ở Mỹ ngay từ những năm 1960 Ở
Pháp, những nhà xã hội học nữ quyền đã vay mƣợn thuật ngữ này và đƣa vào sử dụng từ
giữa những năm 1970 Sau nhiều cuộc tranh luận, ngƣời ta đặt cho hình thái gia đình này
là gia đình cha/mẹ đơn thân Năm 1981, INSEE tạo ra chuyên mục (rubrique) “gia đình
cha/mẹ đơn thân” và đƣa vào trong danh mục các “hộ - gia đình” của CSP8 (Lefaucheur,
1991) INSEE đƣa ra định nghĩa, theo đó một gia đình cha/mẹ đơn thân bao gồm một
ngƣời cha hay một ngƣời mẹ đơn độc và sống với một hay nhiều ngƣời con độc thân
(ngƣời con đó khơng có con) Hình thái gia đình này bao gồm những ngƣời góa, độc thân,
ly hơn/ly thân sống với con của mình.

Từ lâu, ly hơn/ly thân hay việc sinh con ngồi giá thú bị lên án là vi phạm thiết
chế hôn nhân (Lefaucheur, 1991; Ségalen, 2014). Trong nhiều thập niên ở Pháp, ngƣời
ta thƣờng tiếp cận việc sinh con ngoài giá thú hay gia đình tan vỡ bằng các thuật ngữ
ám chỉ các gia đình có “vấn đề tâm lý - xã hội”, “có nguy cơ”, “sai lệch”, “khuyết
thiếu” hay “bất bình thƣờng” Với các hiện tƣợng nhƣ gia tăng sống chung không kết
hôn, sinh con ngồi giá thú và ly hơn/ly thân, thuật ngữ gia đình cha/mẹ đơn thân
mang tính hiện đại hơn Ngƣời ta nhìn thấy thuật ngữ này phản ánh thực tế xứng đáng
cho một hình thái gia đình, và là sự đoạn tuyệt với những phân biệt đối xử về mặt biểu
tƣợng gắn với một số hình thái gia đình (Étienne và cộng sự, 2004). Lefaucheur
(1991) cho rằng tên gọi gia đình cha/mẹ đơn thân sánh ngang với tên gọi gia đình hạt
nhân, và trở thành một đối tƣợng của chính sách xã hội và đối tƣợng nghiên cứu xã

hội học. Theo Ségalen (2014), tên gọi này trả lại công bằng cho các hình thái gia đình
khác vì gia đình hạt nhân vốn ln đƣợc coi nhƣ gia đình thực sự duy nhất. Nhìn
chung, ngƣời ta nhìn thấy khía cạnh tích cực, bình đẳng về tên gọi cho hình thái gia
đình này

3.2. Hiện trạng và xu hướng

Hiện thực của hình thái gia đình cha/mẹ đơn thân thế nào? Đâu là đặc trƣng cơ bản?
Hình thái gia đình này có thể chỉ là một giai đoạn q độ của hai cuộc sống chung tự do
hay hai cuộc kết hơn của một chu kỳ gia đình tan vỡ rồi đƣợc tái tạo lập theo thời gian.
Ngƣời cha không thăm con cái thƣờng xuyên (khi ly hôn/ly thân, khoảng 85% ngƣời mẹ
đƣợc giao trông con) dẫn đến mối quan hệ cha con khá lỏng lẻo. Trong thực tế, ngƣời ta
nghĩ về tổ ấm cha/mẹ đơn thân hơn là gia đình theo nghĩa có đủ cả cha và mẹ (Étienne và
cộng sự, 2004; Damon, 2013). Sự phát triển của hình thái gia đình này gắn với sự chối bỏ
hơn nhân. Cuộc điều tra Lịch sử gia đình (Histoire familiale) do INED và INSEE tiến

8 Catégories socio-professionnelles/Phạm trù xã hội nghề nghiệp đƣợc tạo ra vào năm 1954 Năm 1982,
INSEE thay thế CSP bằng PCS: Professions et catégories socio-professionnelles/Nghề nghiệp và phạm trù
xã hội nghề nghiệp.

BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn

Hoàng Văn Dũng 90

hành (1999) cho thấy 3 cách thức hình thành gia đình cha/mẹ đơn thân: tan vỡ quan hệ
cặp đôi dù là sống chung tự do hay kết hôn (73%); đứa bé ra đời khi cha/mẹ khơng sống
thành cặp và trƣớc đấy ngƣời ấy chƣa có con (15%); vợ hoặc chồng hay bạn đời mất
(12%) (Alvaga, 2002).

Số lƣợng các gia đình thuộc hình thái này khơng ngừng gia tăng ở Pháp Năm

19629 có chƣa đến 700 000 gia đình loại này; năm 1990 là 782 000; năm 1999 là
1 199 000, năm 2009 là 1 310 000, năm 2011 là 1 577 000 và năm 2014 là 1 684 00010
gia đình (Eydoux và Letablier, 2007; INSEE, 2015) Gia đình cha/mẹ đơn thân chiếm
12,5% vào năm 1990, tăng lên thành 16,9% vào năm 1999, 20,3% vào năm 2011 và
21,7% vào năm 201411 (Damon, 2013; INSEE, 2015) Tuy nhiên, đã có sự thay đổi
trong thành phần cấu thành hình thái gia đình này Tình trạng dân số góa giảm và số vụ
ly hôn/ly thân gia tăng từ những năm 1970 Năm 1968, có 56% phụ nữ chủ gia đình
cha/mẹ đơn thân là những ngƣời góa, 35% ly hơn/ly thân và 9% độc thân12, thì 20 năm
sau, 58% là ly hơn/ly thân, 20% độc thân và chỉ 22% là góa (Lefaucheur, 1991). Ly
hơn/ly thân trở thành nhân tố chính của khuynh hƣớng hình thành gia đình cha/mẹ đơn
thân, chiếm 74% các trƣờng hợp năm 1999 (Déchaux, 2007) Lefaucheur (1991) ghi
nhận mặt tích cực là giải phóng phụ nữ ra khỏi những ràng buộc vì 85% phụ nữ là chủ
hộ trong những gia đình này, và mặt tiêu cực là phản ánh tình trạng “đói nghèo” thơng
qua các chính sách hỗ trợ của Nhà nƣớc. Việc gắn hình thái gia đình này vào những khó
khăn xã hội là một thực tế. Những gia đình này khơng có chỗ ở tốt và nhận trợ cấp xã
hội nhiều nhất, chỉ có 7% số hộ nhƣng lại chiếm tới 20% các hộ nghèo (Damon, 2013).
Ngƣời chủ gia đình gặp nhiều khó khăn để dung hịa đời sống nghề nghiệp và đời sống
gia đình, vì nguồn lực tài chính hạn hẹp và nhiều mối bận tâm. Ly hơn/ly thân gây ra đổ
vỡ tình cảm vợ chồng/cặp đơi, dẫn đến đổ vỡ trong quan hệ xã hội. Vì 85-90% trẻ em
đƣợc giao cho ngƣời mẹ nuôi nên đa số gia đình đơn thân bao gồm ngƣời mẹ và những
ngƣời con. Do thiếu vắng ngƣời cha, ngƣời đàn ông trong gia đình nên vai trị thiếu
vắng ấy một cách vô thức đƣợc đặt lên vai bé trai. Con gái thì khơng cần thiết phải thể
hiện vì đã có ngƣời mẹ.

Lefaucheur (1991) và INSEE (2015) cho thấy gia đình cha/mẹ đơn thân có hồn
cảnh kinh tế kém hơn gia đình hạt nhân và ngƣời cha đóng góp rất ít vào việc ni dƣỡng

9 Năm 1962, thuật ngữ gia đình cha/mẹ đơn thân đƣa ra đời, nhƣng INSEE đã có mục ngƣời phụ nữ làm
chủ hộ trong các điều tra của mình. Nhờ đó, INSEE có thể tính tốn đƣợc số lƣợng các gia đình thuộc
hình thái này.

10 />enfants/
11 />type-children/.
12 Ở Pháp, số lƣợng thiếu nữ làm mẹ ở tuổi vị thành niên đã giảm mạnh, từ hơn 10 000 trƣờng hợp xuống
còn khoảng 4.000 vào cuối những năm 1990 Với sự phát triển của các biện pháp tránh thai và quyền đƣợc
nạo phá thai đƣợc công nhận, làm mẹ ở tuổi vị thành niên là tự nguyện, một sự lựa chọn phù hợp với điều
kiện kinh tế-xã hội của những phụ nữ này và ít nhiều đƣợc xã hội chấp nhận.

BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn

Hồng Văn Dũng 91

con mình. Theo Eydoux và Letablier (2007), ly hôn/ly thân làm giảm các nguồn lực của
hình thái gia đình này mà trợ cấp xã hội khơng bù đắp đƣợc Ngƣời đƣợc quyền giữ con
ln khó khăn khi phải làm việc và nuôi dạy con. Một phần ba các bà mẹ của hình thái
gia đình này làm việc bán thời gian so với chỉ 3% các bà mẹ thuộc những hình thái gia
đình khác, tỷ lệ thất nghiệp của họ cũng cao hơn (INSEE, 2015). Dù ít bị tác động hơn,
ngƣời cha cũng khơng nằm ngồi quy luật đó Ly hơn/chia ly cũng gây khó khăn cho
tƣơng lai của ngƣời cha vì họ dễ dàng trở thành ngƣời vô gia cƣ sau ly hôn/ly thân chứ
không phải sau khi mất việc. Bertaux (1997) đƣa ra 3 trụ cột tạo thành một phong cách
sống ổn định ở tuổi trƣởng thành: nhà ở, công việc (thu nhập và hội nhập xã hội) và một
gia đình bao gồm ngƣời bạn đời và con cái. Khi một trong ba trụ cột này biến mất thì
ngƣời đàn ơng rơi vào hồn cảnh dễ bị tổn thƣơng, ly hôn/ly thân thƣờng đẩy ngƣời phụ
nữ vào hoạt động công cộng và nghề nghiệp, trong khi sự kiện này lại có xu hƣớng đẩy
ngƣời đàn ơng ra khỏi các hoạt động đó (dẫn theo Ségalen, 2014: 126). Ly hôn làm cho
ngƣời phụ nữ trở lên năng động và tích cực thì lại tƣớc dần đi những phẩm ấy ở ngƣời
đàn ông

Nƣớc Pháp rất chú trọng đến chính sách dành cho gia đình. Quỹ trợ cấp gia đình
(CAF) đảm bảo phần nào cho trẻ em trong các gia đình một q trình xã hội hóa tốt nhất.
Quỹ cũng đã tài trợ cho việc nghiên cứu gia đình nói chung và gia đình cha/mẹ đơn thân

nói riêng (Lefaucheur, 1991). Trợ cấp đƣợc mở rộng cho trẻ em ngoài giá thú năm 1975
và cho cha mẹ đơn độc của hình thái gia đình này năm 1976.

Giới tính, trình độ học vấn và hoạt động nghề nghiệp trƣớc kia của ngƣời chủ
gia đình tạo thành ba nhân tố quyết định tình trạng kinh tế trong hình thái gia đình
này. Theo kết quả các cuộc điều tra, chủ hộ là đàn ơng có tỷ lệ thất nghiệp và công
việc bán thời gian thấp hơn chủ hộ là phụ nữ. Nữ chủ hộ có bằng cấp và đã đi làm
trƣớc đây ít chịu tác động hơn so với những phụ nữ khơng có bằng cấp và không đi
làm sau khi ly hôn/ly thân (Alvaga, 2002; Eydoux và Letablier, 2007; INSEE, 2015).
Năm 2014, hình thái gia đình này bao gồm nhiều phụ nữ khơng có bằng cấp hay có ít
bằng cấp, gia đình càng nhiều con thì tỷ lệ các bà mẹ đi làm càng thấp. Tỷ lệ thất
nghiệp ở những ngƣời mẹ trong hình thái gia đình này cao hơn hẳn so với phụ nữ sống
thành cặp đôi (15% và 7%) (Bodier và cộng sự, 2015). Do đó, điều kiện kinh tế, chỗ ở
và chất lƣợng sống cũng kém

Giới tính và tuổi của chủ hộ cũng ảnh hƣởng đến gia đình cha/mẹ đơn thân (Alvaga,
2002; Eydoux và Letablier, 2007; INSEE, 2015) Đàn ơng có khuynh hƣớng tái hơn hay
tạo lập cặp đôi mới thƣờng xuyên hơn phụ nữ. Phụ nữ lựa chọn nhƣ vậy vì lo sợ những
hậu quả có thể có của cuộc hơn nhân/sống chung mới. Nếu ly hôn/ly thân xảy ra vào giai
đoạn đầu của đời sống vợ chồng và ngƣời phụ nữ cịn trẻ, tình trạng đơn thân chỉ là quá
độ, ngƣợc lại nếu phụ nữ tuổi cao hơn thì ở vậy lâu hơn Nhiều tác giả (Lefaucheur, 1991;
Alvaga, 2002; Étienne, 2004; Eydoux và Letablier, 2007) chỉ ra rằng môi trƣờng xã hội

BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn

Hồng Văn Dũng 92

và trình độ học vấn tác động lên mối quan hệ giữa ngƣời chồng hay vợ cũ và mạng lƣới
xã hội. Ở các tầng lớp trên của xã hội, các mối quan hệ tƣơng hỗ giữa vợ chồng cũ có
khuynh hƣớng kéo dài hơn, phụ nữ học cao có một mạng lƣới xã hội mở hơn Trong mơi

trƣờng bình dân, mạng lƣới xã hội của ngƣời vợ hay ngƣời chồng sau ly hôn/ly thân bị
hạn chế và thƣờng giới hạn ở những thành viên trong gia đình gần. Họ có nguy cơ bị phụ
thuộc và bị kiểm sốt trong đời sống Do đó, phụ nữ ở các tầng lớp trên của xã hội coi đây
nhƣ là một hình thức tự do mà họ tìm lại đƣợc trong khi phụ nữ ở trong mơi trƣờng bình
dân gặp nhiều bất lợi.

4. Gia đình tái tạo lập

4.1. Nguồn gốc, định nghĩa và ý nghĩa
Gia đình tái tạo lập là một khái niệm mới trong không gian Pháp ngữ. Tái tạo lập
gia đình tạo ra những mối quan hệ và mạng lƣới phức tạp. Sau khi cha mẹ ly hơn/ly thân,
con cái vẫn có hai tổ ấm của cha và của mẹ. Khi cha/mẹ hay cả hai tái hôn hay sống
chung với một ngƣời mới, con cái sẽ có một mối liên hệ rộng hơn và đa dạng hơn Con
cái có cha dƣợng hay mẹ kế và có thể là anh chị em cùng cha khác mẹ hay ngƣợc lại, anh
chị em hờ13 khi cùng chung sống dƣới một mái nhà. Số lƣợng ơng bà tối đa có thể lên đến
8. Trong những năm 1980, hình thái gia đình này tăng nhanh vì hai lý do: các vụ ly hôn/ly
thân diễn ra ngày càng nhiều và rất sớm sau kết hôn; thời gian giữa ly hôn/ly thân và tạo
lập cặp đôi đƣợc rút ngắn (Damon, 2012). Vậy cần phải đặt tên chúng nhƣ thế nào? Tái
tạo lập gia đình là khơng hồn tồn mới vì vào thế kỷ 18, hiện tƣợng này diễn ra thƣờng
xuyên và rất nhanh, nhƣng đó là các trƣờng hợp góa. Rồi đến Chiến tranh Thế giới lần
thứ I và II, hôn nhân tan vỡ do vợ hoặc chồng mất. Ngày nay, nguyên nhân chính là do ly
hơn/ly thân Trƣớc kia, trẻ em sống trong hình thái gia đình này là mồ cơi; ngày nay, là do
gia đình chia ly Nói cách khác, ngày xƣa cha mẹ và con cái đều chịu nỗi đau lớn từ sự đổ
vỡ gia đình Ngày nay, sự đổ vỡ ấy thƣờng là do cha/mẹ hay cả hai lựa chọn nên họ chủ
động hơn; hậu quả là con cái thƣờng phải chịu đựng nhiều hơn, nhất là về khía cạnh học
hành Trƣớc kia, việc tái tạo lập gia đình là do số phận và những gì khơng đốn trƣớc
đƣợc; ngày nay là do khát khao, tự nguyện và mong muốn (Déchaux, 2007; Damon,
2013) Tuy nhiên, hình thái gia đình này khác xƣa về quy mô và biểu tƣợng.

Tƣơng tự với khối các nƣớc nói tiếng Anh, đặt tên cho hình thái gia đình này cũng

gây ra nhiều tranh luận. Ở Pháp, năm 1987, luật gia Rubellin-Devichi đề xuất đặt tên hình
thái gia đình này là “gia đình thứ hai” Tuy nhiên, thuật ngữ này khơng đƣợc chấp nhận vì
mang tính thứ bậc; hơn nữa, thuật ngữ này chỉ áp dụng với một số thành viên của nhóm
gia đình mới trong khi với một số khác lại là “gia đình đầu tiên” Cuối cùng, sau những
cơng trình nghiên cứu của Théry, thuật ngữ gia đình tái tạo lập chính thức đƣợc giữ lại
vào năm 1993 Theo INSEE, gia đình tái tạo lập bao gồm một cặp đôi ngƣời lớn, kết hôn

13 Thuật ngữ anh chị em hờ (quasi-frères et soeurs) đặc trƣng trong gia đình tái tạo lập, ám chỉ những trẻ em
khơng có quan hệ máu mủ nhƣng cùng sống và lớn lên dƣới một mái nhà.

BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn

Hồng Văn Dũng 93

hay khơng, sống ít nhất với một ngƣời con và ngƣời con này không phải là con chung của
cặp đôi này Trẻ sống với cha mẹ ruột và những ngƣời anh em cùng cha khác mẹ hay
cùng mẹ khác cha cũng là thành viên của gia đình tái tạo lập. Cách tiếp cận này về gia
đình tái tạo lập đặt trọng tâm gia đình lên trẻ em mà không phải lên vợ chồng/cặp đôi

Tìm hiểu gia đình tái tạo lập rất phức tạp. Khi nghiên cứu hình thái gia đình này,
ngƣời ta xem xét lại dịng dõi, hơn nhân và anh em ruột thịt. Khi cặp đôi cha mẹ không
giống với cặp đôi vợ chồng, mọi chuyện trở nên phức tạp hơn nhiều. Sau nhiều cuộc tranh
luận, ngƣời ta tìm ra một mẫu số chung là có một ngƣời con sống toàn bộ hay một phần
thời gian với cha ni hay mẹ kế Chính ngƣời con tạo nên gia đình về mặt pháp lý, tình
cảm và thống kê (Damon, 2012) Do đó, INSEE đƣa ra cách tiếp cận nhƣ trên cho phép
có những phân tích và ƣớc định Dĩ nhiên, gia đình cịn có các thành viên khác nhƣ cha
dƣợng mẹ kế, anh em cùng cha khác mẹ hay cùng mẹ khác cha hay anh em hờ do không
cùng cha cùng mẹ nhƣng lớn lên cùng nhau, ngƣời cha hay mẹ ruột khơng ở cùng, ơng
bà, cơ, dì, chú, bác… Theo các chuyên gia, tái tạo lập gia đình chủ yếu đến từ sự bất ổn
định vợ chồng/cặp đơi Đơn vị tính có giá trị nhất là con cái dƣới 18 tuổi và sự lựa chọn

này cũng phù hợp với luật về gia đình ƣu tiên lợi ích của trẻ. Theo lẽ thƣờng và phù hợp
với quy định của luật pháp, trẻ em trƣớc tiên là một ngƣời ở độ tuổi từ khi sinh đến hết
tuổi vị thành niên (Damon, 2012). Có con thì ngƣời ta mới nói về gia đình tái tạo lập.
Nếu sau khi ly hơn/ly thân mà khơng có con thì khơng đặt ra vấn đề gì trong việc tái lập
lại gia đình.

Sau hơn 30 năm nghiên cứu, INSEE có thể đƣa ra 5 ƣớc tính (Damon, 2013) để
phác họa chân dung hình thái gia đình này: số lƣợng các gia đình tái tạo lập; số lƣợng cha
dƣợng mẹ kế; số lƣợng con cái; số lƣợng con cái sống với cha dƣợng mẹ kế; số lƣợng con
cái sống với anh chị em cùng cha khác mẹ hay cùng mẹ khác cha hoặc khác cha khác mẹ.
Trong hình thái gia đình này, xƣng hơ giữa những thành viên trong gia đình cả trong
khơng gian gia đình và xã hội không đơn giản. Luật pháp không can thiệp và không quy
định, sách vở cũng khơng hƣớng dẫn Trong nhà thì thƣờng gọi bằng tên nhƣng trong
khơng gian ngồi xã hội thì khó hơn. Con cái gọi là cha dƣợng, mẹ kế (cha hờ, mẹ hờ)
nhƣ thế nào? Gọi ông/bà hờ (quasi-grands-parents) nhƣ thế nào…? Ngƣời ta có thể dùng
đến tên gọi, nhƣng khi giới thiệu thì nhiều ngƣời gặp khó khăn

4.2. Dữ liệu thực tế: hiện trạng và xu hướng
Theo số liệu của Hội đồng tối cao về gia đình (Haut Conseil de la Famille, 2010),
hàng năm có khoảng 150.000 cặp đơi có con chia tay thì một nửa là do ly hơn; một nửa là
các cặp cha mẹ sống chung khơng kết hơn và góa (số lƣợng rất ít). Cịn theo số liệu của
các cuộc điều tra của INSEE và INED, số trẻ em sống trong những gia đình tái tạo lập
nhƣ sau: 680.000 trẻ em năm 1985; 750 000 năm 1990; 1,1 triệu năm 1999; 1,16 triệu
năm 2006 và 1,467 triệu năm 2011 (Vivas, 2009; INSEE, 2015) Trong số gần 1,2 triệu
trẻ em của các gia đình tái tạo lập năm 2006, có sự phân chia tƣơng đối đồng đều cho 3

BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn

Hồng Văn Dũng 94


nhóm: khoảng 400.000 trẻ em sống với cha dƣợng hay mẹ kế và một ngƣời con chung;
khoảng 400.000 sống với cha mẹ mình và ít nhất có một ngƣời con của cuộc hết hơn
trƣớc và khoảng 400.000 sống với cha dƣợng hoặc mẹ kế Hình thái gia đình này thƣờng
có quy mơ lớn vì chỉ chiếm 8% tổng số gia đình nhƣng lại chiếm tới 17% các gia đình có
ít nhất 4 con (Barre, 2003). Tính trung bình, có 0,5 em thuộc loại này sống trong một gia
đình có 3 con hay hơn, trong khi chỉ có 1/3 em sống trong các gia đình hạt nhân (Damon,
2013). Nhìn chung, tỷ lệ trẻ em thuộc loại này chiếm rất ít ở độ tuổi dƣới 4 và đạt tối đa ở
tuổi 13. Về phân công lao động trong gia đình, các nghiên cứu chỉ ra rằng việc phân chia
nhiệm vụ cha mẹ và gia đình (chuẩn bị bữa ăn, giặt giũ, rửa chén bát) bình đẳng hơn và
quản lý ngân sách mang tính riêng tƣ hơn trong những gia đình tái tạo lập (Domingo,
2009). Xét về bằng cấp, cha mẹ trong những gia đình tái tạo lập có bằng cấp cao hơn cha
mẹ trong gia đình cha/mẹ đơn thân nhƣng lại thấp hơn gia đình hạt nhân (INSEE, 2015).
Điều kiện kinh tế xã hội của loại gia đình tái tạo lập ít thuận lợi hơn gia đình hạt nhân, với
gần ¼ số ngƣời mẹ khơng có bằng cấp và không đi làm (Vivas, 2009). Các nghiên cứu
cho thấy ngƣời cha dƣợng thƣờng tìm cách xây dựng mối quan hệ tốt với con cái nhƣng
mẹ kế lại thƣờng khơng làm nhƣ vậy (Le Gall và Gurassa, 2013) Hình thái gia đình này
có nhiều xung đột về vấn đề riêng tƣ giữa cặp đôi và con cái, vấn đề tiền bạc chi tiêu, chỗ
ở, tình anh em bấp bênh, và khó khăn phân chia vật chất và tình cảm của cha mẹ dành cho
nhiều kiểu con.

Khơng giống những hình ảnh trên các phƣơng tiện thơng tin đại chúng, các gia đình
tái tạo lập (cũng nhƣ gia đình cha/mẹ đơn thân) chiếm tỷ lệ lớn ở các giai tầng dƣới của
xã hội: năm 1999, số lƣợng ngƣời công nhân và nhân viên tái tạo lập gia đình cao gấp hai
lần số phụ nữ tái tạo lập gia đình trong những ngƣời làm lãnh đạo. Phụ nữ có bằng cấp
muốn ở một mình hay duy trì một mối quan hệ khơng sống chung để giữ sự độc lập vì họ
có phƣơng tiện kinh tế để sống riêng Điều này cũng lý giải tại sao ở Paris, gia đình tái tạo
lập rất ít trong khi gia đình cha/mẹ đơn thân lại rất nhiều (Déchaux, 2007; Étienne và
cộng sự 2004). Phụ nữ có bằng cấp và có thu nhập cao khơng muốn dấn thân vào một mối
quan hệ mới vì lý do cá nhân hay vì con mình. Phụ nữ có bằng cấp có thể tự ni con và
sống một mình Chƣa có những văn bản luật quy định rõ về trách nhiệm của những thành

viên trong hình thái gia đình này Theo Étienne và cộng sự (2004), chỉ có một số văn bản
pháp luật có thể áp dụng là những văn bản ấn định những quy định của luật thừa kế nhằm
bảo vệ cho con cái từ cuộc hôn nhân trƣớc. Cuối cùng, cha dƣợng mẹ kế khơng có một
cƣơng vị đƣợc luật pháp thừa nhận về quyền hay nghĩa vụ đặc biệt đối với trẻ em khơng
phải con mình. Tuy nhiên, chỗ trống luật pháp lại là một thế mạnh vì nó bảo đảm sự tự
chủ của mỗi ngƣời và để cho các thành viên trong gia đình tổ chức các mối quan hệ hồn
tồn tự do.

Hình thái gia đình phức tạp vì hầu hết gia đình trƣớc đó bao gồm mẹ và con vì
khoảng 85% trong số các vụ ly hơn thì tịa án giao con cho ngƣời mẹ trông giữ. Do vậy,
khi tạo lập một gia đình mới, sự có mặt của ngƣời cha sinh học và ngƣời cha nuôi dƣỡng

BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn

Hoàng Văn Dũng 95

tạo ra bức tranh sinh động của gia đình Ngƣời cha hờ ở cùng ấy có tham dự vào việc giáo
dục con riêng của ngƣời bạn đời hay khơng cịn phụ thuộc vào 3 yếu tố mà Étienne (2004:
207) chỉ ra sau đây: Sự tự nguyện của ngƣời mẹ chia sẻ hay giữ độc quyền giáo dục con
riêng của mình; duy trì hay đoạn tuyệt các mối quan hệ giữa ngƣời cha sinh học và con
mình; ngƣời cha hờ mong muốn hay khơng dấn thân vào một trách nhiệm giáo dục mới.
Từ đây, các nhà xã hội học gia đình đã rút ra đƣợc 3 “mơ hình/lơ-gic” chính Thứ nhất,
“Mơ hình/lơ-gic thay thế” phổ biến trong giới bình dân, xóa đi gia đình cũ và ƣu tiên hình
thành một gia đình mới bằng cách ổn định nó Ngƣời cha dƣợng có khuynh hƣớng thay
ngƣời cha sinh học thƣờng là hƣ hỏng và khơng duy trì mối quan hệ với những ngƣời con
trƣớc kia của mình. Thứ hai, “Mơ hình/lơ-gic lâu bền”, chủ yếu trong những giai cấp
trung lƣu và thƣợng lƣu, không cắt đứt với gia đình cũ mà ƣu tiên duy trì mối liên hệ cha
mẹ và con cái, đan xen gia đình cũ và gia đình mới Ngƣời cha hay mẹ sinh học tiếp tục
giữ một vai trò quan trọng bằng cách duy trì các mối quan hệ thƣờng xuyên và đều đặn
với con của mình nhƣ trƣớc đây Mơ hình này tìm cách tổ chức lại gia đình trong những

hình thức mới và phức tạp hơn Đây có thể gọi là gia đình đa cha mẹ. Thứ 3, mơ hình thứ
3 theo đó hai ngƣời đàn ơng rút lui và nhƣờng lại vị trí quyết định cho ngƣời phụ nữ trong
việc chăm sóc và giáo dục đứa trẻ (Le Gall và Martin, 1993; Bloss, 1996).

Xem xét ba mơ hình trên, Le Gal và Martin (1993); Bloss (1996); Déchaux, 2007;
Étienne và cộng sự (2004) cho rằng trƣờng hợp cha mẹ có mạng lƣới quan hệ xã hội
rộng và đa dạng, và vốn văn hóa lớn thì họ xác định rõ các điều kiện ly hôn và hậu ly
hơn Do đó, việc thiếu quy định pháp lý không đƣợc thể hiện rõ nét Trong trƣờng hợp
cha mẹ có mạng lƣới giao tiếp hạn chế ở mức độ thân quen trong gia đình và vốn văn
hóa ít, ngƣời ta địi hỏi luật pháp phải mạnh vì ly hơn thƣờng làm cho một bên khơng
mấy hài lịng Điều này dẫn đến mối quan hệ giữa những ngƣời cũ vẫn mang tính tranh
chấp ngay cả sau khi một trong hai ngƣời tái hơn Do đó, Théry (1992) cho rằng về mặt
pháp lý nên tách cha mẹ sinh học và cha dƣợng mẹ kế để tạo ra tính đa cha mẹ, nói cách
khác giao cho ngƣời cha dƣợng hay mẹ kế một số quyền và nghĩa vụ đối với con riêng
của ngƣời bạn đời của họ. Các bài viết trong cuốn sách do Le Gall/Bettahar (2001) làm
chủ biên chú ý đến một tập hợp đa dạng các gia đình có quan hệ thân tộc song song và
bổ sung cho nhau. Còn theo Déchaux (2007), luật của Pháp dựa trên một mô hình cha
mẹ duy nhất, chỉ thừa nhận một cha và một mẹ. Tuy nhiên, sự xuất hiện của những hình
thái gia đình mới khiến các nhà lập pháp xem xét lại nguyên tắc này và đang nỗ lực
thông qua luật về tƣ cách làm nhiều cha mẹ nhằm đảm bảo tốt hơn trong việc chăm sóc
trẻ em trong đời sống hàng ngày.

Theo Damon (2013), gia đình tái tạo lập đƣợc khu biệt lại bằng 4 nét chính dù nó
khơng đặc trƣng tồn bộ nhƣng có thể phân biệt với hai hình thái gia đình hạt nhân và gia
đình cha/mẹ đơn thân: Gia đình trẻ hơn, đơng hơn, giản dị hơn, bình đẳng hơn nhƣng
mong manh hơn trên bình diện pháp lý.

BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn

Hoàng Văn Dũng 96


5. Tư cách làm cha mẹ, tư cách làm đồng cha mẹ, tư cách làm nhiều cha mẹ14

Tình dục, sinh sản và dịng dõi là ba nhân tố gắn bó mật thiết với nhau trong hơn
nhân. Trong đó, dịng dõi (filiation) dựa trên 3 yếu tố không thể tách rời: pháp lý, sinh
học và xã hội. Trong truyền thống, Cơ Đốc giáo có ảnh hƣởng mạnh mẽ lên hệ thống thân
tộc phƣơng Tây và dòng dõi dựa trên quan hệ máu mủ. Từ năm 197215, luật thừa nhận
nguyên tắc bình đẳng giữa dòng dõi hợp pháp và dòng dõi tự nhiên và điều này càng củng
cố những nền tảng trƣớc đó Trong gia đình hạt nhân, tƣ cách làm cha mẹ tƣơng đối dễ
hiểu vì cặp đơi cha mẹ (couple parental) và cặp đôi vợ chồng (couple conjugal) là một.
Ngày nay, gia đình tái tạo lập, gia đình nhận con ni16, gia đình đƣợc tạo lập từ việc sinh
sản có trợ giúp của y học, gia đình cha mẹ đồng giới, gia đình cha mẹ chuyển giới xem
xét lại tính khơng thể tách rời và đƣơng nhiên đó. Những hiện tƣợng mới này cũng đặt lại
câu hỏi xem bản chất của quan hệ dịng dõi mang tính sinh học hay xã hội. Từ đây, khái
niệm tƣ cách làm cha mẹ, tƣ cách làm đồng cha mẹ và tƣ cách làm nhiều cha mẹ ra đời để
tiếp cận và nắm bắt những hiện tƣợng mới này.

5.1. Tư cách làm cha mẹ
Năm 1961, Racamier17 đã đƣa thuật ngữ tư cách làm cha mẹ vào vốn từ vựng trong
tiếng Pháp trong một bài viết với Charles Sens và Louis Carretier (dẫn theo Rémy Barbe,
2012) Houzel (1999) đề xuất một định nghĩa đa ngành theo 3 trục. Thứ nhất, trục nghĩa
vụ (axe d’exercice) tƣ cách làm cha mẹ gần với định nghĩa pháp lý về tƣ cách làm cha
mẹ. Trục này xác định vị trí, vai trị của mỗi cá nhân trong mối quan hệ thân tộc và quy
định quyền và nghĩa vụ gắn với chức năng làm cha mẹ cũng nhƣ dịng dõi Đó có thể là
uy quyền cha mẹ hay quyền mang tên họ. Thứ hai, trục kinh nghiệm (axe d’expérience) tƣ
cách làm cha mẹ là kinh nghiệm chủ quan có ý thức hay vơ thức trở thành cha mẹ và hồn
thành vai trị làm cha mẹ. Thứ 3, trục thực hành (axe de pratique) tƣ cách làm cha mẹ là
những chăm sóc đời thƣờng, khơng chỉ mặt thể chất mà còn cả mặt tâm lý, đảm bảo việc
giáo dục. Không chỉ ngƣời mẹ mà ngƣời cha cũng phải có một vai trị trong việc chăm
sóc con cái. Damon (2012) cho rằng khái niệm tƣ cách làm cha mẹ gồm 3 chiều cạnh.

Chiều cạnh xã hội do luật pháp chi phối, chiều cạnh sinh học chủ yếu do tính di truyền chi
phối và chiều cạnh cảm xúc do tình cảm chi phối Tƣơng ứng với 3 chiều cạnh đó, trẻ em
có cha mẹ hợp pháp, cha mẹ sinh học, và cha mẹ tình cảm Trƣớc đây, ba chiều cạnh này
là không thể tách rời (trừ trƣờng hợp nhận con nuôi) Tƣ cách làm cha mẹ đƣợc hiểu nhƣ

14 Tƣ cách làm cha mẹ (parentalité), tƣ cách làm đồng cha mẹ (coparentalité) và tƣ cách làm nhiều cha mẹ
(pluriparentalité).
15 Luật ngày 3 tháng 1 năm 1972 về dòng dõi vẫn duy trì sự phân biệt con hợp pháp và con tự nhiên, tuy
nhiên xóa đi sự bất bình đẳng và thiết lập nguyên tắc bình đẳng giữa con hợp pháp và con tự nhiên nhất là
về thừa kế.
16 Ở Pháp, nhận con ni quốc tế ngày càng có xu hƣớng tăng cao
17 Khái niệm này khi đƣợc giữ lại làm căn từ và thêm các tiền tố sẽ cho ra đời nhiều khái niệm mới nhƣ tƣ
cách làm cha/mẹ đơn thân (monoparentalité), tƣ cách làm đồng cha mẹ (coparentalité), tƣ cách làm nhiều
cha mẹ (pluriparentalité)…

BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn

Hoàng Văn Dũng 97

“nghệ thuật” làm cha mẹ, trong một số trƣờng hợp khái niệm này tƣơng đồng với “chức
năng làm cha mẹ” Trong một số trƣờng hợp khác, tƣ cách làm cha mẹ bị phân biệt một
cách chính thức với các mối liên hệ dịng dõi. Thân tộc thuộc về phả hệ và các quy tắc
pháp lý cấu thành dòng dõi trong khi tƣ cách làm cha mẹ chỉ thuộc về một việc đơn giản
là những ngƣời lớn chăm sóc trẻ em Điều này tạo ra sự khác biệt trong gia đình cha/mẹ
đơn thân và gia đình tái tạo lập so với gia đình hạt nhân.

Khi gia đình hạt nhân bị đƣa ra xem xét, khái niệm này giúp phân biệt cha mẹ
với vợ chồng, phân biệt các chiều cạnh sinh học, xã hội hay gia đình, biểu tƣợng hay
phả hệ. Quan hệ vợ chồng ngày càng dễ chia cắt thì quan hệ dịng dõi là lâu bền, khái
niệm này nhằm tìm hiểu đến việc tổ chức mối quan hệ sau ly hơn giữa cha mẹ và con

cái Các hình thái gia đình càng đa dạng và phức tạp, khái niệm này cũng biến đổi nhƣ
vậy. Khái niệm tƣ cách làm cha mẹ bao gồm những ngƣời lớn đảm bảo chức năng làm
cha mẹ, không chỉ cha mẹ trực tiếp, sinh học hay xã hội, cặp đôi hay không Khái
niệm này cịn nắm bắt những tình huống chun biệt khi cha mẹ khơng đảm bảo chăm
sóc hàng ngày con cái ruột của mình. Hơn nhân khơng cịn là trụ cột chính để tạo lập
gia đình và dịng dõi; ngày càng có nhiều ngƣời ni dƣỡng hay chăm sóc khơng phải
là cha mẹ ruột của đứa trẻ.

5.2. Tư cách làm đồng cha mẹ

Trong bối cảnh tƣ cách làm vợ chồng bấp bênh do ly hôn/ly thân phân biệt rõ nét với
tƣ cách làm cha mẹ lâu bền. Khái niệm tư cách làm đồng cha mẹ ra đời Đây là sự chuyển
dịch từ khái niệm uy quyền cha mẹ (autorité parentale) sang tƣ cách làm đồng cha mẹ.
Trong hồn cảnh số lƣợng các vụ ly hơn/ly thân gia tăng, có một lơ-gic về tính khơng thể
chia cắt của mối liên hệ dịng dõi và tính vĩnh viễn của cặp đơi cha mẹ. Vợ chồng tồn hồn
có thể ly hơn nhƣng cha mẹ khơng ly hơn với con mình. Con cái vẫn duy trì việc gặp gỡ với
ngƣời cha hay mẹ ruột không sống cùng. Damon (2012) cho biết năm 1970, uy quyền cha
mẹ đƣợc lập ra thay thế cho sức mạnh ngƣời cha (puissance paternelle) nhằm tìm kiếm sự
bình đẳng giữa cha và mẹ trong gia đình Cha mẹ phải bảo vệ, trơng giữ, kiểm sốt và giáo
dục con cái (con ngoài giá thú chủ yếu do ngƣời mẹ ni dạy) Sau đó, khái niệm này đƣợc
mở rộng ra cho cả những cha mẹ không kết hôn. Luật năm 2002 phổ biến nguyên tắc thực
hiện ƣu tiên cho sự lâu bền của các mối liên hệ của con cái với cha mẹ mà đứa trẻ không
sống cùng. Luật thống nhất mọi quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với trẻ em dựa trên khái
niệm tƣ cách làm đồng cha mẹ Tƣ cách làm đồng cha mẹ đƣợc thực hiện mà khơng cần
tính đến tình trạng hơn nhân hay loại dịng dõi thế nào của cặp đơi cha mẹ. Luật dành toàn
bộ nguyên tắc tƣ cách làm đồng cha mẹ bằng cách đảm bảo duy trì mối liên hệ của trẻ với
cha mẹ dù hồn cảnh tình u, xã hội và pháp lý thế nào Tƣ cách làm đồng cha mẹ ăn sâu
vào những quyết định liên quan đến uy quyền cha mẹ.

Nguyên tắc tƣ cách làm đồng cha mẹ là bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ

và duy trì mối quan hệ của con cái với cha mẹ (Théry, 1993). Khái niệm tƣ cách làm đồng

BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn

Hoàng Văn Dũng 98

cha mẹ dành cho hai cha mẹ có kết hơn hay đã thừa nhận đứa trẻ, ở chung hay không, một
uy quyền cha mẹ song song mà sự chia tay không tác động vào đƣợc. Tƣ cách làm đồng
cha mẹ đƣợc đƣa ra nhằm đảm bảo sự chia ly lý tƣởng và cuộc đời bình yên cho con cái.
Favez và Frascarolo (2011) cho rằng với khái niệm này, các cơ quan cơng quyền có thể
giúp đỡ các gia đình đƣợc coi là dễ tổn thƣơng (gia đình cha/mẹ đơn thân) hay thừa nhận
tính đa dạng của các hình thái gia đình Sau đó, ly hơn/ly thân và tái tạo lập gia đình gia
tăng đã mở rộng những quan tâm mới về trách nhiệm cha mẹ.

5.3. Tư cách làm nhiều cha mẹ

Vốn xuất phát từ khái niệm tƣ cách làm cha mẹ, tƣ cách làm nhiều cha mẹ xuất hiện
vào đầu thế kỷ thứ 2118. Khái niệm này vƣợt khỏi lô-gic thay thế một ngƣời cha hay
ngƣời mẹ bằng một ngƣời khác để xây dựng cho lô-gic lâu bền nơi mà nhiều ngƣời lớn có
thể tham gia vào quan hệ thân tộc và vào tƣ cách làm cha mẹ Ngƣời ta huy động lô-gic
bổ sung để thừa nhận tƣ cách làm nhiều cha mẹ trong thực tế; đƣa ra một vị thế cho mỗi
chủ thể; hoặc để bảo vệ quan hệ thân tộc (Boisson, 2008) Đây khơng cịn là ngƣời cha
hay ngƣời mẹ thay thế nhƣ trƣớc đây nữa (chủ yếu trong trƣờng hợp góa) do có rất ít vụ
ly hơn vì bị phân biệt nặng nề Ngƣời ta chú ý đến quan hệ thân tộc song song hay bổ
sung xuất phát từ gia đình tái tạo lập19, gia đình nhận con ni20, gia đình từ sinh sản có
sự trợ giúp của y học21 (AMP) hay gia đình cha mẹ đồng giới và chuyển giới. Khái niệm
tƣ cách làm nhiều cha mẹ làm sáng tỏ hơn cho những hình thái gia đình mới khi trẻ em có
một mối quan hệ với nhiều ngƣời lớn, những ngƣời này có đóng góp vào chức năng làm
cha mẹ của trẻ trong những hình thái gia đình kể trên.


6. Bàn luận
Đặt tên cho những hiện thực mới mang ý nghĩa chiến lƣợc. Thiếu tên gọi sẽ khơng
có sự hiểu biết hay sự thừa nhận gì về sự tồn tại của hiện thực. Các thuật ngữ làm cho mọi
ngƣời thừa nhận, biến một trật tự có thực nhƣng chƣa đƣợc biết có thể thấy rõ. Nhờ đó, có
thể xây dựng những nhiệm vụ mới hay những nghĩa vụ đạo đức mới. Boisson (2008) cho
rằng thuật ngữ tƣ cách làm cha/mẹ đơn thân mang tính chiến đấu, làm mờ đi tính miệt thị,
để tránh những từ nhƣ “thiếu nữ làm mẹ” hay “ngƣời mẹ độc thân”; hay thuật ngữ tƣ cách

18 Khái niệm này cũng là tựa đề của cuốn sách Tư cách làm nhiều cha mẹ do Le Gall và Bettahar chủ biên
xuất bản năm 2001
19 Hình thái gia đình này làm nảy sinh nhiều mối quan hệ mới với các thuật ngữ mới nhƣ tƣ cách cha dƣợng
mẹ kế (beau-parentalité), anh em cùng cha khác mẹ hay cùng mẹ khác cha (demi-frère ou demi-soeur), anh
chị em hờ (quasi-frère) tức là không cùng cha hay cùng mẹ nhƣng cùng lớn lên dƣới một mái nhà… Từ đó,
có các quan hệ thân tộc nhiều hơn
20 Năm 2003, trên 4 500 trƣờng hợp nhận con ni có tới 4.000 trẻ em là ngồi nƣớc Pháp, trong bối cảnh
nhƣ vậy, nhiều vấn đề về quyền đƣợc biết về cha mẹ đẻ của trẻ em lại đƣợc tranh luận. Theo luật, khi nhận
con nuôi, thông tin về đứa bé sẽ bị bỏ hết và ngƣời ta làm thẻ căn cƣớc mới cho đứa trẻ.
21 Sinh sản có sự trợ giúp của y học (AMP - Assistance médicale à la procréation), năm 2002, luật pháp quy
đinh đối với AMP cho phép đứa trẻ có thể tìm đƣợc ngƣời mẹ của mình khi 18 tuổi, nhƣng ngƣời mẹ có thể
từ chối. Chỉ chiếm 2,9% (23.887 trẻ em) trong tổng số sinh năm 2007 nhƣng lại gây ra nhiều tranh cãi.
( />assistance-medicale/. Ngày 11/06/2018).

BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn

Hoàng Văn Dũng 99

làm cha mẹ đồng giới nhằm đấu tranh để chứng tỏ năng lực làm cha mẹ khi có xung đột
về việc giữ con khi một trong hai ngƣời bộc lộ xu hƣớng đồng tính, hay hiện nay thuật
ngữ liên quan đến tất cả những cặp đơi đồng tính, họ có nhu cầu nhận con ni hay muốn
nhờ đến việc sinh sản có sự trợ giúp của y học.


Đặt tên cho gia đình cha/mẹ đơn thân, gia đình tái tạo lập, gia đình cha mẹ đồng
giới v.v, biến các gia đình đó bình đẳng với gia đình hạt nhân, ít nhất trên phƣơng diện
tên gọi. Trong thực tế, các cơ quan cơng quyền có khả năng giúp đỡ gia đình cha/mẹ đơn
thân bằng cách trợ cấp hay thừa nhận tính đa dạng của các hình thái gia đình (Favez và
Frascarolo, 2011) Cũng trong lô-gic này, khi số lƣợng các vụ ly hơn và số các gia đình
tái tạo lập gia tăng, các nhà chức trách sẽ mở rộng và luật hóa trách nhiệm của cha mẹ22
để đảm bảo cho trẻ em có một q trình xã hội hóa tốt nhất.

Lefaucheur (1985,1988, 1991), Alvaga (2002), Eydoux và Letablier (2007) đã làm
sáng tỏ thuật ngữ gia đình cha/mẹ đơn thân Théry (1987, 1993, 1995, 1996), Théry và
Dhavernas (1992) nghiên cứu hình thái gia đình mới và đề xuất đặt tên là gia đình tái tạo
lập. Cadoret (2002) nghiên cứu về gia đình nhận con nuôi Delaisi de Parseval (2001) đặt
ra vấn đề về những gia đình nhờ đến sinh đẻ có sự trợ giúp của y học. Descoutures (2010)
nghiên cứu về gia đình ngƣời mẹ đồng tính. Từ đó, Marquet (2010) cho rằng thuật ngữ tƣ
cách làm nhiều cha mẹ dần đƣợc khẳng định. Việc phổ biến những khái niệm phản ánh xã
hội ngày càng thừa nhận các hình thái gia đình mới này Ngày nay, ngƣời ta có thể hiểu
rằng những ngƣời ni dƣỡng trẻ em mới là cha mẹ thực sự.

Việt Nam cũng đang chứng kiến sự nổi lên của các hình thái gia đình mới. Tuy
nhiên, chúng ta chƣa chuẩn hóa tên gọi để nắm bắt và nghiên cứu các hình thái gia đình
mới này. Ở Việt Nam, số lƣợng các vụ ly hôn/ly thân ngày càng gia tăng, tuổi kết hôn
tăng lên (Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê…, 2008), kết hôn hay
không kết hôn của ngƣời phụ nữ là sự lựa chọn ít nhiều đƣợc xã hội chấp nhận, luật pháp
đã bỏ điều cấm quan hệ đồng tính, thừa nhận những ngƣời chuyển giới hay khơng đang
đƣợc bàn luận, các cặp vợ chồng khơng có con cũng đã nhờ đến việc sinh sản có trợ giúp
của y học. Kinh nghiệm của nƣớc Pháp gợi mở cho Việt Nam nắm bắt đƣợc sự năng động
của thiết chế gia đình, quản lý và thích ứng tốt hơn với sự thay đổi theo nguyên tắc biết để
dự báo, dự báo để có thể làm chủ.


Tài liệu tham khảo

Algava, Élisabeth. 2002. Les familles monoparentales en 1999. Population, vol. 57, no. 4: 733-758.
Barbe Rémy. 2012. Parentalités. Psychothérapies, vol. 32, no. 1: 1-2.
Barre Corinne. 2003. 1,6 million d’enfants vivent dans une famille recomposée INSEE Première, Paris,

INSEE, n° 901, juin.

22 Năm 2002, luật đã chuẩn hóa tƣ cách đồng cha mẹ. Tuy nhiên, quyền lợi và trách nhiệm về ngƣời thứ 3 trong
gia đình tái tạo lập vẫn chƣa đƣợc quy định dù có nhiều nỗ lực vận động và dƣới nhiều nhiệm kỳ tổng thống.

BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn

Hoàng Văn Dũng 100

Bloss Thierry. 1996. Éducation familiale et beau-parenté: l’empreinte des trajectoires biographiques. Paris,
L’Harmattan

Bộ Văn hóa - Thể Thao và Du lịch, Tổng cục Thống kê, Viện Gia đình và Giới, UNICEF. 2008. Kết quả
Điều tra Gia đình Việt Nam Năm 2006. Hà Nội.

Boisson Marine. 2008. Petit lexique contemporain de la parentalité. Réflexions sur les termes relatifs à la
famille et leurs usages sociaux. Informations sociales, n° 149: 8-15.

Cadoret A., 2002. Des parents comme les autres. Homosexualité et Parenté. Paris, Odile Jacob.
Clotilde Brunetti-Pons. 2004. L'exercice de l'autorité parentale face au pluralisme familial. Dialogue 2, no

165: 7-22.
Cusin Franỗois, Laurent Batsch, Denis Burckel et claire Juillard. 2006. Demande de logement: la réalité du


choc sociologique, in l’observateur de l’immobilier, numero hors serie
Damon Julien. 2012. Les familles recomposées Presses Universitaires de France, “Que sais-je?”, 128 pages
Damon Julien. 2013. Les familles recomposées. Approche sociologique. Études, no.5: 619-630.
Déchaux Jean-Hugues. 2007. Sociologie de la famille. La Découverte, “Repères”
Domingo Pauline. 2009. Le quotidien des familles recomposes. Politiques sociales et familiales, no

96: 96-104.
Dumont Gộrard-Franỗois. 1992. La situation matrimoniale en France des familles monoparentales a revenus

faibles ou sans revenus. Population, 47 (4): 1045-1051.
Eydoux Anne et Marie-Thérèse Letablier (avec la collaboration de Nathalie Georges). 2007. Les familles

monoparentales en France.
Favez Nicolas, Frascarolo France. 2011. Le développement des interactions triadiques mère-père-

enfant. Devenir, vol. 23: 359-377.
Haut Conseil de la Famille. 2010. Ruptures et discontinuites de la vie familiale, Note adoptée le 8 juillet

2010, www.hcf-famille.fr.
Hounet Yazid Ben. 2014. La parentalité des uns... et celle des autres. L'Homme, 2014/1, n° 209: 121-141.
Houzel Didier. 1999. Les enjeux de la parentalité - Note de synthèse. Toulouse, Érès.
INSEE. 2015. Couples et familles, INSEE Références.
Journal officiel de la République francaise. 1972. Loi n0 72-3 du 3 janvier 1972 sur la filiation. P.145-152.
Le Gall D. et Martin C. 1993. Transitions familiales, logiques de recomposition et modes de régulation

conjugale, in Meulders-Klein M,-T. et Théry I. (dir.) Les recompositions familiales aujourd’hui,
Nathan, Paris, p.137-158.
Le Gall Didier, Bettahar Yamina (eds). 2001. La pluriparentalité. Paris. PUF.
Le Gall, Didier, et Haydée Popper-Gurassa. 2013. Éditorial. Les familles recomposées à l'heure des parentés
plurielles. Dialogue, vol. 201, no. 3: 7-14.

Lefaucheur Nadine. 1985. Familles monoparentales : les mots pour les dire, In Francis BAILLEAU, Nadine
LEFAUCHEUR & Vincent PEYRE (dir.), Lectures sociologiques du travail social, CRIV &
Éditions Ouvrières, 204-217.
Lefaucheur Nadine. 1986. Les familles monoparentales: des chiffres et des mots pour les dire, formes
nouvelles ou mots nouveaux?. In AIDELF, Les familles d’aujourd’hui (diffusion PUF/INED),
173-181.
Lefaucheur Nadine. 1992. Les familles dites monoparentales, in Franỗois de Singly, La famille: l’état des
savoirs, Éditions la Découverte, Paris.

BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn

Hoàng Văn Dũng 101

Marquet Jacques. 2010. Couple parental - couple conjugal, multiparenté - multiparentalité: Recherches
sociologiques et anthropologiques, 41-2 | 2010, 51-74.

Mellier Denis et Emmanuel Gratton. 2015. Éditorial. La parentalité, un état des lieux. Dialogue, vol. 207,
no. 1: 7-18.

Meulders-Klein Marie-Thérèse, Irène Théry (dir.). 1993. Les recompositions familiales aujourd’hui. Paris,
Nathan.

Ségalen Martine. 2014. Sociologie de la famille, Armand Colin, Paris.
Singly Francois. De. 2004. Sociologie da la famille contemporaine, Armand Colin, Paris.
Théry Irène et Marie-Josèphe Dhavernas. 1992. Le beau-parent dans les familles recomposées. Rôle

familial, statut social, statut juridique. Recherches et Prévisions, vol. 27.
Théry Irène, 1996 Différence des sexes et différence des générations, l’institution familiale en déshérence

Esprit, n° 227: 65-90.

Théry Irène. 1987. Remariage et familles recomposées: des évidences aux incertitudes, L’année sociologique, vol.

36: 119-152.
Théry Irène. 1993. Le démariage. Justice et vie privée. Odile Jacob, Paris.
Théry Irène. 1995. Recomposer une famille : Des rôles et des sentiments. Paris.
Théry Irène. 1998. Couple, filiation et parenté aujourd’hui: Le droit face aux mutations de la famille et de

la vie privée. Rapport à la ministre de l’Emploi et de la Solidarité et au garde des Sceaux ministre
de la Justice. Paris, Éditions Odile Jacob.
Vivas Emilie. 2009. 1,2 milliond’enfantsdemoinsde18ans vivent dans une famille recomposée INSEE
Première, n° 1259, Octobre.

BẢN QUYỀN THUỘC VIỆN XÃ HỘI HỌC | ios.vass.gov.vn


×