BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
----------
NGUYỄN THỊ THANH HƢƠNG
NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG VĂN XUÔI
THIẾU NHI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 62.22.01.21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Lã Thị Bắc Lý
2. PGS. Nguyễn Văn Long
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của bản thân tôi.
Các số liệu trong luận án và kết quả nghiên cứu đều trung thực, chưa từng được
cơng bố trong bất kì cơng trình khoa học nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Thanh Hƣơng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...............................................................................2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ...............................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................3
5. Những đóng góp mới của luận án ...............................................................................4
6. Bố cục của luận án.......................................................................................................4
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ..................................................5
1.1. Những vấn đề chung về Văn học thiếu nhi và nhân vật trẻ em................................5
1.1.1. Về cách hiểu Văn học thiếu nhi ............................................................................5
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của Văn học thiếu nhi ............................................................10
1.1.3. Sự hình thành và vận động của truyện thiếu nhi Việt Nam .................................11
1.1.4. Về khái niệm “Trẻ em”........................................................................................14
1.1.5. Nhân vật trẻ em ...................................................................................................16
1.2. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................................24
1.2.1. Vài nét về nghiên cứu nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi nước ngồi .........24
1.2.2. Tình hình nghiên cứu nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam.............26
Chƣơng 2. NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG TRUYỆN THIẾU NHI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN TỪ 1945 ĐẾN 1975 ...............................................................................33
2.1. Những nhân tố tác động đến việc xây dựng nhân vật trẻ em .................................33
2.1.1. Bối cảnh xã hội, văn hóa .....................................................................................33
2.1.2. Bối cảnh Văn học thiếu nhi .................................................................................36
2.1.3. Nhân vật trẻ em trong truyện trước Cách mạng tháng Tám – tiền đề tạo dựng
hình tượng nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi 1945-1975 .....................................37
2.1.4. Quan niệm của nhà văn về trẻ em .......................................................................42
2.2. Các kiểu loại nhân vật trẻ em giai đoạn 1945-1975 ...............................................44
2.2.1. Nhân vật chiến sĩ nhỏ tuổi trong chiến đấu.........................................................44
2.2.2. Nhân vật công dân nhỏ tuổi trong sinh hoạt đời thường ....................................52
2.2.3. Nhân vật như tấm gương (nhân vật nêu gương) .................................................59
2.2.4. Nhân vật trẻ em bị ruồng bỏ................................................................................63
2.2.5. Nhân vật trẻ em hồn nhiên, mơ mộng..................................................................70
2.3. Một số đặc điểm nghệ thuật xây dựng nhân vật trẻ em trong truyện
thiếu nhi Việt Nam giai đoạn 1945-1975 ......................................................................78
2.3.1. Xây dựng nhân vật trẻ em theo hình mẫu người lớn thu nhỏ ..............................78
2.3.2. Ngôn ngữ nhân vật trẻ em đậm dấu ấn diễn ngôn thời đại .................................83
2.3.3. Cá thể hóa trong xây dựng nhân vật trẻ em ở Văn học thiếu nhi
miền Nam 1954-1975 ....................................................................................................88
Tiểu kết ..........................................................................................................................91
Chƣơng 3. NHÂN VẬT TRẺ EM TRONG TRUYỆN THIẾU NHI VIỆT NAM
TỪ SAU 1975 ĐẾN NAY ...........................................................................................92
3.1. Những yếu tố tác động đến sự thể hiện nhân vật trẻ em ........................................92
3.1.1. Những thay đổi về văn hóa, xã hội ......................................................................92
3.1.2. Sự gia tăng lực lượng sáng tác cho thiếu nhi và ảnh hưởng của văn học dịch
thời hiện đại...................................................................................................................93
3.1.3. Những thành tựu của ngành tâm lý học trẻ em ...................................................95
3.1.4. Cái nhìn mới của nhà văn về trẻ thơ ...................................................................96
3.2. Các kiểu loại nhân vật trẻ em sau 1975..................................................................97
3.2.1. Nhân vật nạn nhân...............................................................................................97
3.2.2. Nhân vật trẻ em trải nghiệm ..............................................................................109
3.2.3. Nhân vật trẻ em hồn nhiên nhi nhiên ................................................................113
3.2.4. Nhân vật trẻ em với những xúc cảm đầu đời.....................................................122
3.2.5. Nhân vật trẻ em anh hùng lãng mạn .................................................................126
3.3. Những đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi
sau 1975 .......................................................................................................................130
3.3.1. Miêu tả nhân vật trẻ em trên nhiều bình diện, gắn bó, gần gũi với tuổi thơ.....130
3.3.2. Những nỗ lực trong tạo dựng hệ ngôn ngữ trẻ thơ ...........................................136
Tiểu kết ........................................................................................................................147
KẾT LUẬN ................................................................................................................148
CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ...............................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................152
DANH MỤC TÁC PHẨM KHẢO SÁT ..................................................................168
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nền văn học của một dân tộc được cấu thành từ nhiều bộ phận, trong đó
Văn học thiếu nhi là mảnh ghép tuy nhỏ bé nhưng khơng kém phần quan trọng, góp
phần làm nên diện mạo bức tranh văn học. Bắt rễ từ cội nguồn văn hóa dân gian,
sáng tác Văn học thiếu nhi là bầu sữa tinh thần nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Nó giữ
vai trị trọng yếu trong việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ trước và ngay sau
tuổi đến trường.
Từ sự ra đời của loạt sách “Livre du petit” ở miền Bắc Việt Nam vào những
năm đầu thập kỉ 40 của thế kỷ XX, đến nay, Văn học thiếu nhi Việt Nam đã có những
bước phát triển mạnh mẽ với đội ngũ tác giả đông đảo và nhiều tác phẩm giá trị. Sự
vận động, phát triển của Văn học thiếu nhi khúc xạ, phản chiếu sự vận động, biến đổi
quan niệm về con người và văn chương qua mỗi giai đoạn lịch sử văn học. Tuy nhiên,
nghiên cứu về bộ phận văn học này vẫn còn nhiều khoảng trống. Thực hiện đề tài
Nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam, chúng tơi muốn góp phần khẳng
định vai trị của Văn học thiếu nhi cả trên phương diện lí luận và thực tiễn.
1.2. Nói đến văn xi, khơng thể khơng nhắc đến nhân vật. Dù là thiên nhiên
hay con người, dù vô tri hay hữu tri, nhân vật trong văn xuôi cũng là “vai chính” trên
sân khấu văn học, là nơi kết tinh tư tưởng và tài năng sáng tạo của nhà văn.
Với văn xuôi thiếu nhi, nhân vật trẻ em là “trung tâm điểm” của bộ phận văn
học này. Qua nhân vật trẻ em, có thể nhận diện được diện mạo cũng như đặc trưng tư
duy thẩm mĩ của của từng thời kì văn học đồng thời khai phá được sự vi diệu trong thế
giới trẻ thơ. Vừa tồn tại với những bản tính tự nhiên, đặc thù, sống động của trẻ thơ, lại
vừa ẩn chứa cái nhìn nghệ thuật riêng của tác giả cũng như quan niệm của một giai
đoạn văn học, thế giới nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam mang trong
mình đặc tính kép. Phục dựng, kiến giải chân dung nhân vật trẻ em trong văn xi
thiếu nhi, qua đó phân tích và cắt nghĩa sự vận động, biến đổi của cái nhìn nghệ thuật
cũng như cách tiếp cận trẻ thơ của mỗi giai đoạn văn học bị chế định bởi điều kiện lịch
sử- văn hóa- xã hội đặc thù là một trong những hứng thú và động lực đưa chúng tôi
đến với đề tài Nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam.
2
1.3. Cuộc sống hiện đại với vô vàn rào cản ngăn cách mối tương giao giữa con
người với con người, đặc biệt là giữa thế hệ trước với thế hệ sau. Trẻ em thời hiện đại
đã khơng cịn giống với cha anh. Cuộc sống của chúng ngày một khác trước, tâm sinh
lí cũng có nhiều thay đổi. Hơn thế, bản thân mỗi đứa trẻ đã là một thế giới ln ln
biến động, khó nắm bắt. Trẻ em không phải là một người lớn thu nhỏ. Đề tài Nhân vật
trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam, vì thế, cịn mang tính thời sự nóng hổi,
hướng tới nhu cầu giải quyết những vấn đề thực tiễn của đời sống đương đại, với hy
vọng là một nhịp cầu dẫn vào thế giới trẻ thơ để hiểu và có ứng xử thích hợp với
những cơng dân tương lai của đất nước.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt
Nam qua hai giai đoạn lớn của văn học từ năm 1945 đến năm 1975 và sau năm 1975.
2.2. Phạm vi nghiên cứu: Văn xuôi thiếu nhi gồm Truyện thiếu nhi và kí thiếu nhi.
Tuy nhiên, tiểu loại kí thiếu nhi chưa có nhiều thành tựu cho nên, luận án tập trung
khảo sát nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam.
Do khối lượng tác phẩm nhiều, cho nên chúng tôi lựa chọn tư liệu phục vụ mục
đích nghiên cứu của đề tài là các tiểu thuyết, truyện ngắn và tự truyện viết cho thiếu
nhi từ năm 1945 đến nay, đặc biệt, tập trung vào một số sáng tác tiêu biểu, có giá trị và
chứa đựng nhiều yếu tố mang tính cách tân.
Từ sau năm 1990, Văn học thiếu nhi Việt Nam bắt đầu xuất hiện truyện do
thiếu nhi viết, điển hình như trường hợp Nguyễn Bình hay những cây bút tuổi teen.
Đây cũng là những sáng tác nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài và đó là lí do vì
sao chúng tôi lựa chọn tên luận án là: “Nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt
Nam”. Cụm từ “Văn xuôi thiếu nhi” được hiểu theo hai nghĩa: văn xuôi viết cho thiếu
nhi và văn xuôi do thiếu nhi viết.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Thực hiện đề tài Nhân vật trẻ em trong văn xuôi thiếu nhi Việt Nam, chúng tôi
hướng tới mục tiêu nhận diện, lý giải hình tượng nhân vật trẻ em và các phương thức nghệ
3
thuật thể hiện nhân vật qua các giai đoạn phát triển của Văn học thiếu nhi từ đó dựng lên
bức tranh tồn cảnh Văn học thiếu nhi với những góc nhìn khác nhau về trẻ em, góp phần
khẳng định giá trị thẩm mĩ đặc thù của bộ phận văn học này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Xây dựng cơ sở lí luận của đề tài, cụ thể là xác định khái niệm: Văn học
thiếu nhi, trẻ em, nhân vật trẻ em, sự phân loại nhân vật trẻ em trong văn học.
3.2.2. Tìm hiểu về sự hình thành nền Văn học thiếu nhi Việt Nam và chặng
đường phát triển của nhân vật trẻ em trong tiến trình Văn học thiếu nhi.
3.2.3. Phân tích một số kiểu nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi giai đoạn
1945-1975.
3.2.4. Phân tích một số kiểu nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam
giai đoạn sau 1975.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp sau đây:
- Phương pháp loại hình: Nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam là
một thực thể nghệ thuật đa dạng, phức tạp, chịu sự chi phối trực tiếp và gián tiếp của
những tiền đề xã hội – lịch sử - văn hóa. Để nhận diện và tìm hiểu đối tượng này,
phương pháp loại hình giúp người nghiên cứu khảo sát, phân loại các dạng thức nhân
vật trong tiến trình Văn học thiếu nhi.
- Phương pháp so sánh: Chúng tôi sử dụng phương pháp này để liên hệ, tìm ra sự
tương đồng và khác biệt giữa các loại hình nhân vật, chỉ ra sự giống và khác nhau trong
cách thể hiện nhân vật ở các nhà văn cũng như ở một nhà văn trong từng thời kì khác
nhau. Nó cũng giúp xem xét sự thể hiện nhân vật trẻ em trong các giai đoạn văn học.
- Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại: Phạm vi khảo sát của
luận án là tiểu thuyết, truyện ngắn, tự truyện. Do đó, chúng tơi sử dụng phương pháp
này nhằm giúp cho sự phân tích bám sát vào những đặc trưng của thể loại tự sự đồng
thời quan tâm đến đặc điểm riêng của từng thể loại trong việc thể hiện nhân vật trẻ em.
- Phương pháp văn học sử: Bên cạnh việc nhìn nhận nhân vật trẻ em trên bình
diện chung của văn học, chúng tơi cũng nghiên cứu dựa trên những giai đoạn văn học
sử để thấy rõ những nét khác biệt trong cách xây dựng nhân vật trẻ em ở trong tiến
trình văn học.
4
- Phương pháp liên ngành: Các phương pháp tâm lí học trẻ em, tâm lí học sáng
tạo, nhân học văn hóa,… được dùng như những thao tác bổ trợ khi cần thiết.
5. Những đóng góp mới của luận án
Về mặt lí luận, hướng tiếp cận của đề tài góp phần cung cấp một bức tranh khái
quát và toàn diện về nhân vật trẻ em trong văn xi thiếu nhi Việt Nam, từ đó làm rõ
thêm những vấn đề lý luận chi phối mỗi giai đoạn văn học.
Ý nghĩa văn học sử của luận án là góp phần nghiên cứu, tổng kết diện mạo nhân vật
trẻ em trong tiến trình Văn học thiếu nhi nước nhà. Qua đó, đưa đến một cách tham chiếu về
sự vận động, những quy luật cơ bản trong nền văn học Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, từ việc xác lập hệ thống kiểu loại nhân vật trẻ em trong suốt
quá trình hình thành và phát triển của Văn học thiếu nhi Việt Nam đưa ra những mẫu
hình nhân vật thiếu nhi tiêu biểu tạo thành những hình tượng nhân vật gắn với thực tế
đời sống qua đó góp phần định hướng sự phát triển nhân cách của trẻ em trong thời kì
đổi mới.
Luận án cung cấp một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu và giảng
dạy văn học thiếu nhi Việt Nam trong các trường Cao đẳng, Đại học.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận án được triển khai
trong 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu Văn học thiếu nhi và nhân vật trẻ em
Chương 2. Nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam từ 1945 đến 1975
Chương 3. Nhân vật trẻ em trong truyện thiếu nhi Việt Nam từ sau 1975 đến nay
5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những vấn đề chung về Văn học thiếu nhi và nhân vật trẻ em
1.1.1. Về cách hiểu Văn học thiếu nhi
Các nhà nghiên cứu nước ngoài đã đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về
“Văn học thiếu nhi” (cách gọi khác là: “Văn học trẻ em” - Children’s literature, ở đây,
xin thống nhất gọi là Văn học thiếu nhi). Trong khuôn khổ những tư liệu có được,
chúng tơi nhận thấy, khi nhận diện Văn học thiếu nhi, các học giả quan tâm tới vấn đề:
đối tượng tiếp nhận, nội dung phản ánh, điểm nhìn trần thuật.
Từ góc độ tiếp nhận, nhiều nhà nghiên cứu đã định nghĩa Văn học thiếu nhi
thông qua độ tuổi của người đọc. Margaret R. Marshall viết: “Một số người cho rằng
Văn học thiếu nhi là nhịp cầu nối từ độ tuổi sơ sinh tới 18 tuổi. Tuy nhiên, như tôi biết,
không học sinh trung học hay phổ thông nào cho rằng mình là trẻ em. Vì vậy, tơi định
nghĩa văn học cho lứa tuổi 13 đến 18 tuổi là Văn học thanh niên (Young adult
literature) và văn học cho tuổi từ sơ sinh đến 13 tuổi là Văn học thiếu nhi. Các trường
tiểu học truyền thống nhận trẻ từ 6 tuổi và những đứa trẻ này tới 12 hoặc 13 tuổi sẽ
hoàn thành cấp tiểu học” [240;2-3]. Bà cũng cho rằng: “Rất dễ phân biệt một đứa trẻ
tiểu học và một học sinh trung học hay phổ thông, cũng dễ dàng phân biệt giữa độ tuổi
13 và 14 tuổi, bằng cách đơn giản là hỏi chúng. Nhưng rất khó để phân biệt giữa Văn
học cho thiếu nhi và Văn học cho thanh niên” [240;3]. Cuối cùng, người viết đi đến
kết luận: “Các định nghĩa và sự phân chia rất cực đoan và đôi khi trẻ em sẽ làm bạn
ngạc nhiên khi chúng vượt qua những ranh giới phân loại trong lựa chọn đọc sách”
[240;3]. Margaret đã định nghĩa về Văn học thiếu nhi bằng cách phân định độ tuổi của
độc giả. Tuy nhiên, bà cũng nhận thấy rằng, thực tế việc xác định một tác phẩm văn
học trẻ em viết cho đối tượng nào khơng đơn giản. Ví dụ tác phẩm Giết con chim nhại
của Harper Lee ban đầu không phải dành cho trẻ em, nhưng truyện lại được kể dưới
góc nhìn của một cơ bé tám tuổi, trong sáng, hồn nhiên và đầy cảm xúc. Mặc dù vậy,
cuốn sách cũng đề cập đến những vấn đề gai góc của cuộc sống như: nạn phân biệt
chủng tộc, những định kiến khắt khe, trọng nam khinh nữ,… Loạt tác phẩm Harry
6
Portter của J.K. Rowling, ban đầu hướng đến trẻ em nhưng nó đã gây ra tranh cãi về
việc ai sẽ yêu thích những cuốn sách này, đặc biệt khi cuốn sách nói về những vấn đề
có tính phổ qt với tất cả các loại độc giả.
Jan Susina, giáo sư về Văn học thiếu nhi và văn hóa của đại học Illinois State
(Mỹ) trên trang web: (Bách khoa thư) cho rằng: “Giống
như các khái niệm về thời thơ ấu, văn học thiếu nhi là một cấu trúc văn hóa và đang
trong q trình phát triển. Văn học thiếu nhi bao gồm những văn bản được viết riêng
cho trẻ em và những văn bản được trẻ em lựa chọn, ranh giới giữa văn học trẻ em và
văn học người lớn rất mong manh” [244]. Ông cũng chỉ ra các nhà xuất bản đã khiến
cho sự phân biệt sách dành cho trẻ em và người lớn trở nên khó khăn hơn bởi chính
việc ấn hành của họ. Ví như bộ truyện Harry Potter của J. K. Rowling ln có phiên
bản cho trẻ em và người lớn mà sự khác nhau chỉ là ở bìa sách. Hay như những truyện
kể dân gian, ban đầu không phải là để dành cho trẻ em nhưng chúng đã trở thành một
bộ phận của Văn học thiếu nhi. Bên cạnh đó, có những cuốn sách viết cho trẻ em ở thế
kỉ XVII, XVIII lại được đọc bởi phần lớn độc giả người lớn. Thực tế là, Văn học thiếu
nhi được viết, minh họa, xuất bản, tiếp thị và mua bởi chính người lớn để dành cho con
cháu nhằm giáo dục hay giải trí.
Cùng chung ý kiến với M.R. Marshall, trong cuốn Sách của trẻ em trong bàn
tay trẻ: Dẫn nhập về văn học của trẻ, Temple, Martinez, Yokota và Naylor nhận định:
“Văn học thiếu nhi là tập hợp những cuốn sách đọc cho trẻ em và được đọc bởi trẻ
em… từ sơ sinh tới 15 tuổi” [245;6], các tác giả cũng cho rằng: “rất khó để định nghĩa
một cuốn sách trẻ em” [245;5].
Chú trọng tới nội dung phản ánh trong sáng tác Văn học thiếu nhi, Norton, Norton
và McClure viết: “Khi mà thời thơ ấu trở thành một phần đặc biệt trong cuộc đời của một
con người thì văn học viết riêng cho trẻ trở thành rất quan trọng” [239;42].
Charlotte Huck, một trong những chuyên gia đầu tiên về Văn học thiếu nhi lại
coi trọng điểm nhìn trẻ thơ trong sáng tác, ông cho rằng: “Sách trẻ em là sách mà cái
nhìn trẻ thơ là cái nhìn chủ đạo” [238;5].
Maria Nikolajeva – giáo sư chuyên nghiên cứu về Văn học thiếu nhi của khoa
Văn – Đại học Stockholm, Thụy Điển và là giáo sư danh dự của khoa văn, Đại học
7
Abo Akademi của Phần Lan, một trong số những tác giả cuốn Bách khoa thư Oxford
về văn học thiếu nhi, đã chỉ ra tính đặc thù của Văn học thiếu nhi và cho thấy cần phải
nghiên cứu tính thẩm mĩ riêng của bộ phận văn học này để có thể hiểu được chức năng
và sức ảnh hưởng của nó đối với độc giả trong cuốn sách “Phương pháp tiếp cận mĩ
học cho văn học thiếu nhi: Dẫn nhập”. Bà nhận thấy, các nhà phê bình vẫn thảo luận
về những vấn đề như “Văn học thiếu nhi là gì?, “Trẻ em là gì?”,… mà hiếm khi đưa ra
được bất kì kết quả nào đáng chú ý. Và điều này là không cần thiết. Quan trọng là “ta
nên xem Văn học thiếu nhi như một trong nhiều thể loại của văn học nhưng vẫn nỗ lực
chỉ ra các tính chất đặc trưng của văn học thiếu nhi” [241;xii].
Ở Việt Nam, thuật ngữ “Văn học thiếu nhi” được nhắc tới trong Từ điển thuật
ngữ văn học, theo nghĩa hẹp, gồm: “Những tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa học
dành riêng cho thiếu nhi, cũng thường bao gồm một phạm vi rộng rãi những tác phẩm
văn học thông thường (cho người lớn) đã đi vào phạm vi đọc của thiếu nhi…” [53;353].
Định nghĩa này khá gần với cách hiểu của Jan Susina, đã nhắc đến ở trên.
Theo Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam: Văn học thiếu nhi là “những
tác phẩm văn học được mọi nhà sáng tạo ra với mục đích giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn,
tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm của nó là thiếu nhi và nhiều khi, cũng là
người lớn, hoặc là một cơn gió, một lồi vật, hay một đồ vật, một cái cây,… Tác giả
của văn học thiếu nhi khơng chỉ là chính các em, mà cũng là các nhà văn thuộc mọi
lứa tuổi” [202;6].
“những tác phẩm được thiếu nhi thích thú tìm đọc. Bởi vì các em đã tìm thấy ở
trong đó cách nghĩ, cách cảm cùng những hành động gần gũi với cách nghĩ các cảm và
cách hành động của chính các em, hơn thế, các em cịn tìm được ở trong đó một lời nhắc
nhở, một sự răn dạy, với những nguồn động viên, khích lệ, những sự dẫn dắt ý nhị, bổ
ích… trong q trình hồn thiện tính cách của mình” [202;6].
Quan niệm trên nhấn mạnh đến hai vấn đề: tính giáo dục của Văn học thiếu nhi
và sáng tác nào được cho là Văn học thiếu nhi. Theo đó, Văn học thiếu nhi phải hướng
tới mục đích giáo dục hay bồi dưỡng tâm hồn cho trẻ. Và sách dành cho trẻ em có thể là
những tác phẩm viết riêng cho trẻ hoặc là những tác phẩm mà trẻ em thích đọc. Ý này
cũng trùng với lí giải về Văn học thiếu nhi của một số nhà nghiên cứu trên thế giới.
8
Bùi Thanh Truyền trong cuốn chuyên luận “Thi pháp văn học thiếu nhi”, Bộ
giáo dục và đào tạo, dự án phát triển giáo viên tiểu học, Huế, 2007, cho rằng: “Văn
học thiếu nhi là những tác phẩm văn học mà nhân vật trung tâm là thiếu nhi hoặc được
nhìn bằng “đơi mắt trẻ thơ”, với tất cả những xúc cảm, tình cảm mãnh liệt, tinh tế,
ngây thơ, hồn nhiên, được các em thích thú, say mê và có nội dung hướng đến việc
giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, đặt nền móng cho sự hồn thiện tính cách của các em
thuộc những lứa tuổi khác nhau từ thuở ấu thơ đến suốt cuộc đời” [220;12]. Ở đây, tác
giả đã thống nhất hai khía cạnh của Văn học thiếu nhi: thẩm mĩ và giáo dục. Một sáng
tác Văn học thiếu nhi, theo ông, phải là sáng tác bằng cái nhìn trẻ thơ và phải hướng
tới việc giáo dục nhân cách trẻ.
Nhà văn Lê Phương Liên quan niệm: Văn học thiếu nhi là một "thể loại văn học
đặc thù” nhằm phục vụ một đối tượng văn học rộng lớn bao gồm: lứa tuổi mầm non
(dưới 6 tuổi), lứa tuổi nhi đồng (từ 6 đến 10 tuổi), lứa tuổi thiếu niên (từ 11 đến 13
tuổi), tuổi mới lớn (từ 13,14 tuổi đến 18, 19 tuổi).
Có thể nói, những nhà nghiên cứu (rất ít ỏi) về Văn học thiếu nhi Việt Nam cũng
bày tỏ băn khoăn trong việc xác định thế nào là tác phẩm dành cho trẻ em, hay tác phẩm
viết cho người lớn mà được trẻ em u thích có được coi là Văn học thiếu nhi khơng?
Tác phẩm có nhân vật trẻ em nhưng không phải là sáng tác dành cho trẻ có nằm trong
danh mục tác phẩm Văn học thiếu nhi không? Điều này xuất phát từ thực tế phức tạp
của người sáng tác, người đọc, nhà xuất bản, người mua,… Ví như Ma Văn Kháng viết
Cơi cút giữa cảnh đời không hẳn dành cho trẻ em nhưng tác phẩm lại được ra mắt độc
giả thông qua nhà xuất bản Kim Đồng và người tiếp nhận nó vừa là người lớn vừa là trẻ
em. Ở đây cũng xin lưu ý, trẻ em trong cách nhìn của luật pháp, của người lớn và của
chính trẻ em là khác nhau và trẻ em mỗi thời đại cũng không giống nhau. Nguyễn Ngọc
Thuần khi viết Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ có dụng ý hướng đến độc giả trẻ em
nhưng có vẻ như nó lại chiếm được cảm tình của những người lớn muốn làm trẻ em hơn
là của trẻ em. Vậy có thể coi Cơi cút giữa cảnh đời, Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ,… là
sáng tác thuộc Văn học thiếu nhi?
Sáng tác viết về thiếu nhi là tác phẩm mà nhà văn viết về tuổi thơ của chính
mình, tuổi thơ của mọi người và nhiều người, tuổi thơ đã phổ quát. Đó cũng có thể
là tác phẩm viết về trẻ em nhưng lại chiếm được cảm tình của người lớn. Ở đây
9
cũng cần phân biệt sáng tác viết về trẻ em với tác phẩm có nhân vật trẻ em trong
đó. Có thể có những tác phẩm có nhân vật trẻ em (Bài học quét nhà của Nam Cao)
nhưng lại không phải thuộc về Văn học thiếu nhi vì dẫu có sự xuất hiện của nhân
vật trẻ em nhưng sáng tác này không phải dành cho trẻ, không nhằm hướng đến đối
tượng độc giả trẻ em. Tuy nhiên, có những sáng tác có thể khơng có nhân vật trẻ em
như Robinson Crusoe của Daniel Defoe, Hai vạn dặm dưới đáy biển của Jules
Verne,… nhưng lại vẫn được trẻ em đón đọc. Những tác phẩm đó vẫn được coi là
Văn học trẻ em.
Tất nhiên, như các nhà nghiên cứu đã khái quát, ranh giới phân định giữa một
cuốn sách cho trẻ em và người lớn khơng hồn toàn tách biệt.
Vậy liệu có cần q rạch rịi trong việc tạo đường biên giữa Văn học thiếu nhi
và văn học người lớn không, khi mà biên giới đọc là vô tận? Chúng tôi đồng ý với
quan niệm M.Nikolajeva khi cho rằng việc thảo luận về vấn đề định nghĩa Văn học
thiếu nhi mà không cho thấy một đáp án nào xác đáng là không cần thiết. Tuy nhiên,
để xác định một phạm vi nhất định cho những khảo sát của luận án, chúng tơi vẫn nỗ
lực tìm câu trả lời cho câu hỏi thế nào là Văn học thiếu nhi, dù biết rằng, ở một chừng
mực nào đó nó chưa bao quát hết được mọi vấn đề và rất có thể cách hiểu này sẽ có
những điều chỉnh trong tương lai.
Văn học thiếu nhi là những tác phẩm viết về thiếu nhi và viết cho thiếu nhi
do người lớn hoặc trẻ em sáng tác, chủ yếu được nhìn qua lăng kính trẻ thơ, có nội
dung hướng đến giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách trẻ em ở mọi lứa tuổi
khác nhau.
Những sáng tác viết cho thiếu nhi bao gồm: 1. Những tác phẩm viết cho trẻ em
tuổi mầm non; 2. Những tác phẩm viết cho thiếu niên; 3. Những tác phẩm viết cho tuổi
mới lớn.
Trong luận án, chúng tôi hướng tới khảo sát nhân vật trẻ em trong những truyện
cho thiếu nhi và viết về thiếu nhi, được thể hiện bằng “cái nhìn trẻ thơ” và có tính giáo
dục trẻ em. Chúng tơi nhận thấy, những truyện viết cho tuổi mầm non, phần lớn là
truyện loài vật, cốt truyện đơn giản, nhân vật chủ yếu là con vật, vì vậy chúng tơi
khơng đưa vào diện khảo sát của luận án.
10
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của Văn học thiếu nhi
Từ cách hiểu Văn học thiếu nhi như trên, chúng tôi đưa ra một số đặc trưng của
bộ phận văn học này trong thế đối sánh với văn học người lớn như sau:
Thứ nhất, mục đích cơ bản của Văn học thiếu nhi là giáo dục. Tất nhiên trong
văn học nói chung, giáo dục là một trong những thuộc tính quan trọng. Song nếu như
văn học người lớn, đặc tính này thuộc về bản chất của hình tượng văn học, là thuộc
tính tự nhiên vốn có của sáng tạo nghệ thuật thì ở Văn học thiếu nhi, giáo dục được coi
là nhiệm vụ then chốt của người viết, là một trong những mục đích chính của tác
phẩm. Sáng tác Văn học thiếu nhi phải chứa đựng ý nghĩa giáo dục nào đó nhằm
hướng tới sự phát triển nhân cách trẻ em. Tất nhiên, bài học giáo dục không thể khô
cứng, giáo điều, sống sượng như một lời dăn dạy. Bài học ấy phải được chuyển tải một
cách nghệ thuật khiến trẻ em thích thú, say mê và hưởng ứng tự nguyện.
Thứ hai, đối tượng phản ánh và tiếp nhận chủ yếu của Văn học thiếu nhi là trẻ
em, với tính cách, tâm lí, xúc cảm tình cảm, nhãn quan khác biệt so với người lớn. Điều
này, chi phối đến nội dung cũng như các phương thức nghệ thuật trong sáng tác. Vì viết
về trẻ em, viết cho trẻ em nên nội dung tác phẩm thiếu nhi thường trong trẻo, tươi sáng,
phù hợp với đặc điểm tư duy, thẩm mĩ của trẻ. Nó giải thích tại sao trong thời hiện đại,
khi văn học người lớn chuyển hướng khai thác những vấn đề về sự phi lí, hiện sinh,…
thì Văn học thiếu nhi vẫn gợi mở về một thế giới rộn ràng, tươi ngun, thuần khiết.
Mặc dù, trong đó khơng phải khơng có những xung đột, phức tạp bởi trẻ em cũng là một
phần của đời sống hiện đại song nó ln được khai thác, xử lí phù hợp với trẻ thơ. Phản
ánh đời sống bằng cái nhìn trẻ thơ nên Văn học thiếu nhi cũng lựa chọn những phương
thức nghệ thuật tương thích với đối tượng độc giả đặc thù của nó. Trong lúc văn học
người lớn đã tìm đến những thủ pháp như siêu hư cấu, phân mảnh, lắp ghép, giễu
nhại,…Văn học thiếu nhi vẫn “thủy chung” với lối viết truyền thống, với phương thức
đặc thù: bút pháp kì ảo, cốt truyện phiêu lưu, nhân vật hành động,…
Thứ ba, mối quan hệ giữa tác giả và độc giả trong Văn học thiếu nhi là quan hệ
“không cân xứng”. Tác giả, chủ yếu là người lớn đã hầu như khơng thể nhìn cuộc sống
như trẻ thơ; độc giả, phần lớn là trẻ em với những đặc điểm tâm sinh lí riêng biệt mà
người lớn, dù đã từng là trẻ nhỏ, khơng thể có (lại) được. Bởi vậy, người viết muốn tác
11
phẩm đến gần với trẻ thơ, được trẻ em đón nhận, buộc phải hóa thân vào thế giới của trẻ
em, mang con mắt và quan năng của trẻ em. Nhưng trên thực tế, khơng ít người rơi vào
cảnh “cưa sừng làm nghé”. Quan năng trẻ thơ là một ân sủng của tạo hóa, một đi không
trở lại. Trường hợp thành công thường ở những nhà văn đã vượt qua được ranh giới của
người trưởng thành để bước sang địa hạt trẻ thơ nhưng dù vậy, những sáng tác đó cũng
chỉ là các bán thành phẩm. Viết cho trẻ thơ thực ra là xuất phát từ trải nghiệm của một
người lớn sâu sắc, từng trải và từ chính trong những suy nghiệm ấy, nhà văn mới thấy
được cái trong trẻo, đẹp đẽ của tuổi thơ. Đó là một tuổi thơ đã được trục vớt, được phát
hiện lại qua lăng kính của một người trưởng thành. Cho nên, dẫu soi rọi được thế giới trẻ
thơ, tác phẩm thiếu nhi vẫn tồn tại một tiếng nói người lớn. Sự hiện diện này cũng là lẽ
tất yếu khi Văn học thiếu nhi vẫn phải thực hiện chức phận chính của nó: giáo dục.
Thứ tư, Văn học thiếu nhi vẫn là một bộ phận không tách rời của văn học, dù nó
là một hiện tượng xuất hiện sau trong lịch sử văn chương nhân loại. Vì vậy, bên cạnh
những đặc điểm riêng, nó vẫn chịu sự chi phối của tư tưởng, tư duy nghệ thuật ở từng
thời đại văn học. Bên cạnh đó, Văn học thiếu nhi cũng khúc xạ những ảnh hưởng của
nó tới bộ phận văn học người lớn.
Trong luận án, chúng tơi sẽ nhìn nhận Văn học thiếu nhi Việt Nam mà cụ thể
hơn là Truyện thiếu nhi dựa trên những đặc trưng trên. Tất nhiên, ở mỗi chặng đường
phát triển, do nhu cầu lịch sử, có những đặc điểm trở nên nổi trội hoặc những nội dung
không được coi trọng.
1.1.3. Sự hình thành và vận động của truyện thiếu nhi Việt Nam
Trong xã hội phong kiến, trẻ em không phải là đối tượng được văn học lưu tâm.
Giai cấp phong kiến chỉ truyền bá cho các em một số sách giáo khoa như Tam tự kinh,
Minh tâm bảo giám,... để giáo dục các em trở thành những trẻ ngoan ngoãn, tuân theo
đạo đức phong kiến. Họ tổ chức gia đình theo trật tự, tôn ti, luôn đảm bảo cho cha có
quyền hơn con, chồng có quyền hơn vợ, anh có quyền hơn em, con trai có quyền hơn
con gái. Vai trị gia đình được đề cao nhưng theo hướng nghiệt ngã với phụ nữ và khắt
khe với tuổi trẻ. Vì thế, dưới chế độ phong kiến, ngoài văn học dân gian, chỉ có một số
cuốn sách viết cho thiếu nhi dạng giáo khoa dạy trẻ như: Tam tự kinh, Minh tâm bảo
giám, Minh đạo gia huấn,…
12
Khi một số luồng tư tưởng mới từ phương Tây lan tới Việt Nam, văn học đã có
chuyển dịch trong cách tiếp cận cuộc sống. Nếu trước đây, trẻ em là đối tượng hầu như
không được nhắc tới trong văn học, thì nay, các nhà văn dần hướng ngịi bút tới trẻ
thơ. Ngồi việc phỏng dịch, người viết cũng có ý thức sáng tác cho các em. Nhóm Tự
lực văn đồn cho xuất bản loại Sách hồng, tập hợp một số sáng tác về đề tài trinh
thám, phiêu lưu, cổ tích, thần thoại và sinh hoạt đời thường của trẻ em. Bên cạnh đó,
những nhà văn hiện thực như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Ngun
Hồng, Tơ Hồi,… cũng đề cập đến số phận của những đứa bé bất hạnh. Tuy nhiên,
những sáng tác này chưa đủ hình thành một trào lưu viết cho các em.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, bộ phận Văn học thiếu nhi trong Hội văn
nghệ được thành lập. Tờ báo của trẻ em ra đời với lời căn dặn của Bác: “Báo trẻ em ra
đời – Báo đó là báo của trẻ em, vậy các trẻ em nên giúp cho báo, gửi tin tức tranh vẽ
và viết bài cho báo. Nên đọc cho các em chưa biết chữ nghe, nên làm cho báo phát
triển” [200;19]. Các sáng tác dành cho các em như Hoa Sơn (Tơ Hồi), Chú Giao làng
Seo (Nguyễn Tuân), Chiến sĩ ca nô (Nguyễn Huy Tưởng), Dưới chân cầu mây
(Nguyên Hồng),… đã chính thức đánh dấu sự ra đời dòng văn học dành riêng cho trẻ
em – Văn học thiếu nhi.
Hịa bình lập lại ở miền Bắc, đội ngũ viết cho thiếu nhi càng phát triển mạnh.
Bên cạnh những tác giả quen thuộc: Nguyễn Huy Tưởng, Tơ Hồi, Phạm Hổ, Hà Ân,
Đoàn Giỏi, Võ Quảng, Phong Thu,… đã có một lớp người mới đến với sự nghiệp sáng
tác cho các em như Xuân Quỳnh, Trần Thanh Địch, Hoàng Anh Đường, Văn Trọng,
Bắc Thơn, Lê Phương Liên, Trần Hồi Dương,…
Điều đáng chú ý là đội ngũ viết cho thiếu nhi đã bước đầu có hiện tượng chun
mơn hóa. Ở mỗi lứa tuổi hoặc mỗi đề tài đều có những cây bút tiêu biểu.
Tham luận của Tiểu ban văn nghệ thiếu nhi trong Đại hội văn nghệ lần thứ 3 đã
nêu rõ quyết tâm của văn nghệ sĩ trong việc sáng tác và biểu diễn, và nhường cả một phần
hưởng thụ của người lớn cho trẻ em. Từ ý thức quan tâm đó, sau 30 năm Cách mạng,
chúng ta đã có một nền Văn học thiếu nhi, trong đó, truyện chiếm số lượng nhiều nhất và
có vai trị quan trọng nhất.
13
Sau năm 1975, Văn học thiếu nhi bắt đầu có những tìm tịi, đổi mới trong cách
tiếp cận trẻ em, đặc biệt là sự mở rộng các bình diện trong cách lý giải, thể hiện con
người ở thể loại truyện. Bên cạnh đề tài cũ như lịch sử, chiến tranh, truyện thiếu nhi đi
sâu thể hiện trẻ em trong các mối quan hệ với gia đình, với bạn bè, trong những xúc cảm
tinh tế, vi diệu của tuổi nhỏ. Có thể kể đến các sáng tác như: Cơn giơng tuổi thơ – Thu
Bồn, Hồi đó ở Sa Kỳ - Bùi Minh Quốc, Hành trình ngày thơ ấu – Dương Thu Hương,
Chú bé có tài mở khóa – Nguyễn Quang Thân,…Tuy nhiên, những sáng tác ở thời kì
đầu mới chỉ dừng lại ở mức độ thăm dị, chưa có nhiều đột phá.
Từ đại hội Đảng VI (1986), văn học được “cởi trói” và có nhiều sáng tạo mang
tính đột phá. Khơng nằm ngồi quy luật vận động đó, Văn học thiếu nhi cũng chuyển
mình theo nhịp cách tân của thời đại. Năm 1986,1987 có thể coi là năm được mùa của
truyện viết cho thiếu nhi với hàng loạt các tác phẩm như Tuổi thơ dữ dội – Phùng
Quán, Sùng rượu thề - Nghiêm Đa Văn, Người đi săn và con sói lửa – Nguyễn Quỳnh,
Người đi vào hang sói - Trần Thiên Hương,… Tuy nhiên, có thời điểm như năm 1988,
sách viết cho thiếu nhi rơi vào tình trạng khủng hoảng. Trong năm 1988, nhà xuất bản
Kim Đồng chỉ xuất bản chưa quá 50 đầu sách.
Từ đầu những năm 90 của thế kỉ XX, đội ngũ sáng tác cho các em được bổ sung
thêm nhiều cây bút như Lê Cảnh Nhạc, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Trí Cơng, Hồng
Dạ Thi, Nguyễn Thị Châu Giang,… Những sáng tác cho thiếu nhi thời kì này cũng bắt
đầu tiếp cận đời sống của trẻ thơ ở khía cạnh gần gũi hơn, thân thuộc hơn. Ngồi ra,
cịn xuất hiện một số tác giả - trẻ em viết truyện, nổi bật nhất là trường hợp Nguyễn
Bình, mười tuổi, sáng tác truyện giả tưởng Cuộc chiến với hành tinh Fantom. Đầu thế
kỉ XXI, chúng ta còn chứng kiến sự xuất hiện của dòng Văn học teen, dành cho độc
giả tuổi mới lớn. Tuy nhiên, các tác phẩm thuộc loại này vẫn chưa thực sự gặt hái
được nhiều thành công.
Hiện nay, trong truyện thiếu nhi Việt Nam, ngoài Nguyễn Nhật Ánh vẫn ghi dấu
đều đặn, dường như, khơng cịn cây bút nào đủ sức hấp dẫn trẻ em. Sự chững lại này có
thể là minh chứng cho những nỗ lực bất thành của nhà văn trong việc chiếm lĩnh thế giới
tuổi thơ, cũng có thể là khoảng lặng ngầm chuẩn bị cho một sự chuyển mình của bộ
phận văn học này. Câu trả lời, vẫn đang ở phía trước. Dù vậy, có thể nói, từ ngày đầu
14
hình thành cho đến nay, truyện thiếu nhi Việt Nam đã ghi dấu được những thành tựu
đáng kể, khẳng định vị thế của mình trong nền văn học dân tộc. Quá trình phát triển của
nó, có thể có những lúc thăng trầm nhưng có một điều chắc rằng khi nào cịn có trẻ em
trên đời, khi đó vẫn cần có những sáng tạo nghệ thuật ngôn từ dành cho trẻ.
1.1.4. Về khái niệm “Trẻ em”
Nhìn từ góc độ pháp lí, trong luật pháp quốc tế, độ tuổi trẻ em, được sử dụng
tương đối thống nhất là dưới 18. Tuy nhiên, trong các Công ước quốc tế như Tuyên
bố của Hội quốc liên về quyền trẻ em (năm 1924), Tuyên bố của Liên hợp quốc về
quyền trẻ em (năm 1959), Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm 1968), Công
ước 138 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối thiểu làm việc (năm 1976),
Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (năm 1989),… đã khẳng định việc áp
dụng độ tuổi trẻ em của mỗi quốc gia có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào nội luật của
mỗi nước quy định độ tuổi thành niên sớm hơn. Song, các tổ chức của Liên hợp quốc
và quốc tế như UNICEF, UNFPA, ILO, UNESSCO,… đều xác định trẻ em là người
dưới 18 tuổi.
Ở Việt Nam, pháp luật quy định về độ tuổi của trẻ em chính thức được đề cập
trong một văn bản pháp quy sau khi Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh về
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày 14 tháng 11 năm 1979, trong đó quy định
“Trẻ em nói trong Pháp lệnh này gồm các em từ mới sinh đến 15 tuổi” (Điều 1). Đến
năm 1991, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được ban hành đã nâng độ tuổi trẻ
em lên đến dưới 16 tuổi (Điều 1) “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam
dưới mười sáu tuổi”. Độ tuổi này tiếp tục được khẳng định tại Điều 1 của Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em ban hành năm 2004. Như vậy trong pháp luật chuyên
ngành, Việt Nam thừa nhận độ tuổi trẻ em được pháp luật bảo vệ và chăm sóc là những
cơng dân dưới 16 tuổi. Trẻ từ 10 đến 18 tuổi được coi là “vị thành niên”. Mặc dù quy
định độ tuổi thấp hơn so với Công ước quốc tế, nhưng quy định của Việt Nam vẫn được
coi là phù hợp bởi quy định mở của Công ước.
Từ góc độ sinh lí, trẻ em là giai đoạn đầu tiên trong quá trình phát triển của cơ
thể con người. Ở giai đoạn này, sự phát triển của trẻ được phân ra thành các giai đoạn
nhỏ hơn và ở mỗi giai đoạn, cơ thể trẻ có những đặc điểm sinh lí khác nhau.
15
Trẻ em có những đặc điểm tâm lí đặc thù. Song hành cùng sự phát triển cơ thể,
tâm lí của trẻ cũng có sự thay đổi qua từng giai đoạn.
Từ 0 đến 10 tuổi, tư duy của trẻ cịn bị tình cảm chi phối rất mạnh, thể hiện ở
chỗ trẻ chỉ suy nghĩ về những điều chúng thích và dịng suy nghĩ thường bị cuốn hút
vào ý thích bất chấp tính thực tế khách quan. Vì thế, đối với trẻ thơ, mọi vật đều có
hồn, có tính tình, có ý thích của nó. Cho nên, các em rất dễ tin vào phép màu, những
điều kì diệu và coi sự tồn tại của chúng là hiển nhiên trong đời sống. Nói cách khác,
trẻ em nhận thức thế giới bằng con mắt độc đáo, con mắt của tuổi thơ: “Thơng thường
người lớn khơng am hiểu trẻ em, bởi vì thế giới hiện ra với chúng dưới một dạng vẻ
khác. Điều mà người lớn tìm thấy ở mọi vật xung quanh là tính thực tiễn, hữu ích của
nó. Trẻ em chỉ hiểu rằng mọi vật tồn tại, vậy thì chúng sống và chúng được coi như
những vật thể sống động” [150;138].
Tưởng tượng là hoạt động thường xuyên trong tư duy trẻ thơ. Sự làm việc
khơng mệt mỏi của trí tưởng tượng là một trong những con đường đưa trẻ khám phá
thế giới xung quanh khi mà kinh nghiệm cá nhân cịn ít ỏi. Những gì trẻ chưa biết sẽ
được chúng bổ sung bằng trí tưởng tượng. Chẳng hạn, trẻ giải thích nguyên nhân
khơng thấy mặt trời là vì ơng mặt trời ngủ qn. Trời mưa là do ơng trời khóc,…Với
trí tưởng tượng, trong lúc chơi, trẻ không những làm được mọi việc mà cịn có thể có
bất cứ thứ gì mình muốn. Ví dụ muốn có ngựa chúng có thể dùng gậy kẹp giữa hai
chân, muốn thành hoàng tử chỉ cần choàng lên người cái chăn nhỏ, muốn làm cô dâu
chỉ cần hái nhiều hoa, kết vịng đội lên đầu,… Trí tưởng tượng vừa ngây thơ vừa phi lí
này khơng chỉ đem lại cho tuổi thơ niềm tin mà còn rất cần cho người lớn đặc biệt là
các nhà khoa học và nghệ sĩ.
Do chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ nên trẻ em ở giai đoạn thiếu nhi
dễ bị tổn thương, dễ thay đổi, dễ thích nghi, dễ uốn nắn, dễ tự ái, tự ti, hiếu thắng,
thiếu kiên nhẫn; có xu hướng muốn tự khẳng định, muốn được tơn trọng.
Trẻ em ở lứa tuổi thiếu niên khác với tuổi nhi đồng khá rõ. Ở lứa tuổi thiếu
niên, tầm nhìn rộng hơn, tiếp xúc với môi trường xã hội lớn hơn, bắt đầu hình thành tư
duy lý tính. Cho nên những đứa trẻ 13, 14 tuổi, mặc dù chưa dứt bỏ hẳn cái nhìn, xúc
16
cảm tuổi ấu thơ nhưng đã có những biến chuyển trong đời sống tâm hồn. Chính những
biến đổi đó dễ nảy sinh những đứt gãy về tâm lý.
Từ 16 đến 18 tuổi là giai đoạn tâm lí phức tạp nhất. Đây là thời kì dễ có những
khủng khoảng về tâm lí đi kèm với những thay đổi mạnh mẽ về sinh lí. Lứa tuổi này
đã bắt đầu xuất hiện tình cảm khác giới, có nguyện vọng được bạn khác giới quan tâm
u thích. Tình cảm của các em đã có độ sâu sắc, phong phú, phức tạp hơn trước
nhưng vẫn mang tính bồng bột, dễ bị kích động.
Ở khía cạnh văn hóa, mỗi đứa trẻ là con đẻ của một nền văn hóa nhất định. Trẻ
em lớn lên, bị xã hội hóa trong những mơi trường văn hóa xã hội cụ thể. Vì thế mỗi
mơi trường văn hóa, có trẻ em mang tính cách riêng.
Tóm lại, trẻ em khơng phải là một người lớn thu nhỏ. Trẻ em có những đặc
điểm tâm sinh lí riêng và cũng là một phạm trù xã hội lịch sử cụ thể, một phạm trù văn
hóa phức hợp.
1.1.5. Nhân vật trẻ em
1.1.5.1. Về định nghĩa nhân vật trẻ em
Nhân vật là phương tiện để phản ánh đời sống, khái quát những quy luật của
cuộc sống và của con người, thể hiện những hiểu biết, ước mơ, kì vọng về đời sống.
Được miêu tả qua biến cố, xung đột, mâu thuẫn, nhân vật gắn liền với cốt truyện và
kết cấu tác phẩm. Vì thế, khác với hình tượng hội họa và điêu khắc, nhân vật văn học
là một chỉnh thể vận động, có tính cách được bộc lộ dần trong khơng gian, thời gian,
mang tính chất q trình. Chức năng cơ bản của nhân vật văn học là khái quát tính
cách của con người. Do tính cách là một hiện tượng xã hội, lịch sử, nên chức năng
khái quát tính cách của nhân vật văn học cũng mang tính lịch sử. Vì tính cách là kết
tinh của môi trường, nên nhân vật văn học là người dẫn dắt độc giả vào các môi trường
khác nhau của đời sống.
Trong truyện thiếu nhi, có các kiểu nhân vật như nhân vật trẻ em, nhân vật
người lớn (bố mẹ, bố dượng, mẹ kế, ông bà, anh chị em, thầy cô giáo,…), nhân vật
tưởng tượng (phù thủy, ma, rồng, sinh vật siêu nhiên,…), nhân vật lồi vật. Trong số
đó, nhân vật chính phần lớn là trẻ em hoặc loài vật (hiếm khi là đồ vật vô tri, vô giác)
đại diện cho trẻ em.