Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Trung quán luận khóa 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.45 KB, 15 trang )

ĐĐ. TS. Thích Trí Minh

Bài 1: Giới thiệu

Trung luận 中論 hoặc Trung quán luận 中觀論, Trung luận tụng 中論頌, gọi đầy đủ theo
tên Phạn văn (mūlamadhyamakakārikā) là Căn bản trung luận tụng 根本中論頌, là một
tác phẩm tối quan trọng của Long Thọ, người khai sáng tông phái Trung quán
(mādhyamika) tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ II sau Công nguyên.

I. Tên gọi:

Dựa trên bản tiếng Phạn hiện còn tồn tại, tên tiếng Phạn của Trung luận là Mūla-
madhyamaka-kārikā, do 3 cụm từ tổ hợp thành. Mūla nghĩa là “căn bản”; madhyamaka
xuất phát bởi tính từ madhya (trung, trung gian), cộng thêm đuôi ma (tối cao, chí
thượng), hình thành nên nghĩa “tối trung” hoặc “chí trung”; kārikā nghĩa là “tụng kệ”,
“luận tụng”. Do đó Mūlamadhyamakakārikā có thể được dịch là “Căn bản trung luận
tụng”. Theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, sở dĩ Trung luận được gọi là “Căn bản
trung luận tụng” vì tất cả những trước tác của Long Thọ sau này như Thập nhị môn luận
(dvādaśanikāya-śāstra), Vô uý chú (mūlamādhyamikavṛtti-akutobhayā), v.v… đều dựa
trên những lý thuyết căn bản của Trung luận mà triển khai. Nội dung Trung luận là làm
sáng tỏ pháp Quán trung đạo cho nên còn gọi là Trung quán luận. Trung có nghĩa là rời
khỏi sự điên đảo hí luận khỏi hai cực đoan là khơng (vơ) và có (hữu). Pháp Qn trung
đạo này lấy trí tuệ tánh khơng làm thể, lấy sự quán chiếu nhân duyên, trung đạo, bất nhị,
xa lìa vọng chấp hữu-vơ làm dụng. Nguồn gốc phép quán này chính là khái niệm Chánh
kiến mang nghĩa trung đạo xa lìa chấp có, chấp khơng mà Đức Phật đã thuyết trong Tạp
A Hàm, kinh số 301 Tán-đà Ca-chiên-diên (Kaccayanagotta). Chánh tức là trung, còn
kiến tức là quán, chánh kiến tức là trung quán.

Các bản Hán dịch cũng có nhiều tên khác nhau. Trong giai đoạn đầu, vào năm
409, Cưu-ma-la-thập dịch vắn tắt là Trung luận (CBETA, T30n1564, 中 论 , 4 quyển,
Long Thọ Bồ Tát tạo, Phạm Chí Thanh Mục thích). Sau này ngài Cát Tạng 吉藏 (549-


623), một cao tăng của Tam luận tông, đổi lại là Trung quán luận, cũng có khi ngài gọi là
Chánh quán luận trong tác phẩm nổi tiếng của ngài là Tam luận huyền nghĩa. 三論玄義
(T45n1852).

Bản Hán dịch của Pháp sư Cưu-ma-la-thập gồm có phần kệ dịch của ngài và lời
bình ngắn gọn, cụ thể, bình dị bằng văn xuôi của Luật sư Thanh Mục (Vimalaksa), là vị
thầy Bà-la-môn trước kia của Pháp sư Cưu-ma-la-thập, và được Tăng Duệ, một trong
những đệ tử chính của Pháp sư, chịu trách nhiệm xuất bản đầu tiên như trong Lời Tựa
của ông cho biết.

Ấn Thuận pháp sư căn cứ vào truyền thống Phật giáo Tây Tạng phân các trước tác
của Long Thọ thành hai loại. Một là “quyết trạch thậm thâm nghĩa”, lấy phương thức lí
luận thâm nhập chư pháp thật tướng, bao gồm Trung luận, Thất thập khơng tính luận,
Lục thập như lí luận, Hồi tránh luận, v.v… Hai là “phân biệt bồ tát quảng đại hành”, bao

gồm Đại trí độ luận, Thập trụ bì bà sa luận, Bồ đề tư lương luận, Bảo hành vương chánh
luận, Khuyến giới vương tụng, v.v… Do đó, Trung luận chính là một trước tác thuộc
loại quyết trạch thậm thâm nghĩa.

II. Mục đích tạo luận

Tám câu kệ đầu của Trung luận, Long Thọ bồ tát đã cơng khai rõ ràng mục đích
của ngài là “thiện diệt chư hý luận”: Bất sanh diệc bất diệt, bất thường diệc bất đoạn,
bất nhất diệc bất dị, bất lai diệc bất xuất. Năng thuyết thị nhân duyên, thiện diệt chư hí
luận, ngã kê thủ lễ Phật, chư thuyết trung đệ nhất. Trong phần lời bình, ngài Thanh Mục
giải thích rộng hơn như sau:

Hỏi: Tại sao tạo luận này?

Đáp: Có người nói tất cả mọi vật do trời Đại Tự Tại sinh ra. Có người nói do thần

Vi Nữu (Vishnu) sinh ra, có người bảo do hồ hợp sinh ra, có người bảo do thời gian
sinh ra, có người nói do bản tánh của thế giới sinh ra, có người nói do “biến hóa” sinh ra,
có người nói do tự nhiên sanh ra và có người nói do cực vi sanh ra. Do những chủ trương
sai lầm đó, họ rơi vào những cái thấy sai như vạn vật khơng có nhân dun hoặc nhân
dun sai lầm, là thường hay đoạn, v.v… Bằng những cách khác nhau, họ giải thích “tơi”
và “cái của tơi” mà chẳng biết chánh pháp. Đức Phật, muốn dẹp hết những cái thấy sai
như vậy, ban đầu dạy mười hai nhân duyên trong pháp Thanh văn; nhưng vì lợi ích của
những người đã tự ứng dụng, những người có đại tâm và những người có khả năng thọ
nhận Pháp sâu xa, Phật xiển dương các tướng của nhân duyên trong Pháp Đại thừa, tức là
tất cả các pháp chẳng sinh cũng chẳng diệt, chẳng đồng cũng chẳng khác...; hồn tồn là
khơng, chẳng gì có cả. Trong Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa nói, “Phật bảo Tu-bồ-đề: ‘Khi
Bồ-tát ngồi yên nơi đạo tràng thì thấy mười hai nhân duyên như hư không vô tận.’ Sau
khi Phật diệt độ, trong năm trăm năm thứ hai là thời kỳ tượng pháp, căn cơ con người trở
nên chậm lụt, họ bị vướng mắc vào tất cả các pháp, tìm kiếm các định tướng nơi mười
hai nhân duyên, năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, vân vân. Họ chẳng biết ý Phật,
chỉ vướng mắc vào chữ và lời. Nghe trong Pháp Đại thừa dạy tánh không, họ không biết
lý do các pháp khơng, vì thế suy nghĩ, nghi ngờ và thấy, ví dụ như, “Nếu tất cả các pháp
hồn tồn là khơng thì làm sao phân biệt được tội và phước, nghiệp báo vân vân? Nếu
thế thì chẳng có tục đế, chẳng có đệ nhất nghĩa đế.” Họ chấp giữ tướng “không” và sinh
ra ràng buộc, tham lam, gây nên đủ thứ lỗi lầm vì khơng. Vì chính những lý do đó mà
Bồ-tát Long Thọ viết ra Trung luận.

Như vậy, mục đích Long Thọ tạo Trung luận nhằm phá tà kiến thường-đoạn, hữu-
vô, v.v…. của Phật giáo bộ phái và ngoại đạo đang thịnh hành vào thời của ngài; đồng
thời hộ trì Phật pháp, xiển dương chánh kiến về bất nhị, trung đạo, nhân duyên và tánh
không của các pháp.

III. Nội dung

Trung luận được kiết tập trong Đại Chính tân tu Đại tạng kinh, tập 30, kinh số

1564 (T30n1564), được Cưu-ma-la-thập dịch sang Hán vào năm 409 từ nguyên văn tiếng
Phạn do Bồ tát Long Thọ trước tác, lời tựa viết cho Trung luận của Thích Tăng Duệ, và

phần sớ giải của Phạm Chí Thanh Mục. Nội dung gồm 27 chương (phẩm), 446 bài tụng,
mỗi bài có 4 câu năm chữ.

1. Quán nhân duyên (pratyayaparīkṣā) 15. Quán hữu vô (svabhāvaparīkṣā)
2. Quán khứ lai (gatāgataparīkṣā) 16. Quán phọc giải
3. Quán lục tình (bandhanamokṣaparīkṣā)
(cakṣurādīndriyaparīkṣā) 17. Quán nghiệp (karmaphalaparīkṣā)
4. Quán ngũ ấm (skandhaparīkṣā) 18. Quán pháp (ātmaparīkṣā)
5. Quán lục chủng (dhātuparīkṣā) 19. Quán thời (kālaparīkṣā)
6. Quán nhiễm nhiễm (rāgaraktaparīkṣā) 20. Quán nhân quả (sāmagrīparīkṣā)
7. Quán tam tướng (saṃskṛtaparīkṣā) 21. Quán thành hoại
8. Quán tác tác giả (karmakārakaparīkṣā) (saṃbhavavibhavaparīkṣā)
9. Quán bản trú (pūrvaparīkṣā) 22. Quán Như Lai (tathāgataparīkṣā)
10. Quán nhiên khả nhiên 23. Quán điên đảo (viparyāsaparīkṣā)
(agnīndhanaparīkṣā) 24. Quán tứ đế (āryasatyaparīkṣā)
11. Quán bản tế (pūrvaparakoṭiparīkṣā) 25. Quán niết-bàn (nirvāṇaparīkṣā)
12. Quán khổ (duḥkhaparīkṣā) 26. Quán thập nhị nhân duyên
13. Quán hành (saṃskāraparīkṣā) (dvādaśāṅgaparīkṣā)
14. Quán hợp (saṃsargaparīkṣā) 27. Quán tà kiến ( dṛṣṭiparīkṣā)

IV. Hán tạng chú sớ
1. Hán dịch chỉ có một bản của Cưu-ma-la-thập dịch (Trung Luận 中論), 4 quyển, 27
phẩm, in chung với phần chú giải của Thanh Mục
2. Long thọ tự thích (Vơ úy luận 無畏論 Akutobhaya). Chỉ còn bản Tạng Văn. Đây là
phần chú giải Trung Luận của chính Long Thọ gồm 100 ngàn kệ.
3.Vơ Trước thích (Thuận trung luận 順中論) 2 quyển
4. An Tuệ thích (Đại thừa trung quán thích luận 大乘中觀釋論) 18 quyển

5. Phật Hộ thích (Căn bổn trung luận chú 根本中論註)
6. Thanh Biện thích (Bát nhã đăng luận 般若燈論) 15 quyển
7. Nguyệt Xứng thích (Tịnh minh cú luận 淨明句論) (prasannapada)

Một Số Tác Phẩm của Bồ-tát Long Thọ

1. Trung Luận hay Trung Quán Luận (Mùla-madhyamaka-karikà).
2. Hồi Tranh Luận (Vigrahavvartani).
3. Đại Trí Độ Luận cịn gọi là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa Kinh Thích
Luận (Mahaprajnaparamata-upadesa-sastra).
4. Đại Thừa Phá Hữu Luận (Bhavasamkranti).
5. Thập Nhị Môn Luận (Dvàdasanikàva).
6. Hạnh Vương Chánh Luận (Ràjaparikatha-ratnamàla).
7. Bất Khả Tư Nghì Tụng (Acyntyastava).
8. Bồ-đề Tư Lương Luận (Bodhisambhrahaka).
9. Đại Thừa Nhị Thập Tụng Luận (Mahayananavimsakà).
10. Lục Thập Như Ý Luận (Yukisastikà-karikà).
11. Nhân Duyên Tâm Luận Tụng (Pratìtyamutpàdahrdaya-kàrikà)
12. Thất Thập Tánh Khơng Luận (Sunyatàsaptati).
13. Tồi Phá Luận hay Quảng Phá Luận (Vaidalyaprakarana)
14. Xuất Thế Gian Tụng (Lokàtitastava).

Câu hỏi trắc nghiệm bài 1 (Giới thiệu)

Câu 1. tên gọi nào sau đây không phải E. Cưu-ma-la-thập
là tựa đề của Trung luận.
A. Trung quán Câu 4. chọn câu sai. Chữ “Trung”
B. Căn bản trung luận tụng trong Trung luận có nghĩa là:
C. Trung luận tụng A. trung đạo quán
D. Trung bộ B. xa lìa hai cực đoan khổ hạnh ép xác

E. Mūlamadhyamakakārikā và tham đắm dục lạc
C. xa lìa chấp có, chấp không
Câu 2. vị tổ đầu tiên đổi tên Trung D. tánh không
luận thành Trung quán luận là: E. lý nhân duyên
A. Cưu-ma-la-thập (344-413)
B. Cát Tạng (549-623) Câu 5. chọn câu sai. Trung luận là bộ
C. An Tuệ (Sthiramati, 470-550) luận:
D. Phạm Chí Thanh Mục A. quyết trạch nghĩa lý thậm thâm
E. Vô Trước B. lấy phương thức lí luận thâm nhập
chư pháp thật tướng
Câu 3. Trung luận do ai sáng tác? C. nói về pháp hành rộng lớn của bồ tát
A. Đức Phật D. Phá tà kiến
B. Mã Minh E. Hiển chánh kiến
C. Long Thọ
D. Phạm Chí Thanh Mục

Câu 6. Long Thọ được cho là đã chú E. Tất cả các câu trên đều đúng
giải bộ Trung luận của mình bằng bộ
luận: Câu 9. Bộ luận nào sau đây không
A. Vô úy luận phải của Long Thọ sáng tác.
B. Thuận trung luận A. Bách luận
C. Đại thừa trung quán thích luận B. Căn bản trung luận tụng
D. Căn bổn trung luận chú C. Thập nhị môn luận
E. Bát nhã đăng luận D. Hồi tranh luận
E. Đại trí độ luận

Câu 7. Trung luận gồm có bao chiêu Câu 10. học thuyết Trung đạo trong
Trung luận:
chương: A. xiển dương giáo nghĩa đại thừa
B. được rút ra từ kinh Pali và A hàm

A. 4 B. 27 C. 14 C. dẫn dụ rất nhiều kinh điển đại thừa
D. là tư tưởng hoàn toàn mới của Long
D. tất cả các câu trên đúng Thọ
E. tất cả các câu trên đều đúng
E. tất cả các câu trên sai

Câu 8. Long Thọ là người sáng lập ra.
A. Bát nhã tông
B. Tam luận tông
C. Duy thức tông
D. Trung quán tông

BÀI 2: Quán Nhân duyên

Tinh yếu của Trung luận hay Trung quán luận, hoặc Trung đạo thực chất là Duyên khởi:

Cái gì do dun mà sanh thì cái ấy rỗng khơng, khơng có tự ngã (vơ tự tính); nó chỉ là cái

tên gọi mà biểu hiện chớ khơng có hiện hữu như một thực thể (tự ngã); cái ấy nghĩa là

Trung đạo (Duyên khởi ≈ Trung đạo). Thế nên ngay trong lời mở đầu bằng bài kệ tán

thán Phật, Trung luận thành lập Bát bất phủ nhận 8 phạm trù Hữu ngã biểu trưng cho sự

hiện hữu, thời gian, không gian và sự vận hành của các pháp. Phủ nhận 8 phạm trù ngã

tính ấy là phủ nhận tất cả ngã tính: tất cả ngã tính (ngã tướng) ấy chỉ rịng là tên gọi mà

không thực, bởi sự thật là Trung đạo (hay duyên sinh tính).


Bài kệ tán Bụt

Bất sinh diệc bất diệt 不生亦不滅 Không sinh cũng không diệt

Bất thường diệc bất đoạn 不常亦不斷 Không thường cũng không đoạn

Bất nhất diệc bất dị 不一亦不異 Không một cũng không khác
Bất lai diệc bất xuất 不來亦不出 Không đến cũng không đi
Năng thuyết thị nhân duyên 能說是因緣 Tuyên thuyết pháp nhân duyên
Thiện diệt chư hí luận 善滅諸戲論 Dập tắt mọi hí luận
Ngã khể thủ lễ Phật 我稽首禮佛 Con cúi đầu lạy Bụt
Chư thuyết trung đệ nhất. 諸說中第一

Bậc đạo sư tuyệt vời.

Đối diện với các sự vật hiện tượng vốn như như, rỗng không, nhưng trong đầu chúng ta
luôn chấp ngã chấp pháp, ln có khái niệm về sự hiện hữu của cái gọi là “pháp” với

khơng gian, thời gian và sự vận hành của nó, khiến cho cái nhìn của chúng ta về thực tại

trở thành méo mó. Vì vậy Bát bất đã giúp chúng ta xóa bỏ sai lầm đó:

- Bất sinh diệc bất diệt: là sự quán chiếu trên bình diện hiện hữu của các pháp

- Bất thường diệc bất đoạn: là sự quán chiếu trên bình diện thời gian của các pháp

- Bất nhất diệc bất dị: là sự quán chiếu trên bình diện khơng gian của các pháp

- Bất lai diệc bất xuất: là sự quán chiếu trên bình diện vận hành của các pháp.


Một khi các ý niệm về “pháp” như vậy được xóa bỏ thì thật tướng sâu kín, khó thấy khó

hiểu đó là “y tánh duyên khởi” (Idapaccayata Paticcasamuppada) của pháp mới được

hiển bày, như Đức Phật đã từng tự suy nghĩ sau ngay khi chứng được pháp này dưới cội

Bồ đề: “Pháp này do Ta chứng được thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao

thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Cịn quần chúng này thì ưa ái

dục, khối ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần chúng như vậy thì thật khó mà thấy

được định lý Idapacayatà Paticcasamuppàda (Y Tánh Duyên Khởi Pháp)” (Kinh Thánh

Cầu - Trung Bộ kinh)

Như vậy, Trung luận với phẩm mở đầu đã nói lên hết chủ trương, tinh hoa của tất cả các

phẩm cịn lại, đó là phá hý luận, giúp người học Phật trở về thấy rõ thật tại y tánh duyên

khởi của các pháp như sự giác ngộ của Phật.

Chư pháp bất tự sinh 諸法不自生 Các pháp không tự sinh

Diệc bất tùng tha sinh 亦不從他生 Cũng không phải tha sinh

Bất cộng bất vô nhân 不共不無因 Không cộng không vô nhân
Thị cố tri vô sinh. 是故知無生 Nên đều là vô sinh.

Con người luôn xem xét mỗi khía cạnh của thực tại dựa trên bốn nhận thức sai lầm

gọi là tứ cú (catuskotika): có, khơng, vừa có vừa khơng, và khơng có cũng khơng khơng.
Chẳng hạn nói về sinh thì hoặc là: (1) tự sinh, (2) tha sinh, (3) vừa tự sinh vừa tha sinh
(cộng), và (4) không phải tự sinh cũng không phải tha sinh (vô nhân).

Long Thọ lần lượt phá từng trường hợp một vì cả 4 trường hợp này đều không
đúng thực tại. Do đó các pháp tạm gọi là “vơ sinh” sẽ đúng hơn “sinh”. Vơ sinh khơng có
nghĩa là khơng có hiện tượng sinh, mà hiện tượng sinh mặc dù có nhưng vơ ngã, rỗng
khơng, khơng tự tánh, khơng có “pháp” nào gọi là sinh cả.

NHÂN  DUYÊN  QUẢ
Nhân đã khơng có, thì dun cũng khơng có và quả cũng vậy.
Nói về Dun sinh ra các pháp thì chỉ có 4 loại: nhân duyên, Sở duyên duyên, Thứ
đệ duyên và Tăng thượng dun, khơng có cái thứ 5. Nhưng cả 4 loại dun này cũng
khơng có thực thể, khơng có tánh riêng. Do đó khơng nên có ngã chấp, khơng nên có
pháp chấp.
“Quả” nếu có tự tánh riêng thì khơng cần đến nhân và duyên, Ngài Long Thọ đã
dựa trên trục thời gian để lý luận khơng có nhân, dun và quả. Ví dụ Ví dụ như có một
cơ gái đi lấy chồng, và cô sinh ra một đứa con. Khi sinh ra đứa con thì cơ gái (nhân) đó
được gọi là mẹ (dun), và đứa con đó được gọi là con (quả). Khi cơ cịn là một cơ gái
thì ta đâu có thể gọi cô là mẹ được (phi duyên)? Chỉ khi nào cơ sinh con thì mới được gọi

là mẹ (dun), cịn chưa sinh con thì chưa được gọi là mẹ (phi duyên). Cũng một cái đó
mà có khi ta gọi là duyên, có khi gọi là phi duyên. Khi có cái quả (đứa con) sinh ra từ cái
dun (mẹ) thì ta gọi nó là dun. Vậy nên, nhân, duyên, quả chỉ là những khái niệm dựa
trên chấp ngã, chấp pháp, xa rời thực tại như như.

Trắc nghiệm Bài 2 Quán nhân duyên (pratyayaparīkṣā)

Câu 11. “Bất sinh diệc bất diệt” có nghĩa là: .
A. vì khơng sinh nên khơng diệt

B. khơng có hiện tượng sinh và diệt
C. có hiện tượng sinh diệt nhưng bản chất nó vốn khơng
D. tất cả các câu trên đúng
E. tất cả sai

Câu 12. “Bất sinh diệc bất diệt” là sự quán chiếu trên bình diện nào của các

pháp:

A. hiện hữu B. thời gian C. không gian D. vận hành E. bản thể

Câu 13. “Bất thường diệc bất đoạn” là sự quán chiếu trên bình diện nào của các

pháp:

A. hiện hữu B. thời gian C. không gian D. vận hành E. bản thể

Câu 14. “Bất nhất diệc bất dị” là sự quán chiếu trên bình diện nào của các pháp:

A. hiện hữu B. thời gian C. không gian D. vận hành E. bản thể

Câu 15. “Bất lai diệc bất xuất” là sự quán chiếu trên bình diện nào của các pháp:

A. hiện hữu B. thời gian C. không gian D. vận hành E. bản thể

Câu 16. “Năng thuyết thị nhân dun; Thiện diệt chư hí luận” nói lên:
A. mục đích tạo luận
B. cách thức tạo luận
C. giải thích lý nhân duyên sanh
D. ác tâm tiêu diệt, triệt phá các hý luận

E. tất cả đúng

Câu 17. “Tự tánh (svabhava) của các pháp; Không nằm trong các duyên”. Tự
tánh trong câu này có nghĩa là:

A. cái tự tánh nằm bên ngồi các dun
B. tánh vơ ngã của các pháp.
C. tánh không rỗng lặng của các pháp.
D. ngã chấp, pháp chấp.
E. tất cả đúng

Câu 18. “Tự tánh đã là không; Tha tánh làm gì có” nghĩa là
A. hồn tồn khơng có cái gọi là tự tánh, tha tánh
B. câu này phá chấp ta (ngã), chấp người (nhân), chấp pháp (vật)
C. có mình, có người, có vật nhưng tất cả đều vơ ngã, khơng có tự tánh.

D. tất cả các câu trên đúng
E. tất cả các câu trên sai

Câu 19. Trong 4 duyên, Nhân duyên là:
A. một pháp tồn tại độc lập với các duyên
B. cái duyên chính tạo nên sự vật hiện tượng
C. tự tánh (svabhāva) của các pháp
D. tất cả các câu trên đúng
E. Tất cả sai

Câu 20. Trung quán luận quán nhân-duyên-quả để cho thấy:
A. khơng có nhân-dun-quả trên đời này
B. khơng có luật nhân quả
C. chỉ nhân và quả là có thật, duyên là ảo

D. nhân, duyên, quả là các pháp tồn tại độc lập
E. nhân-dun-quả khơng có tự tánh

BÀI 3: Quán Khứ lai

Dĩ khứ vô hữu khứ 已去無有去 Đi rồi không phải đi
Vị khứ diệc vô khứ 未去亦無去 Chưa đi không phải đi
Ly dĩ khứ, vị khứ 離已去未去 Lìa đi rồi, chưa đi
Khứ thời diệc vô khứ. 去時亦無去 Đang đi cũng chẳng đi.

Nhược hữu nhị khứ pháp 若有二去法 Nếu có hai loại đi
Tắc hữu nhị khứ giả 則有二去者 Thì có hai kẻ đi
Dĩ ly ư khứ giả 以離於去者 Nếu tách rời người đi
Khứ pháp bất khả đắc? 去法不可得 Đi sao nắm bắt được?

- Để phá quan niệm “tam thế thật hữu, pháp thể hằng hữu” của phái Nhất thiết hữu bộ,
Long Thọ phá quan niệm về chấp ngã tức khứ giả (kẻ đi), chấp pháp tức khứ pháp
(hành động đi, pháp đi) và chấp có thời gian đi trong hiện tại tức khứ thời (thời gian
đi).
- Để pháp quan niệm sát na trụ của phái Kinh lượng bộ, phẩm này đưa ra quan niệm
“Ðang đi cũng chẳng đi”: Lối giải thích trong nguyên văn của luận dùng “kẻ đi” với
“pháp đi” rất khó hiểu. Nay dùng máy quay video để thí dụ thì dễ hiểu hơn. Ví như kẻ
đi bước 10 bước, máy quay phim quay 300 tấm hình trong 100 giây, khi phóng ảnh ra,
coi cũng như lúc đang đi, nhưng xét kỹ trong 300 tấm hình, thì chẳng một tấm hình
nào có đi. Như thế thì chứng minh “đang đi” cũng “chẳng đi”.

Trắc nghiệm Bài 3: Quán khứ lai

Câu 21. Trong phẩm quán khứ lai, ngài Long Thọ luận về:


A. kẻ đi
B. hành động đi
C. thời gian đi
D. tất cả đúng
E. tất cả sai

Câu 22. Trong lúc đang đi, 3 yếu tố: kẻ đi, hành động đi và thời gian đi
A. tồn tại độc lập
B. khơng có mặt
C. chỉ là giả danh không thật chỉ nương nhau mà tạm có
D. tất cả đúng
E. tất cả sai

Câu 23. Luận về 3 yếu tố: kẻ đi, hành động đi và thời gian đi, Trung Luận muốn
phá quan niệm nào:
A. “tam thế thật hữu, pháp thể hằng hữu” của Nhất thiết hữu bộ
B. “Sát na trụ” của Kinh lượng bộ
C. “Bổ đặc già la” của Độc tử bộ
D. “Căn bản thức” của Đại chúng bộ
E. “Cùng sanh tử uẩn” của Hóa địa bộ

Câu 24. Câu “Đang đi cũng chẳng đi”, Trung quán luận muốn phá quan niệm gì:
A. “tam thế thật hữu, pháp thể hằng hữu” của Nhất thiết hữu bộ
B. “Sát na trụ” của Kinh lượng bộ
C. “Bổ đặc già la” của Độc tử bộ
D. “Căn bản thức” của Đại chúng bộ
E. “Cùng sanh tử uẩn” của Hóa địa bộ

Câu 25. phẩm Quán khứ lai muốn phá quan niệm về:


A. hiện hữu B. thời gian C. không gian D. vận hành E. câu B và D

đúng

TRẮC NGHIỆM BÀI 4: QUÁN TỨ ĐẾ (ĀRYASATYAPARĪKṢĀ)

Nếu “khổ” có định tánh (tánh nhất định)
Sao lại từ “tập” sanh
Khổ nếu có định tánh

Cũng chẳng nên có "diệt"
Khổ nếu có định tánh
Thì chẳng có tu "đạo"
Nếu “đạo” tu tập được
Thì chẳng có định tánh

Chúng nhân duyên sanh pháp
Ngã thuyết tức thị không
Diệc vi thị giả danh

Diệc thị trung đạo nghĩa.
Câu 26: Đứng về phương diện tục đế, vì “Nhất thiết pháp giai khơng”, nên:
A. khơng có Tứ thánh đế
B. khơng sinh cũng khơng diệt.
C. khơng có Tứ thánh quả
D. tất cả các câu trên đều đúng
E. tất cả các câu trên đều sai
Câu 27: Đứng về phương diện chân đế, vì “Nhất thiết pháp giai khơng”, nên:
A. khơng có Tứ thánh đế
B. khơng sinh cũng khơng diệt.

C. khơng có Tứ thánh quả
D. tất cả các câu trên đều đúng
E. tất cả các câu trên đều sai
Câu 28: “Khổ đế” khơng có thật vì:
A. khơng có Khổ đế
B. có cảm thọ khổ nhưng nó khơng có định tánh .
C. cảm thọ khổ khơng có
D. Tất cả các câu trên đều đúng
E. Tất cả các câu trên đều sai
Câu 29: “Đạo đế” tức “Đạo diệt khổ thánh đế” khơng có thật vì:
A. Khổ khơng có tánh thật
B. Bát thánh đạo là pháp có khơng thật tánh.
C. Diệt đế khơng có thật tánh
D. Tất cả các câu trên đều đúng
E. Tất cả các câu trên đều sai
Câu 30: Đứng về mặt đệ nhất nghĩa đế, Tam bảo và Tứ Thánh đế:
A. khơng có
B. có
C. có thật tánh
D. Tất cả các câu trên đều đúng
E. Tất cả các câu trên đều sai
Câu 31: Câu “Chúng nhân duyên sanh pháp, Ngã thuyết tức thị khơng …” đây
chính là quan niệm:
A. chân như duyên khởi
B. a lại da duyên khởi
C. pháp giới duyên khởi
D. như lai tạng duyên khởi
E. tánh không duyên khởi
Câu 32: Vì “Chúng nhân duyên sanh pháp” nên Ngài Long Thọ đã lập ra thuyết:
A. Trung đạo

B. a lại da duyên khởi

C. pháp giới duyên khởi

D. như lai tạng duyên khởi

E. tất cả đúng

Câu 33: “Trung đạo” của Ngài Long Thọ dựa trên:

A. lý Trung đạo xa lìa dục lạc và khổ hạnh trong Kinh Chuyển pháp luân

B. Chánh kiến xa lìa hữu vơ trong kinh Tán đà Ca Chiên Diên (Tương Ưng bộ)

C. các kinh điển Đại thừa

D. sự sáng tạo của riêng Ngài

E. không dựa trên kinh luận nào

Câu 34. Một pháp được gọi là pháp có tự tánh thì cần phải có tính chất gì?

A. duy nhất B. thường hằng C. bất biến

D. tất cả câu trên đúng E. tất cả sai

Câu 35. Những pháp do tạo tác mà thành lại có 3 tướng sanh, trụ, diệt gọi là pháp

gì?


A. Pháp vơ vi
B. Pháp hữu vi
C. Pháp nhân duyên
D. Pháp sanh diệt
E. câu B và D đúng

Bài 5: Quán hữu vô (svabhāvaparīkṣā)

Trong duyên có tự tánh, Nếu người thấy hữu, vô
Điều này không hợp lý. Thấy tự tánh, tha tánh
Tự tánh mà duyên sinh, Như thế thì chẳng thấy
Thì là pháp tạo tác. Phật pháp chân thật nghĩa

Hữu nếu chẳng thể thành Ðịnh hữu là chấp thường

Thì vơ làm sao thành Ðịnh vô là chấp đoạn

Vì đã có "pháp hữu" Cho nên người có trí

Hữu hoại gọi là vô Chẳng nên chấp hữu, vô

Bài 6: Quán nhiên khả nhiên (agnīndhanaparīkṣā)

Nếu "đốt" là "sở đốt"

Tác, kẻ tác thành một

Nếu đốt khác sở đốt

Lìa sở đốt có đốt


Ðốt là lửa, sở đốt là củi, kẻ tác là người, sở tác là nghiệp. Nếu đốt với sở đốt là một, thì

kẻ tác với sở tác cũng phải là một. Như thợ gốm tác bình, thợ gốm chẳng phải bình, bình

chẳng phải thợ gốm, tác và sở tác chẳng thể thành một. Nếu nói chẳng thể thành một thì

phải khác. Nếu khác thì lìa sở đốt mà có đốt (lìa củi mà có lửa). Nhưng thực tế thì chẳng

thể được, nên nói khác cũng khơng được. Thế thì được biết: "đốt" với "sở đốt" đều chẳng

thể thành lập.

Bài 7: Quán niết-bàn (nirvāṇaparīkṣā)

Nếu các pháp chẳng không
Thì vơ sanh vơ diệt (vơ Niết Bàn)

Nếu Niết Bàn là có
Niết Bàn thuộc hữu vi
"Hữu" còn chẳng Niết Bàn
Huống là nơi "vô" ư
Tất cả pháp, tất cả thời, tất cả chủng tử đều do nhân duyên sanh, nên cứu cánh không.
Trong cứu cánh không, tự tánh tất cả pháp đều bất khả đắc. Do đó, các pháp có sở hữu
đều ngưng, hý luận đều diệt. Hý luận diệt, nên thông đạt "thực tướng vô tướng" của các
pháp.
Bài 8: Quán lục tình (cakṣurādīndriyaparīkṣā)
Lục tình: Lục thức đối với lục căn, lục trần, sanh khởi tình chấp, nên gọi là lục tình (có
cảm tình chấp đó là thực)
Nhãn nhĩ và tỷ thiệt

Cùng thân ý lục tình
Nhãn nhĩ ... lục tình này
Hành sắc thanh ... lục trần
Kiến chẳng thể có kiến
Phi kiến cũng chẳng kiến
Nếu đã phá nơi kiến
Tức là phá người kiến
Lìa "kiến", chẳng lìa "kiến"
Người kiến chẳng thể đắc
Vì chẳng có người kiến
Ðâu có kiến để kiến

Năng sở đều vọng vì khơng có tự tánh, do đó chẳng có "kẻ năng kiến" và sắc tướng của
"sở kiến". Theo đó suy luận thì biết những cảnh trần do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cảm nhận
được cũng như thế.

Bài 9: Quán ngũ ấm (skandhaparīkṣā)

Nếu lìa nơi "sắc nhân" (nhân của sắc tướng là tứ đại đất nước gió lửa)
"Sắc" thì bất khả đắc
Nếu phải lìa nơi sắc
Sắc nhân chẳng thể lìa

Nếu lìa sắc có nhân
Thì có nhân khơng quả
Nếu có nhân khơng quả
Thì chẳng có chỗ đúng

Bài 10: Quán lục chủng (dhātuparīkṣā)
Ðịa Thủy Hỏa Phong tứ đại, thêm Không đại và Kiến đại, cộng chung là lục chủng.


Lúc "tướng không" chưa có
Thì chẳng pháp "hư không"

Nếu hư khơng có trước
Thì hư khơng "vơ tướng"

Vì tướng đã chẳng có
Sở tướng cũng chẳng có
Nếu sở tướng chẳng có
Thì tướng cũng chẳng có

Cho nên biết hư không
Phi hữu cũng phi vô

Phi tướng phi sở tướng
Năm thứ kia cũng thế

Nếu trước đã "vơ tướng" thì sau cũng phải vơ tướng. Nếu có tướng, thì tại sao chẳng có
sở tướng (chẳng có tướng sở hữu của hư khơng). "Sở tướng" chẳng có, thì "tướng"
đương nhiên cũng chẳng có (chẳng có tướng mạo của hư khơng). Ðịa, thủy, hỏa, phong,
kiến, năm thứ "đại" cũng đồng như hư không, chẳng thể thành lập.

Bài 11: Quán nhiễm – kẻ nhiễm (rāgaraktaparīkṣā)
Nếu lìa nơi pháp nhiễm
Trước tự có kẻ nhiễm
Thì kẻ bị nhiễm này
Phải sanh ra pháp nhiễm

Nếu chẳng có pháp nhiễm

Tại sao phải có nhiễm

Có nhiễm hoặc chẳng nhiễm
Kẻ nhiễm cũng như thế

Lục trần thuộc về pháp nhiễm. Chúng sanh ham thích lục trần thuộc về kẻ nhiễm. Nếu
cho rằng lìa pháp nhiễm mà kẻ nhiễm có trước, thì quả thuyết này chẳng thể lập. Nếu
chúng sanh chẳng ham thích lục trần, thì chẳng thành kẻ nhiễm. Nếu chẳng có kẻ nhiễm,
thì làm sao có pháp nhiễm? Nếu pháp nhiễm với kẻ nhiễm cùng một lúc, thì chẳng có
nhân dun tương đối, tức là chẳng vì kẻ nhiễm mà có pháp nhiễm, cũng chẳng vì pháp
nhiễm mà có kẻ nhiễm. Thế thì hai thứ "kẻ nhiễm" và "pháp nhiễm" phải là "thường"
(không đoạn). Nếu thế thì chúng sanh vĩnh viễn chẳng có ngày giải thốt. Nhưng sự thực
thì đời đời đều có chúng sanh giải thoát.

Bài 12: Quán tam tướng (saṃskṛtaparīkṣā)
Nếu sanh là hữu vi

Thì phải có tam tướng
Nếu sanh là vô vi

Ðâu có tướng hữu vi

Tam tướng nếu hợp lìa

Chẳng thể có sở tướng
Tại sao ở một chỗ

Ðồng thời có tam tướng

Sanh, trụ, diệt, ba tướng thuộc về pháp hữu vi. Nếu hợp thì tam pháp trái ngược nhau,

chẳng thể cùng ở một lúc, nghĩa là lúc sanh thì chẳng có tướng trụ diệt, lúc trụ thì chẳng
có tướng sanh diệt, lúc diệt thì chẳng có tướng sanh trụ. Nếu lìa thì chẳng có "sở tướng",
tức là sanh chẳng có tướng "sở sanh", trụ chẳng có tướng "sở trụ", diệt chẳng có tướng
"sở diệt". Nếu thuộc về pháp vơ vi, thì chẳng có tam tướng.

Phần bài thi viết (20 điểm)

Hãy trình bày lại thật ngắn gọn phần nội dung chính (lược bớt phần dẫn nhập)
bài tiểu luận Trung quán luận mà quý Thầy, Cô đã làm ở nhà.

Ghi chú:
- Phần trắc nghiệm (câu 1-35) sẽ thi 20 câu = 20 điểm
- Thời gian làm cả bài trắc nghiệm và bài viết là 60 phút
- Bài viết phải viết tối thiểu 2 trang giấy thi, tối đa tuỳ ý.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×