Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG LOẠI HÌNH TỰ SỰ VĂN HỌC HIỆN ĐẠI DÂN TỘC THÁI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 15 trang )

Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 377-391

Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong loại hình tự sự
văn họ• c hiệ• n đạ• i dân tộ• c Thái

Nguyễn Thị Hải A* nh

Tóm tắt: Ra đời từ những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX, cho đến nay, sau chặng
đường hơn nửa thế kỷ tồn tại, vận động và phát triển, loại hình tự sự văn học hiện đại dân
tộc Thái đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Những thành tựu này được thể hiện khá
rõ nét trên nhiều phương diện khác nhau như: sự lớn mạnh về đội ngũ sáng tác, sự phát
triển phong phú về thể loại, sự mở rộng phạm vi phàn ánh và nâng cao dần về chất lượng
nghệ thuật của các tác phẩm văn học. Thông qua việc tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân
vật trong loại hình, bài nghiên cứu sẽ chỉ ra những đặc điểm trong thế giới nhân vật của
loại hình, sự đổi mới của nhân vật hiện đại so với quan niệm nghệ thuật nhân vật truyền
thống. Qua đó, làm rõ sự vận động, giá trị, vị trí của loại hình trong sự hình thành, phát
triển của văn học dân tộc Thái nói riêng, văn học các dân tộc thiểu số nói chung. Bên cạnh
việc ghi nhận các thành tựu đạt được, kết quả nghiên cứu cũng chì rõ những tồn tại, hạn
chế trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của các nhà văn hiện đại dân tộc Thái.

Từ khóa: văn học dân tộc thiểu số; dân tộc Thái; loại hình tự sự; nghệ thuật xây dựng; văn
học hiện đại.

Ngày nhận 11/6/2021; ngày chinh sửa 22/7/2021; ngày chấp nhận đăng 22/6/2022

DOI: />
1. Mở đầu làm, hoặc là người mô phỏng tự nói về mình

mà không thay đối ngôi nhân xưng, hoặc

Việc phân loại văn học ln là vấn đề trình bày tất cả các nhân vật được mô phỏng



nhận được sự quan tâm của nhiều nhà bằng động tác và hoạt động của chúng”

nghiên cứu. Lí luận văn học xưa nay đã biết (Aristote 1999: 23). Các “phương thức mô

đến nhiều cách phân loại khác nhau. Trong phỏng” mà Aristote vạch ra về sau được gọi

đó, cổ xưa và phổ biến nhất là cách chia tác là loại văn học. “Khái niệm đó bao hàm các

phẩm văn học ra làm ba loại là tự sự, trữ đặc điểm của các thuộc tính cả nội dung lẫn

tình và kịch. Người đầu tiên đề xuất sự phân hình thức của tác phẩm văn học nghệ thuật”

biệt này là Aristote trong cơng trình Nghệ (Pospelov 1985: 8). Cách chia ba của Aristote

thuật thi ca của ông. Bàn về ba “phương được nhiều học giả sau này như Hegel,

thức mô phỏng” của thơ ca (tức nghệ thuật Belinski,... tiếp tục kế thừa và phát triển.

ngơn từ), ơng cho rằng: “Có thể mơ phỏng Ở Việt Nam, cách “chia ba” cũng được
bằng cùng một phương tiện và cùng một đối áp dụng phổ biến trong các giáo trình về văn
tượng bằng cách ke về một sự kiện như về học dân gian hay lí luận văn học. Các tác giả
một cái gì tách biệt với mình như Homère đã cuốn Lí luận văn học áp dụng cách chia ba,

■ Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông nhưng chọn trình bày bốn thể loại tiêu biểu:
Thái Nguyên; email: thơ trữ tình, kịch, tiểu thuyết và kí (Phương

377

Nguyễn Thị Hải Anh / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 377-391 378


Lựu và cộng sự 2012: 350). Tác giả Lê nhất khi dùng thuật ngữ. về cơ bản, ý nghĩa
Ngọc Trà gọi tên ba loại là: truyện, thơ và
kịch. Theo đó, loại hình tự sự bao gồm các của chúng khơng có sự khác biệt.
thể loại cơ bản như: khúc ca anh hùng (anh
hùng ca), trường ca, truyện (tiểu thuyết đoản Như vậy, về mặt thuật ngữ, trong bài viết,
thiên), tiểu thuyết, truyện ngắn, ngụ ngôn, thuật ngữ loại hình tự sự được bài viết sử
V.V.. (2007: 380). về cơ bản, cách “chia ba”
được dựa trên những tiêu chuẩn phân loại dụng có ý nghĩa tương đương với thuật ngữ
tương đối nhất quán. Đó là phân chia dựa vào loại tự sự, mang ý nghĩ là một loại hình văn
học, bên cạnh hai loại hình cịn lại là trữ tình
các quy luật xây dựng hình tượng, phương và kịch. Với tư cách là một loại hình văn
thức phản ánh đời sống của tác phẩm văn học, tác phẩm tự sự mang những đặc điểm
học. Trong bài viết, tác giả chọn phân loại
này để tiếp cận loại hình tự sự trong văn học riêng so với hai loại hình trữ tinh và kịch.
dân tộc Thái. Bởi qua quá trình tìm hiểu và Đó là, tác phẩm tự sự phản ánh đời sống
nghiên cứu về nền văn học dân tộc Thái nói
chung, loại hình tự sự văn học dân tộc Thái trong tính khách quan của nó thơng qua các
nói riêng, chúng tơi nhận thấy, đây là cách sự kiện. Neu như tác phẩm trữ tình phản ánh
tiếp cận phù họp và hiệu quả. hiện thực trong sự cảm nhận chủ quan về nó
thì tác phẩm tự sự lại tái hiện đời sống trong
về mặt thuật ngữ, tự sự là khái niệm tính khách quan của nó. Thế giới của tác
được bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ, espos có phấm là thế giới tồn tại bên ngoài người trần
nghĩa là lời nói, lời kể. Dựa vào kết quả thuật, không phụ thuộc vào ý muốn và tình
phân loại văn học như trên đã trình bày, tự cảm của họ. ở đây, nhà văn dường như
sự được hiểu là một trong những “Phương đứng bên ngoài để kể lại. Tất cả những sự
thức tái hiện đời sống, bên cạnh hai phương việc của đời sống được nhà văn kể lại như
thức khác là trữ tình và kịch được dùng làm một đối tượng khách quan ở bên ngoài
cơ sở để phân loại tác phẩm văn học” (Lê mình. Bàn về điều này, Belinski viết: “Thơ
Bá Hán và cộng sự 2011: 385). về phương tự sự chủ yếu là thơ khách quan, bề ngoài cả

diện thể loại văn học, trên cơ sở phương
thức phản ánh tự sự đã hình thành loại hình trong quan hệ với chính nó, với nhà thơ và
tự sự (2011: 386). Theo quan điểm này, với cả người đọc... Ở đây không thấy nhà
trong bài nghiên cứu, khái niệm loại hình thơ; thế giới được xác định một cách lập thể,
được dùng tương đương với khái niệm tự nó phát triển, và nhà thơ dường như chỉ là
“loại”, mang ý nghĩa là một loại hình văn người trần thuật giản đơn những gì đã tự nó
học. Dưới loại hình (loại) là các thể loại. xảy ra” (Dần theo Phương Lựu và cộng sự
Thuật ngữ “loại hình” là cách dùng trong 2012: 375). Tuy nhiên, cũng cần phải bàn
sách Tìm hiếu tiến trình văn học dân gian thêm rằng, tính khách quan ở đây chi mang
Việt Nam (Cao Huy Đỉnh 1974: 224). Cách nội dung tương đối. về bản chất, đời sống
dùng này cũng phù họp với kết quả nghiên khách quan được tái hiện lại thông qua lăng
cứu của Lê Bá Hán (2011: 385, 406), V.V.. kính chủ quan của người nghệ sĩ, tức thông
Thuật ngữ “loại” là cách dùng trong sách Văn qua sự nhận thức, khái quát, đánh giá, thể
học dân gian Việt Nam, tập 1 (Đỗ Bình Trị hiện mang tính chủ quan của nhà văn. Trong
1991: 40), của các tác giả trong sách Li luận tác phẩm tự sự, nhà văn cũng thể hiện tư
văn học (2012: 348), V.V.. Sở dĩ có sự khác
biệt này, theo tôi, xuất phát từ sự chưa thống tưởng và tình cảm của mình. Bởi vậy, tác
phẩm văn học là sự thống nhất biện chứng
giữa tính chủ quan và tính khách quan. Nhấn
mạnh tính khách quan của tác phẩm tự sự là
trên cơ sở đối sánh bản chất so với tác phẩm
trữ tình, đồng thời được hiểu với nghĩa là

379 Nguyễn Thị Hải Anh / Tạp chỉ Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 377-391

nội dung được phản ánh trong tác phẩm không thay đổi từ đầu đến cuối”, “sự tồn tại
mang tính khách quan so với người kể và hoạt động của nó chi nhằm thức hiện một
chuyện. Tính khách quan chính là nguyên số chức năng nhất định, đóng một số vai trò
tắc tái hiện đời sống của tác phẩm tự sự. nhất định”. Nhân vật loại hình là loại nhân
vật “thể hiện tập trung các phẩm chất xã hội,

Nhân vật là “phương tiện tất yếu quan đạo đức của một loại người nhất định của
trọng nhất để thể hiện tư tưởng trong tác một thời”. Nhân vật tính cách là kiểu nhân
phẩm tự sự và kịch - nó là phương diện có
tính thứ nhất trong hình thức của các tác vật “được mô tả như một nhân cách, môt cá
phấm ấy, quyết định phần lớn vừa cốt truyện tính nổi bật”. Kiểu nhân vật này “thường có
vừa lựa chọn chi tiết vừa phương diện ngôn những mâu thuẫn nội tại, những nghịch lí,
ngữ và thậm chí cả kết cấu nữa” (1985: 15). những chuyển hóa” (Phương Lựu và cộng
Trong tác phẩm tự sự, nhà văn “nói” qua sự 2012: 283-285). Cách phân loại nhân vật
nhân vật. Đánh giá về vai trò của nhân vật, này được tác giả áp dụng trong bài viết đế
nhà văn Tơ Hồi cho rằng: “Nhân vật là nơi tìm hiểu về hệ thống nhân vật trong loại
duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết hình tự sự văn học dân tộc Thái.
thảy trong một sáng tác” (Tơ Hồi 1977:
127). Nhân vật khơng chỉ là nơi bộc lộ tư Xuất hiện vào những năm đầu của thập
tưởng, chủ đề tác phẩm mà còn là nơi tập niên 60 thế kỷ XX với những truyện ngắn:
trung các giá trị nghệ thuật của tác phấm.
Đối với mỗi nhà văn, nhân vật là một trong Hoa trong men của Vương Trung, Người
những phương diện quan trọng thể hiện bản hàng trên Cờ Mạ của Lò Văn Sỹ (Nông
phong cách nghệ thuật và đánh dấu sự Quốc Chấn và cộng sự 2004) nhưng phải
đến tận năm 1980, tập truyện ngắn đầu tiên
trưởng thành của họ trong quá trình sáng tác. của dân tộc Thái mới được ra mắt. Đó là tập

So với nhân vật trữ tình và nhân vật kịch, truyện Những bơng ban tím của Sa Phong
nhân vật tự sự được tập trung khắc hoạ đầy Ba. Từ đó đến hết thập kỷ 80, khơng có
đặn, tương đối cụ thể ở nhiều phương diện: thêm tập truyện nào được xuất bản. Thể loại
truyện (truyện ngắn, truyện vừa) của dân tộc
ngoại hình, hành động, ngôn ngữ, nội tâm và Thái chỉ nở rộ vào thập niên 90 và những
đặc biệt là trong mối quan hệ với các nhân năm 2000 với hàng loạt tập truyện được xuất
vật khác. Chỉ có trong mối quan hệ với các bản của các tác giả như: La Quán Miên với
nhân vật khác, nhân vật mới bộc lộ hết bản Hai người trở về bản (truyện và kí, 1996),
chất của mình, những biến đổi trong cuộc Cùng đất hoa Cờ Mạ (1997), Trời đỏ (truyện

đời nhân vật cũng tùy thuộc mối quan hệ và kí, 1998), Bản nhỏ tuổi thơ (2000), Năm
này. Sự phân loại nhân vật trong tác phẩm học đã qua (2003); cầm Hùng với Con
có thể dựa vào vai trò của nhân vật trong kết thuyền lá (1995), Cửa hàng dược trong
cấu tác phẩm, sự phục vụ của nhân vật cho nghĩa trang (1998); Sa Phong Ba có Vùng
việc thể hiện lí tưởng xã hội của nhà văn, đồi gió quan (1995), Chuyên dưới chân núi
hình thức cấu trúc nhân vật, V.V.. Với mỗi Hồng Ngài (2005), Nhà ấy cỏ ma xó (2010);
tiêu chí, nhân vật lại được phân loại khác
nhau. Xét trên tiêu chí cấu trúc, nhân vật Kha Thị Thường có Mùa hoa lù cù, Chín
được phân chia thành 4 kiểu: nhân vật chức bậc cầu thang,... Cho đến nay, truyện ngắn
năng, nhân vật loại hình, nhân vật tư tưởng vẫn là thể loại gặt hái đựơc nhiều thành công
và nhân vật tính cách. Nhân vật chức năng là nhất của văn xuôi hiện đại dân tộc Thái.
loại nhân vật “khơng có đời sống nội tâm,
các phẩm chất đặc điểm nhân vật cố định, Sau khoảng 30 năm kể từ khi tác phẩm
truyện ngắn đầu tiên xuất hiện, thể loại tiểu
thuyết của văn học Thái mới đánh dấu sự ra

Nguyễn Thị Hải Anh / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 377-391 380

đời của mình bằng sự kiện ra mất cùa cuốn nghiên cứu chù yếu mới chỉ dừng lại ở các
thiểu thuyết Mối tình Mường Sinh (1994) nhận định, đánh giá riêng lẻ về một hoặc
của Vương Trung. Hơn mười năm sau,
Vương Trung mới cho ra đời cuốn tiểu một vài khía cạnh nhỏ trên các phương diện
thuyết thứ hai của ông và cũng là của văn nội dung và nghệ thuật của loại hình hay
học Thái, đó là cuốn Đất bản quê cha một tác phẩm, tác già cụ thể. Hầu hết các ý
(2007). Hai năm sau đó, nhà văn cầm Hùng kiến đánh giá đều nằm trong các cơng trình
cho ra đời tác phẩm Cơn lốc đen. Cuốn tiểu nghiên cứu chung về văn học dân tộc thiểu
thuyết thứ tư cùa văn học Thái là Tiếng thét số, trong lời giới thiệu của tác phẩm khi xuất
Tồng Lôi của Thái Tâm xuất bản năm 2014. bản hoặc ở một số bài báo địa phương, trung
ương như: Độc đáo La Quán Miên (Bùi Việt
Thể loại kí cũng ghi nhận sự cố gắng của Thắng 1997), Một số ghi nhận về cách viết

Sa Phong Ba trong Lặng lẽ Phiêng Côn hay của La Quán Miên (Nguyên An 1999); Năm
một số bài trong các tập truyện ngắn in 1967, nhân dịp sự ra mắt của truyện thơ Ing
chung của ông như Vùng đất hoa Cờ Mạ, Éng, Hà Văn Thư có bài viết Giới thiệu
Hai người trở về bân, Trời đỏ. Riêng hai thể truyện thơ Ing Éng của Vương Trung (Hà
loại tản văn và hồi kí đến nay vẫn chưa ghi Vãn Thư 1996). Năm 2008, cầm Hùng có
nhận thành cơng đáng kể nào. bài viết Cảm nhận khỉ đọc “Đất bản quê
cha" của Vương Trung (Cầm Hùng 2008)
Ngoài các thể loại trên, loại hình tự sự
vãn học dân tộc Thái cũng ghi nhận sự xuất V.V..
hiện của một số thể loại khác như trường ca
Những người con của bàn (Cầm Hùng Theo thống kê, cho đến nay, trong số
2000), truyện thơ Ing Éng (Vương Trung hơn 10 bài viết, cơng trình nghiên cứu về
1967). Tuy nhiên, ở mỗi một thể loại, chưa loại hình văn học tự sự dân tộc Thái, chưa
ghi nhận thêm các tác phẩm mới. có một bài viết hay cơng trình nào tập trung

Như vậy, sau chặng đường khoảng 60 nghiên cứu sâu hay mang tính khái quát, hệ
năm vận động và phát triển, loại hình tự sự thống về nghệ thuật xây dựng nhân vật của

trong văn học hiện đại dân tộc Thái đã đạt loại hình tự sự văn học dân tộc Thái hiện
được nhiều thành tựu quan trọng. Nhũng đại. Nhận thức về “khoảng trống” còn bỏ
thành tựu này được thể hiện khá rõ nét trên ngỏ này, tôi đã chọn vấn đề trên làm chù đề
nhiều phương diện khác nhau như: sự lớn cho bài viết, trong đó, tập trung chủ yếu vào
mạnh về đội ngũ sáng tác, sự phát triển các thể loại kết tinh rõ nhất thành tựu của
phong phú về thể loại, sự mở rộng phạm vi loại hình là truyện ngắn, tiểu thuyết và
phản ánh và nâng cao dần về chất lượng truyện thơ. Một số thể loại khác như trường
nghệ thuật của các tác phâm văn học. Với ca, kí văn học khơng nằm trong phạm vi
những thành tựu đó, loại hình văn học này khảo sát do số lượng tác phẩm và thành tựu
đang từng bước khẳng định được vị thế của còn hạn chế, đặc biệt, thể loại kí chưa có sự
mình trong nền văn học các dân tộc thiểu sổ phân định rõ ràng về mặt thể loại. Trên cơ
nói riêng và nền văn học Việt Nam nói sở thống kê, phân tích, đánh giá và tổng

chung. hợp, bài nghiên cứu sẽ chỉ ra những đặc
điểm chung về thế giới nhân vật của loại
Tuy nhiên, trong quá trinh tìm hiểu về hình, về sự kế thừa vốn ván hóa, văn học
mảng văn học Thái, tác giả nhận thấy, loại truyền thống cũng như những nỗ lực tìm tịi,
hình tự sự văn học hiện đại chưa nhận được đối mới của các nhà văn hiện đại trong nghệ
nhiều sự quan tâm từ các độc giả hay các thuật xây dựng nhân vật hiện đại so với nhân
nhà nghiên cứu. Các bài viết, cơng trình vật truyền thống. Bên cạnh việc ghi nhận

381 Nguyễn Thị Hải Anh / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 377-391

các thành tựu đạt được, bài nghiên cứu cũng hình, tơi nhận thấy một số đặc điểm nổi bật
chỉ rõ những tồn tại, hạn chế trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật của các nhà văn sau:
hiện đại dân tộc Thái. Với các kết quả đó,
bài viết sẽ cung cấp thêm cho độc giả và các Thứ nhất, xét về mặt cấu trúc, hệ thống
nhà nghiên cứu một góc tiếp cận mới về loại
hình, đồng thời, góp phần làm rõ q trình nhân vật được chia ra làm hai loại cơ bản.
vận động, giá trị, vị trí của loại hình trong sự Đó là nhân vật loại hình và nhân vật chức
hình thành, phát triển của văn học dân tộc năng. Hai loại nhân vật này có mặt trong rất
Thái nói riêng, văn học các dân tộc thiếu số nhiều tác phẩm, thuộc nhiều thể loại và
nói chung. xun suốt q trình sáng tác.

2. Thế giói nhân vật trong loại hình tự sự Thứ hai, thế giới nhân vật được phân
văn học dân tộc Thái chia thành hai tuyến đối lập rõ rệt: tốt - xấu,
thiện - ác, chính nghĩa - phi nghĩa
Thế giới nhân vật trong loại hình tự sự
dân tộc Thái rất phong phú và đa dạng. Bên Thứ ba, nhân vật có xu hướng biến đổi từ
cạnh loại nhân vật là con người, loại hình nhân vật đơn thanh, đơn cực sang nhân vật
văn học này cịn có hệ thống nhân vật là tính cách, chú trọng miêu tả tâm lí nhân vật.
thần linh, các con vật, V.V.. Mỗi hệ thống

nhân vật trên lại mang những đặc điểm riêng Cả ba đặc điểm trên đều có sự tiếp thu,
về nghệ thuật xây dựng. Tuy nhiên, trong kế thừa và chịu ảnh hưởng sâu từ vốn văn
khuôn khố và phạm vi nghiên cứu của bài học cổ và văn xuôi hiện đại giai đoạn 1945-
viết, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu nghệ 1975. Xét về kiểu cấu trúc nhân vật, họ
thuật xây dựng nhân vật là con người. Sở dĩ chính là kiểu nhân vật loại hình của nghệ
có sự lựa chọn như vậy là do trong quá trình thuật xây dựng nhân vật truyền thống. Éng
khảo sát, tôi nhận thấy, đây là hệ thống nhân (Vương Trung 1967), Tuệ trong Những mùa
vật trung tâm, nhân vật chính và chiếm đa số hoa nở (Kha Thị Thường 2002), những cô
trong hầu hết các tác phẩm thuộc các thế gái bản (Cầm Hùng 2000) hay Sương, ơn
loại của loại hình. Khảo sát và nghiên cứu (Vương Trung 1994), v.v. đại diện cho loại
sâu hệ thống nhân vật này có vai trị đặc biệt nhân vật chính diện/tốt/chính nghĩa/tích cực.
quan trọng trong việc nhận diện và làm nổi Còn Lò Oan (Vương Trung 1967), Quải
bật những giá trị tư tưởng cũng như nghệ trong Người trong họ (Kha Thị Thường
thuật của loại hình, đồng thời, cũng phù họp 2002), v.v. tiêu biểu cho loại nhân vật
với dung lượng của bài viết. Các nhân vật xấu/phi nghĩa/tiêu cực. Không chỉ thống
trong loại hình tự sự dân tộc Thái thuộc đủ nhất giữa ngoại hình và tính cách, suốt từ
các thành phần xuất thân với những độ tuồi, đầu đến cuối tác phẩm, tính cách của các
nghề nghiệp, tính cách và những cuộc đời nhân vật này cũng không hề có sự vận động,
khác nhau. Tất cả tạo nên một bức tranh với biến đổi. Những biến cố, thử thách chỉ làm
đủ các gam màu tối, sáng về hiện thực cuộc cho những nét đẹp phẩm chất của các nhân
sống và số phận con người miền núi trong vật như Éng, Tuệ, ơn, Sương, v.v. thêm
suốt lịch sử tồn tại và phát triển của tộc ngời sáng. Ngược lại, chúng lại làm bộc lộ
người. Khảo sát hệ thống nhân vật trong loại rõ hơn cách hành xử và sự kém cỏi trong
nhân cách của Lò Oan, Quải hay một loạt
các nhân vật quan chức tha hoá, những kẻ
lắm tiền nhiều của hợm hĩnh trong các sáng
tác của nhà văn Sa Phong Ba.

Bên cạnh kiểu nhân vật loại hình, kiểu
nhân vật chức năng cũng xuất hiện trong

nhiều tác phấm. Tất nhiên, sự phân biệt này

Nguyễn Thị Hải Anh / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 377-39ỉ 382

cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Bởi giữa các Hạn chế này đã phần nào làm giảm sức hấp
loại nhân vật này ln có sự giao thoa lẫn dẫn của nhân vật nói riêng và của tác phẩm
nhau. Pâng trong Đất bản quê cha (Vương nói chung. Đe khắc phục hạn chế trên, văn
học dân tộc Thái đang đòi hỏi nhiều hơn nữa
Trung 2007) vừa là nhân vật loại hình vừa là sự nỗ lực, cố gắng và sáng tạo của mỗi nhà
nhân vật chức năng. Trong tác phẩm, chức văn trong quá trinh lao động nghệ thuật. Và
trên thực tế, tuy khá đậm nét nhưng văn học
năng của nhân vật này là người giúp đờ. dân gian không phải là nguồn ảnh hưởng
Giống như một mạnh thường quân, một duy nhất tới các nhà văn. Những luồng ảnh
người cứu nhân độ thế, Pâng không chỉ giúp hưởng khác từ văn học cách mạng, văn học
hiện thực phê phán trong nước, từ cả văn
đỡ những người anh em trong họ làm giàu học nước ngoài đã mang đến cho văn học
trên mảnh đất quê hương mà còn giúp dân tộc Thái nói chung, thế giới nhân vật
của loại hình tự sự nói riêng những gợi ý,
những người dân trong bản tìm ra con kinh nghiệm về sự tìm tịi, sáng tạo. Bên
đường làm ăn đúng đắn để thoát nghèo và cạnh kiểu nhân vật đơn giản, thuần nhất
từng bước vươn lên giàu có. về mặt phẩm trong các tác phẩm xuất bản trước 1990 như
chất, Pâng cũng là mẫu người mang vẻ đẹp trên đã phân tích cịn có những nhân vật
nhân cách lý tưởng. Những sóng gió, thăng mang tính đa diện như Long Phúc (trong
trầm của cuộc đời, sự sỉ nhục của kẻ thù, sự Đất bản quê cha), Y Sương trong Sương rơi
gièm pha, đặt điều ác ý của của những người từ núi (Kha Thị Thường 2002) hay kiểu
lắm chuyện, xấu bụng, sự phá hoại của nhân vật tâm trạng trong Ngày biết tuồi,
những kẻ đố kỵ, ghen ăn tức ở đều không Khn mặt tình u (Kha Thị Thường 2002)
khiến Pâng nhụt chí, bận lịng và để bụng. v.v. trong các tác phẩm xuất bản từ thập
Sự rộng lượng, vị tha, lịng tốt, đức tính niên 1990 trở về sau. Xu hướng biến đổi
chung thuỷ, sự kiên trì, tinh thần vượt khó này, một mặt, giúp cho các tác phẩm thuộc

luôn là những phẩm chất tốt đẹp thường trực loại hình tự sự của dân tộc Thái trở nên chân
trong con người anh, là hành trang giúp anh thực và gần gũi hơn với cuộc sống, mặt
vượt qua những khó khăn, hoạn nạn của khác, giúp cho các sáng tác của họ tiến gần
cuộc đời. Nhân cách của anh còn tạo ra một hơn với xu thế phát triển chung của văn học
sức mạnh cảm hố lớn, khơng chỉ với những Việt Nam hiện đại.
người bình thường xung quanh mà cịn với
cả những kẻ từng đối nghịch với anh. 3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong
loại hình tự sự văn học dân tộc Thái
Xây dựng nhân vật theo hướng này, các
nhà văn dân tộc Thái tuy đã thể hiện những 3.1. Khắc họa nhân vật qua yếu tố ngoại
cố gắng, song về cơ bản, những nhân vật của hình
họ vẫn thiếu đi tính chân thực, đa diện, đa
thanh vốn có của cuộc sống. Trong số rất Ngoại hình là một trong những phương
nhiều các tác phẩm với con số hàng trăm diện cơ bản để khắc họa nhân vật văn học.
nhân vật, người đọc chưa thể tìm được một Việc miêu tả ngoại hình nhân vật trong văn
“con người này” độc đáo, không trộn lẫn. học thường hướng tới hai mục đích. Thứ
nhất, nhằm cá thể hóa nhân vật, giúp phân
Nói cách khác, các nhà văn dân tộc Thái
chưa xây dựng được những hình tượng nhân
vật mang tính cách điển hình như Mạc, sắn,
Pi, Vương, Thức trong tác phẩm Đàn trời

(Cao Duy Sơn 2012) hay Hử, Ca, Khảng,
v.v. trong Những đám mây hình người của
nhà văn Cao Duy Sơn (Cao Duy Sơn 2002).

383 Nguyễn Thị Hái Anh / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 377-391

biệt nhân vật này với nhân vật khác. Qua đó, xuất khá cao, chẳng hạn như trong sáng tác
người đọc có thể nắm được những đặc điểm của các nhà văn như Vi Hồng, Cao Duy Sơn

chung của con người về nghề nghiệp, tầng (Tày), Hà Thị cẩm Anh (Mường), Hlinh
lớp và thời đại. Thứ hai, góp phần xác định Niê, Y Điêng (Ê đê), V.V.. Điểm khác biệt ở
và hé mở các đặc điểm về tính cách, bản đây là: ở văn học trung đại, sự đối sánh
chất của nhân vật. Nói cách khác, việc miêu thường mang tính tượng trưng, ước lệ cao;
tà tính cách, bản chất của nhân vật được còn trong sáng tác của các nhà văn dân tộc
miêu tả gián tiếp qua yếu tố ngoại hình vì thiêu số, sự gị bó khn mầu đó đã được
ngoại hình là một trong những dấu hiệu bên thay the bằng những biểu hiện “đa dạng,
ngoài để nhận biết tính cách. Trong loại hình linh hoạt và sống động hơn nhiều” (Nhiều
tác giả 1997: 125). Sức trẻ của nhân vật Sín
tự sự văn học hiện đại dân tộc Thái, việc trong tác phấm Góc trời tây có cơn mưa đá
miêu tà ngoại hình nhân vật chịu sự ảnh của Cao Duy Sơn được ví như con “ngựa
hưởng khá rô nét từ văn học dân gian truyền đực chưa thuần” (1997: 516). Tình yêu của
thống. Điều này được thể hiện cụ thể ở một Líu tự nhiên và mang chân lí như quy luật
số đặc điểm sau: ngàn đời của thiên nhiên, tạo hóa: “Gã yêu
nàng với tình u cùa lồi chim u rừng,
Thứ nhất, ngoại hình nhân vật thường của loài cá u sơng suối. Khơng có rừng
được miêu tả trong thế đối sánh với thiên chim khơng có bạn, khơng có suối cá sẽ
nhiên, nghĩa là lấy thiên nhiên làm thước đo chết” (1997: 521), V.V..
vẻ đẹp cho con người. Thủ pháp nghệ thuật
thường được dùng khi miêu tả ngoại hình Trong những sáng tác của mình, các nhà
nhân vật là thủ pháp so sánh, liên tưởng. văn Thái cũng xem đây là một thủ pháp
nghệ thuật hiệu quả trong việc diễn tả các ý
Thứ hai, việc miêu tả ngoại hình được đồ nghệ thuật cũng như trong việc thể hiện
chú trọng tập trung vào các nhân vật chính bản sắc riêng của dân tộc. Trong tiểu thuyết
diện, những con người mang vẻ đẹp lí tưởng Tiếng thét Tồng Lôi, vẻ đẹp của trăng và của
cả về ngoại hình lần nhân cách và tài năng. hoa Boọc Pịp, loại hoa màu trắng và có mùi
Trong đó, vẻ đẹp của ngoại hình góp phần tơ thơm rất đặc trưng được nhà văn Thái Tâm
điểm, bổ sung và hoàn thiện vẻ đẹp của con sử dụng tới 3 lần để so sánh với vẻ đẹp của
người.
người con gái. Nhân vật Y Seo “có gương

Thứ ba, xét về tính chất, tuy mức độ đậm mặt trẻ trung và sáng như nàng Quắc trên
nhạt khác nhau, song nhìn chung, vẻ đẹp cao, làn da thì trắng hồng và mịn màng như
ngoại hình của nhân vật thường mang tính
ước lệ, thiếu tính cụ thê và ít nhiều mang trứng gà bóc, hương da thịt cứ thơm như
tính cơng thức, khn mẫu. Người đọc chỉ hương hoa Boọc Pịp trên núi cao” (Thái
có thể tưởng tượng hoặc hình dung được Tâm 2014: 39); cô gái Pá Xao “mặt sáng
như trăng rằm tháng hai, da trắng và thơm
theo cách cảm nhận riêng của mình.
như hoa Boọc Pịp trên núi cao” (2014: 49).
Với lối tư duy quen thuộc, nhiều nhà văn Đôi cánh tay trắng, tròn căng sức sống của
hiện đại vẫn lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm
chuẩn mực, làm thước đo thẩm mỹ cho vẻ cơ gái mười bảy được ví như mía “Tay
đẹp của con người. Trên thực tế, đây là một Nàng”, một thứ mía cổ thường được trồng
thao tác được sử dụng phổ biến trong suốt trên nương rẫy của người Thái, có lóng vừa
chiều dài lịch sử của văn học Việt Nam, đặc tròn vừa trắng (2014: 163). Làn da của
biệt là trong văn học trung đại. Trong sáng người con gái Thái “trắng như cánh ban
tác của nhiều nhà văn dân tộc thiếu so hiện rừng” (Vương Trung 2007: 216), V.V.. Với
đại, thao tác này vẫn được sử dụng với tần

Nguyễn Thị Hải Anh / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 377-391 384

việc dùng các chi tiết gợi tả, so sánh gần gũi giữa cộng đồng người Thái với các dân tộc
với thiên nhiên và đời sống của người miền khác trên khắp đất nước, thậm chí là nước
núi và bút pháp ước lệ, tượng trưng để miêu ngoài và những chủ trương đổi mới của
Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với vặn học
tả ngoại hình, các nhà văn dân tộc Thái đã nghệ thuật đã ảnh hưởng lớn đến sự phát
tạo cho các nhân vật của mình vẻ đẹp của sự triển của văn học hiện đại dân tộc Thái nói
tự nhiên, mộc mạc, mang được hơi thở của chung, loại hình tự sự nói riêng. Đây chính
núi rừng, đồng thời, cũng phù hợp với lối tư là những điều kiện, tiền đề thuận lợi, tạo
duy và tiếp nhận của đồng bào miền núi. điều kiện cho văn học Thái có những bước

chuyển mình khá mạnh mẽ. Nhiều nhà văn
Tuy nhiên, bên cạnh đó, thói quen miêu tả đã tỏ rõ sự nỗ lực, tìm tịi thể nghiệm và đổi
trên cũng khiến cho các nhân vật của các mới trên nhiều phương diện, trong đó có
nhà văn Thái nhiều khi rơi vào tình trạng nghệ thuật xây dựng nhân vật.
đơn điệu, mất đi tính cụ thể, chân thực cần
có của nghệ thuật tự sự hiện đại. Trên thực tế, con người không phải lúc
nào cũng là sự thống nhất một chiều giữa
Một đặc điểm khác cũng dễ nhận thấy, ngoại hình và tính cách. Nhận thức rõ điều
đó là sự thống nhất cao giữa ngoại hình và này, nhân vật trong sáng tác của các nhà văn
tính cách nhân vật. Đặc điểm này vừa có sự hiện đại đã có bộ mặt đa diện hơn. Đó là các
tương đồng vừa có sự khác biệt so với nghệ nhân vật mang ngoại hình đẹp đẽ nhưng
thuật xây dựng nhân vật trong văn học dân nhân cách lại xấu xa như nhân vật Lò Kầm
gian. Trong các tác phẩm văn học Thái cổ và Khốn trong tiểu thuyết Mối tình Mường Sinh
rất nhiều tác phẩm hiện đại, hầu hết các của Vương Trung, Thuỳ Mai trong Cơn lốc
nhân vật được miêu tả ngoại hình đều là đen của cầm Hùng hay Y Sương trong
những con người mang phẩm chất cao quý/ Sương rơi từ núi của Kha Thị Thường,
tốt đẹp. Xây dựng những nhân vật mang vẻ Henri Garment trong Tiếng thét Tồng Lôi
đẹp của “chân, thiện, mỹ”, các nhà văn dân
tộc Thái đã gửi gắm vào trong đó niềm tin của Thái Tâm, V.V.. Ngược lại, có những
vào bản chất tốt đẹp của người dân miền nhân vật tuy ngoại hình khơng ưa nhìn
núi, đồng thời, thể hiện quan niệm nhân sinh nhưng nhân cách lại hết sức tốt đẹp như
trường hợp của ơng Pan (Mơi tĩnh Mường
tích cực và giàu ý nghĩa nhân văn. Trong Sinh'). Nhân vật Lò Kầm Khốn được miêu tả
văn học hiện đại, các nhà văn không chỉ khá kỹ với những nét ngoại hình và biểu
dùng ngoại hình để tơ đậm thêm vẻ đẹp về hiện đẹp về tính cách: “Người tầm thước,
bản chất, tính cách của con người mà cịn mặt mũi sáng sủa, đi đứng ung dung, ăn ở
dùng nó như một phương tiện hữu hiệu để đức độ và khí khái” (Vương Trung 1994:
khắc họa, lột tả bản chất xấu xa của những 89), “một người hiểu biết, ăn nói lịch sự và
kẻ độc ác. Theo đó, trong sự đối sánh tương điềm đạm” (Vương Trung 1994: 35). Ơng là
quan, những nhân vật có tướng mạo đẹp phó chủ tịch xã, “sống nhân hậu, được dân

được cho là những con người mang phẩm tin yêu”. Lời nói của ông bao giờ cũng được
chất, nhân cách cao quý. Ngược lại, những mọi người, từ trưởng bản, chủ tịch xã đến
nhân vật xấu xa, độc ác thường có vẻ bên những người dân bình thường đều nhất mực
ngồi xấu xí, khó ưa. tơn trọng và nghe theo. “Ơng đã nói là đúng,
sáng như bạc đúc” (Vương Trung 1994: 89).
Bên cạnh đó, mặc dù để lại dấu ấn rất Ngay cả Sương, một trí thức sắc sảo cũng
từng có những nhìn nhận tương tự. Thậm
đậm nét nhưng văn học dân gian không phải
là nguồn ảnh hưởng duy nhất tới các nhà
văn. Sự phát triển của đời sống kinh tế xã
hội, sự tiếp xúc, mở rộng giao lưu văn hóa

385 Nguyễn Thị Hải Anh /Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, sổ 3 (2022) 377-391

chí, những ngày đầu mới về bản Chiềng An sức sáng tạo của các cây bút văn xuôi dân
làm thầy giáo, anh vẫn thường tìm đến ơng tộc Thái; mặt khác, làm cho các nhân vật
để nhờ ông chỉ bảo, giúp đỡ. Anh yêu ơn, của họ trở nên “thật” hơn, hấp dẫn hơn,
con gái ông đồng thời cũng là đồng nghiệp đồng thời, cũng là một yếu tố quan trọng
và coi ông như cha. Nhưng rồi, chính anh, đưa văn học dân tộc Thái bắt nhịp sâu hơn
do một sự tình cờ, phát hiện ra Lị Kầm vào dịng chảy văn xi đương đại.
Khốn chính là một kẻ xấu xa phản bội nhân
dân, phản bội tổ quốc. Ông ta cùng một tổ 3.2. Khẳc họa nhân vật qua hành động
chức phản động đang chuẩn bị lên kế hoạch
để cướp và lật đổ chính quyền hịng trục lợi Hành động là một phương diện đặc biệt
cá nhân và thoả mãn giấc mơ làm bá chủ. quan trọng để thể hiện tính cách nhân vật vì
Để thực hiện ý đồ đó, những người này cịn việc làm của mỗi người là căn cứ quan trọng
giết người để bịt đầu mối. Dã tâm và bàn tay có ý nghĩa quyết định nói lên tư cách, lí
nhuốm máu của nhân vật này đã được che tưởng, phẩm chất cũng như những đặc điểm
giấu hoàn hảo bằng một vẻ ngoài đức độ giả thuộc về thế giới tinh thần của người đố.
Hành động được xem như là kết quả cuối

tạo. cùng của quá trình nhận thức, quá trình tâm
lý, quá trình tình cảm. Tuy nhiên, trong các
Ngược lại với Lị Kầm Khốn, ơng Pan tác phẩm tự sự, tính cách nhân vật khơng
xuất hiện trong tác phẩm với dáng điệu của phải ngay từ đầu đã được hình thành trọn
một Chí Phèo: “áo vắt vai, xắn quần ống vẹn. Chính hành động có tác dụng bộc lộ
thấp, ống cao, bước đi chếng choáng” cùng quá trình phát triển của tính cách và thúc
những cơn say, những lời chửi rủa của một đẩy sự diễn biến của hệ thống cốt truyện.
kẻ thất thế, khổ tâm, hận đời “đất cũng chửi, Thông qua các mối quan hệ, sự đối xử giữa
trời cũng chửi, thằng nào cũng chửi! Càng các nhân vật trong những tình huống khác
uống nhiều rượu, ông Pan càng chửi hăng” nhau, người đọc có thể xác định được những
(Vương Trung 1994: 14). Mời người ta ăn, đặc điểm, bản chất của nhân vật. về cơ bản,
ơng lại nói: “Àn đi, dại gi, chó cịn biết ăn người miên núi nói chung thường khơng
nữa là người” (Vương Trung 1994: 55). Thế giỏi bộc lộ mình qua ngơn ngữ. Người Thái
nhưng, ẩn đẳng sau vẻ bề ngoài xộc xệch và cũng vậy. Họ vốn là những con người thật
những lời lê có phần thơ tục đó lại là một thà, đôn hậu, đã nói là làm, nhiều khi làm
con người có trái tim nồng hậu, ngay thẳng, mà khơng cần giải thích gì nhiều. Đối với
u ghét, chính kiến rõ ràng. Hiểu được người miền núi, mỗi hành động, việc làm cụ
nhiệt huyết và tấm lòng của Sương đối với thể có ý nghĩa hơn nhiều những lời hoa mĩ.
người dân và học sinh trong bản, hiểu được Điều này được thể hiện rõ qua hầu hết các
cái hay, cái tốt của việc đi học, từ ác cảm và tác phẩm tự sự của người Thái. Trên những
cản trở lúc ban đầu, ơng đã hết lịng ủng hộ, trang văn, tỉ lệ đối thoại giữa các nhân vật
giúp anh vượt qua những ngày đầu khó khăn khơng nhiều. Thay vào đó, các tác giả dùng
khi mở lóp, dựng trường mới, bảo vệ anh hành động như một phương thức hữu hiệu
trước những lời đồn đại, gièm pha ác ý... để bộc lộ cá tính, bản chất của nhân vật.

Có thể nói, mặc dù cịn chưa thật sắc nét Khảo sát các tác phẩm thuộc loại hình tự
nhưng sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật sự, tôi nhận thấy, hành vi chức năng là kiểu
cũng đã giúp các nhà văn đạt được những hành vi cơ bản, nối bật và xuyên suốt ở hầu
thành công bước đầu đáng khích lệ trong hết các nhân vật. Hành động ăn trộm lợn
nghệ thuật khắc họa ngoại hình nhân vật. rừng do anh Ài-háo săn được của lão Khì-

Điều này, một mặt, phần nào chứng tỏ được

Nguyễn Thị Hải Anh / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 377-391 386

lặc trong Lão trộm lợn rừng (La Quán Miên Bên cạnh kiểu nhân vật mang hành vi
1996), hành động ăn trộm cá trong “luông chức năng như trên, một số nhà văn hiện đại
chip” người khác của lão Lắng-cùng trong cũng đã cố gắng tìm tịi, quan tâm thể hiện
Ma suối (La Quán Miên 1997) hay hành và xem hành động như là một phương diện
động nổ súng toan giết người bịt đầu mối quan trọng để tạo ấn tượng hoặc khắc họa
của Thảu Cương trong Sói mặt người (Cầm một cách chân thực, sinh động và có hiệu
Hùng 1995), v.v. đều là việc làm của kẻ quả tính cách, bản chất nhân vật. Trong sáng
xấu/ác. Những hành động bỉ ổi, dâm ô của tác của Sa Phong Ba, Thái Tâm, nhiều nhân
Sầm Lai, Sầm Ly, Lo Kăm Hạ trong Tiếng vật phơi bày những hành động thể hiện xung
thét Tồng Lôi thể hiện cho lối sống sa đọa và đột có tính chất phổ biến giữa bản chất, tính
nhân cách hèn kém. Hành động run run, hồi cách với địa vị, thân phận xã hội của con
hộp và cẩn trọng của anh trưởng ban bảo vệ người. Đó là những hành động giàu kịch
trong truyện Gói q bí mật (Sa Phong Ba tính, tạo được sự bất ngờ. Đe tạo được cái
1994) mang chức năng môi giới, dẫn dụ hồn trong tác phẩm, các biện pháp tương
người đọc đi đến với kết cục của tác phẩm. phản, tăng cấp và phóng đại được các nhà
Ngược lại, hành động cứu hổ con bị thương,
chăm sóc nó cẩn thận rồi thả nó về với tự văn sử dụng như một phương thức hữu hiệu
nhiên bao la của Xáo-ngam trong Tình yêu trong việc miêu tả hành động của nhân vật.
cùa hổ (La Quán Miên 1996) hay động quay
trở về đón cha mẹ ni già yếu về phụng Đọc Cú điện thoại bỏ ngỏ, độc giả hắn sẽ
dưỡng để đền đáp công lao dưỡng dục của bật cười trước một loạt các hành động vội vã
cô Xáo-hiềm trong Con nuôi (La Quán Miên đến cuống cuồng của trưởng phòng Tòng
1997) v.v. lại là những hành động mang sau khi nhận được cú điện thoại của thủ
chức năng phô diễn những nét phẩm chất tốt trưởng. Đầu tiên là việc “xỏ quần trái”, “cài
đẹp, cao quý của con người. Họ là những cúc áo lệch” rồi đến hành động vội vã phóng
nhân vật đại diện cho lòng tốt, sự cao chiếc xe thủng săm và bị “ngã lộn nhào” (Sa

thượng. Những hành động của họ không bị Phong Ba 1994: 18), V.V.. Thủ pháp tăng cấp
ảnh hưởng, chi phối nhiều từ tâm lí mà được được khai thác tối đa. Thông qua những
thể hiện gần như theo những công thức đã hành động đó, bản chất của nhân viên ln
vạch sẵn. coi “rắm thủ trưởng thơm” (ý dùng của nhà
văn Sa Phong Ba trong tác phẩm) của nhân
Có thể nói, trong một thời gian dài, hành vật được bộc lộ một cách rõ nét, hài hước và
đầy ấn tượng.
vi chức năng là một trong những phương
thức đơn giản và khá hiệu quả giúp các tác Những ai đã đọc Tiếng thét Tồng Lôi của
giả dân gian cũng như các nhà văn hiện đại Thái Tâm có lẽ sẽ khó có thể quên ấn tượng
dân tộc Thái chuyển tải thành công những về hành động hết sức dã man của quan đại lí
thơng điệp nhân sinh và nội dung thẩm mĩ Henri Garment đối với tri phủ Hoàng Thúc
của các tác phẩm. Cách xây dựng hình Lân. Trong cơn thịnh nộ không thể kiểm
tượng nhân vật này cũng phù họp với tầm soát sau khi nghe tri phủ báo cáo chi tiết về
đón nhận của độc giả miền núi. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa Tồng Lôi, ngài quan đại lí
việc tiếp tục kéo dài phương thức xây dựng bỗng bất ngờ “xông ngay tới chỗ Hoàng
nhân vật này trong nhiều tác phẩm văn Thúc Lân, túm lấy cổ áo của tri phủ kéo
chương hiện đại phần nào đã khiến cho nhân đứng lên, rồi lấy những móng vuốt của con
vật thiếu đi tính chân thực và chiều sâu tâm hố được treo vào mười sợi dây xà tích bạc,
lí cần thiết. từng chiếc, sắc như dùi nhọn hoắt, rạch
thẳng lên ngực Hoàng Thúc Lân! Trong cơn

387 Nguyễn Thị Hải Anh / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 377-391

bực tức đến tột độ,... quan đại lý liên tiếp 623-624). Thì ra, đàng sau một chánh tổng
dùng từng chiếc nanh hổ nhọn sắc, cào rạch quyền lực đầy người, hét ra lửa, ln hung
thẳng vào ngực của tri phủ Hồng Thúc Lân hàng, hống hách, sẵn sàng dí súng vào mặt
những vết sâu hoắm và dài suốt từ ngực đến người không chịu tuân lệnh hóa ra lại là một
bụng và cả sau lưng nữa... để cho hả giận con người hèn nhát, tham sống sợ chết.
(...), cho tận đen khi máu đã chảy khắp

Việc miêu tả hành động nhân vật vừa
người của quan tri phủ Hoàng Thúc Lân, sống động, vừa chân thực như trên cho thấy
quan đại lí mới dừng tay, hậm hực một lúc khả năng quan sát tinh tế, sắc sảo của các
nữa mới chỉ thẳng vào mặt Hoàng Thúc nhà văn. Họ đã nắm được cái thần, bắt trúng
Lân” (Thái Tâm 2014: 546-547). Hành động huyệt của nhân vật để “tóm sống hắn, tiêu
này được quan đại lí thực hiện ngay tại diệt hắn”. Điều này đã góp phần tạo nên một
phịng làm việc có treo lá cờ tam tài to tướng sức hấp dẫn mới trong nghệ thuật miêu tả
và khẩu hiệu “LIBERTÉ, ESGALITE, hành động nhân vật của loại hình tự sự Thái.
FRATERNITE” (tự do, bình đẳng, bác ái)
của người Pháp. Nó trái ngược hồn tồn 3.3. Khắc họa nhăn vật qua thế giới nội
với khẩu hiệu mà nước Pháp vàn minh vẫn tâm
luôn đề cao và coi đó là biểu tượng văn hóa
dân tộc; trái ngược với vẻ bề ngoài “cỏ vẻ Đe khắc họa nhân vật trong tính tồn vẹn
hiền lành với một khuỏn mặt trắng trẻo, ln cùa nó, bên cạnh ngoại hình và hành động
mỉm cười như thân thiện với tất cả mọi thì thế giới nội tâm nhân vật là một yểu tố
người” của y (Thái Tâm 2014: 524). Đó đặc biệt quan trọng. Nội tâm là khái niệm
không phải là hành động của một con người chi toàn bộ những trạng thái, suy nghĩ, cảm
mà là hành động của một con thú trong cơn xúc, cảm giác, những phản ứng tâm lý của
cuồng nộ. Nó khiến chúng ta phải rùng mình bàn thân nhân vật trước cảnh ngộ và tinh
huống mà nhân vật chứng kiến trên bước
ghê sợ. Thủ pháp tương phản đã được sử đường đời của mình. Muốn khai sinh cho
dụng một cách hiệu quả và gây ấn tượng một nhân vật phải nắm bắt được tâm lý của
mạnh. Do vậy, hành động của nhân vật, tự nhân vật. Bởi vậy, đây là một vân đề chủ
bản thân nó đã là một lời tơ cáo sâu sắc bản yếu mà văn học rất quan tâm khi xây dựng
chất độc ác, phi nhân tính của kẻ xâm lược. và khắc họa tính cách nhân vật. Đây cũng
chính là một thử thách đối với nhà văn bởi
Cũng trong tác phẩm này, nhưng ở một nội tâm của con người là một thế giới tinh
góc nhìn khác, hành động của quan chánh thần phong phú và phức tạp, chứa đựng
tổng Lo Kăm Hạ sau khi bị trúng tên của nhiều bí ẩn khó có thể nắm bắt và khám phá
nghĩa binh Tồng Lôi cũng góp phần lột trần hết được.

bản chất của nhân vật: “Ông ngã sấp xuống
vệ cỏ, nhưng vẫn cố trườn đi hệt như một Trên thế giới, độc thoại nội tâm là một
con cóc bị đánh trúng lưng, đang vẫn trườn thủ pháp nghệ thuật được sừ dụng khá sớm.
đi được bằng bốn chân, nhưng không nhảy Nó xuất hiện từ kịch cơ đại và trở thành một
đi được nừa, V.V.. Nồi khiếp sợ đã khiến Lo hiện tượng đặc biệt trong kịch Shakespeare,
Kăm Hạ quên cả vết tên nỏ đang đau nhức ơ Việt Nam, độc thoại nội tâm là một ưong
và đang ri máu đàng sau lưng, hắn cứ thế bò những vấn đề lí luận được các nhà nghiên
đi, hướng mãi về phía bản Cung, khơng dám cửu hết sức quan tâm trong nhiều công trình
ngóc đầu lên, vãi đái ra ướt sũng cả quần (Lê Bá Hán và cộng sự 2011: 122; Lại
rồi... nhưng Lo Kăm Hạ vẫn cứ bò đi, để Nguyên Ân 2004: 126; Nguyễn Hải Hà
mặc phía sau ra sao thì ra” (Thái Tâm 2014:

Nguyễn Thị Hái Anh / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân vãn, Tập 8, số 3 (2022) 377-391 388

1992: 142; Nguyễn Thái Hòa 2000: 77). cịn có cơ hội được tiếp xúc với nền văn hóa,
Mặc dù cách diễn đạt có thể có những khác văn học khác của các dân tộc khác ở trong
biệt song các tác giả đều thống nhất khẳng cũng như ngoài nước. Cùng với quá trình
giao lưu, tiếp biến, nhiều nhà văn đã nỗ lực
định: độc thoại nội tâm là lời nói sâu kín bên học hỏi, tìm tịi đổi mới để mở rộng biên độ,
trong tâm hồn nhân vật, là lời nhân vật tự nội dung phản ánh, cách viết và hình thức
nói với chính minh. Thông qua độc thoại nội tác phẩm. Trong số đó khơng thể khơng kể
tâm, những suy tư, trăn trở, những cảm xúc, đến sự đổi mới cách viết và một yếu tố làm
uẩn khúc của nhân vật - điều mà không ai có cho nhiều tác phẩm tự sự thành cơng về
thể biết, có thể hiểu và chia sẻ dần được nghệ thuật. Đó là sự tìm tịi, đổi mới và sử
phơi lộ. Nhờ vậy, trong tác phẩm, độc thoại
nội tâm khiến nhân vật trở nên chân thực và dụng nghệ thuật, độc thoại nội tâm khéo léo
sinh động. Nó tạo cảm giác như nhàn vật của các nhà văn, đặc biệt là các tác phẩm
đang tồn tại giữa cuộc đời, đối mặt với xuất bản từ thập niên 1990 trở về sau như
những vấn đề phức tạp cùa cuộc sống, do đó tiểu thuyết Tiếng thét Tồng Lôi (Thái Tâm),
phải luôn ý thức trăn trờ, suy nghĩ. Có thể Đất bản què cha, Mối tình Mường Sinh

(Vương Trung) và trong một số tác phẩm
nói, khám phá độc thoại nội tâm chính là tìm của các nhà văn khác như Sa Phong Ba, La
cách cắt nghĩa, lí giải nhân vật, từ đó, có Quán Miên, V.V.. So với tự sự dân gian, độc
được cách hiểu đúng và thấu đáo về tác thoại nội tâm trong các tác phẩm tự sự trong
phẩm. văn học hiện đại dân tộc Thái phong phú
hơn về so lượng, về chức năng biểu đạt và
Khắc họa nhân vật qua thế giới nội tâm khuynh hướng thê hiện, đa dạng hơn về cấu
không phải là thế mạnh của các tác giả dân trúc. Trong truyện vừa Xuôi bè (La Quán
tộc Thái. Nhiều tác phẩm tự sự Thái thường Miên), độc thoại nội tâm xuất hiện 13 lần;
chỉ chú trọng đến hành động, sự kiện với trong Đất bàn quê cha, Mối tình Mường
những nội dung cốt yếu được trình bày theo sinh (Vương Trung) làn lượt là 78 và 25 lần,
trục thời gian tuyến tính mà không phát triển Tiếng thét Tồng Lôi (Thái Tâm) là 63 lần,
dài dịng, khơng có yếu tố thừa, yếu tố tâm lí
V.V..
của nhân vật chưa được quan tâm một cách
thích đáng. Nhân vật khơng có nhiều cơ hội Ớ Xuôi bè, các đoạn độc thoại nội tâm
để bộc lộ thế giới nội tâm của mình. Do vậy, chủ yếu là của nhân vật cầm Bá Khảng với
nhiều nhân vật trong các tác phẩm thuộc loại những biểu hiện đa dạng, bao gồm cấu trúc
hình tự sự của văn học dân tộc Thái thiếu đi hỏi, cấu trúc diễn giải và cấu trúc liệt kê.
chiều sâu tâm lí cần thiết, đồng thời, phần Trong 13 lần xuất hiện, cấu trúc hỏi được sử
nào cũng làm giảm đi sức hấp dẫn. Tuy vậy, dụng nhiều nhất. Có khi là những câu hịi
điều này khơng có nghĩa là, trong văn xi đầy hoài nghi thể hiện tâm trạng hoang
dân tộc Thái khơng có những tác phẩm miêu mang, hoảng loạn và những suy nghĩ, nhận
tả tâm lí thành cơng, đặc biệt ở các tác phẩm thức lệch lạc của nhân vật. Có khi là sự đấu
có cốt truyện tâm lí. tranh nội tâm gay gắt khi phải đưa ra quyết

Do những đặc điểm riêng về hoàn cảnh định, lựa chọn giữa việc bỏ bản ra đi trả thù
xã hội - lịch sử, nền văn học hiện đại dân tộc cho cha hay ở lại bên người u và con gái.
Thái nói chung, văn xi dân tộc Thái nói Có khi là tâm trạng hoang mang, lo sợ mơ
riêng ra đời muộn. Điều này là thách thức hồ trước một tương lai mù mịt và tâm trạng

song đồng thời cũng là cơ hội đối với một lo lắng cho người thân. Trong tác phẩm, cấu
nền văn học còn non trẻ. Bên cạnh vốn văn trúc này được La Quán Miên sử dụng ở giai
hóa, văn học truyền thống, các nhà văn Thái

389 Nguyễn Thị Hài Anh / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập8, số 3 (2022) 377-391

đoạn đầu, khi cầm Bá Khảng đang hết sức cuốn minh ... giờ mà gặp lão ta thì...” (La
Quán Miên 2014: 100); là mặc cảm tội lỗi:
hoang mang, dao động. Trước những thông “Bố mình đánh ơng Lộc Kim Nài. Trách gì
tin thất thiệt về cha do bọn phản động cung ông ngãn cản Y Điêu và mình lấy nhau” hay
cấp, anh thanh niên mới lớn, chưa đủ kinh là cảm giác xót xa, ân hận: “Cái chết của bố
nghiệm sống và hiểu biết về cuộc đời để có là bài học cho con đấy, bố ơi!”. Có khi, nó
thể phân định một cách rõ ràng trắng đen xuất hiện từ những trải nghiệm của nhân vật
trước những biến cố mà minh gặp phải. Sự thông qua những lời ân hận, day dứt về quá
bồng bột của tuổi trẻ đã dần anh đến những khứ lầm lỗi, về những suy nghĩ thiển cận,
hành động sai lầm. Việc sử dụng cấu trúc thiếu thận trọng của thời trai trai trẻ: “Lẽ ra
hỏi ở đây đã giúp nhà văn thể hiện một cách mình không phai tha hương, dấn thân vào
chân thực, sinh động những tâm trạng và bước đường phiêu lưu, mạo hiểm, ôm mộng
diễn biến tâm lí hết sức phong phú của nhân báo thù mà khơng biết trả thù vì cái gi, trả
vật, từ ngạc nhiên, đau khổ, lo lắng cho đến thù ai; ơm mộng đi tìm bố, một người bố
mình không biết mặt (...). Đúng là đường
những dao động, băn khoăn, trăn trở. Nhờ quang không đi đâm quàng bụi rậm” (La
vậy, độc thoại nội tâm ở đây cũng tạo ra Quán Miên 2014: 79), V.V.. Trong tác phẩm,
được sự cuốn hút tự nhiên đối với người cấu trúc diễn giải chủ yếu được sử dụng sau
đọc. khi Khảng biết được sự thật về cái chết của
cha minh. Ở đây, nhân vật khơng cịn bị ám
Cấu trúc liệt kê được sử dụng để miêu tả ảnh hay hoang mang bời những hoài nghi
trạng thái sung sướng, tâm lí phấn khích của nữa mà thay vào đó là nỗi buồn, sự ân hận
nhân vật khi anh tưởng tượng ra cảnh mình về một thời lầm lồi đã qua. Có thê nói, việc
sẽ làm gì, nói như thế nào khi gặp bố: sử dụng cấu trúc này trong các đoạn độc

“Sướng quá chừng. “Bố giờ cũng đã bước thoại nội tâm đã góp phần thể hiện những
sang tuồi 50. Chắc bố vẫn mạnh. Mẹ bảo biến chuyển và các trạng thái tâm lí khá tinh
mình rất giống bo. Neu thế, gặp bố mình sẽ tế của nhân vật.
nhận ra ngay. Mình sẽ nói: “Chào bố, con là
Khảng, con trai của bố đây!”. Mình sẽ ôm Có thể nói, bằng việc sử dụng hợp lí các
chầm lấy bố. Bố sẽ bất ngờ, sướng quá mà cấu trúc trong nghệ thuật độc thoại nội tâm,
rơi nước mat. Mình sẽ nói: “Mẹ vẫn cịn nhà văn đã góp phần quan trọng vào việc
khỏe...”. Mình sẽ địi bố tha thứ cho mẹ, vì khắc họa và làm nổi bật tính cách của nhân
mẹ đã đi bước nữa. Nhưng mẹ đã nuôi con vật. Thông qua những đoạn độc thoại nội
khôn lớn...” (La Quán Miên 2014: 90). Nỗi tâm, quá trình ý thức, tự vấn lương tâm đầy
khát khao tình phụ tử của người con chưa dằn vặt mâu thuẫn để vươn lên tầm nhận
từng được gặp cha được bộc lộ tự nhiên và thức mới, khát vọng hồn thiện nhân cách
cảm động thơng qua những dịng độc thoại. của nhân vật được bộc lộ một cách tự nhiên.
Nó thể hiện nét tính cách thật thà, đơn hậu Cũng thơng qua đó, độc giả có cơ hội được
của người miền núi. trải nghiệm và thấy được “con người bên
trong” của nhân vật. Tuy vậy, cũng cần phải
Bên cạnh cấu trúc hỏi và cấu trúc liệt kê thấy rằng, nghệ thuật độc thoại nội tâm ở
thì cấu trúc diễn giải cũng được sử dụng một đây mới chỉ là những thành cơng bước đầu
cách hợp lí để giúp nhân vật bộc lộ những cùa La Quán Miên. Trên thực tế, theo dõi
suy nghĩ, trăn trở riêng của minh. Khi phát tác phẩm, người đọc vẫn có cảm giác, nhân
hiện ra mình bị cầm Bá Nhến lừa, tâm trạng vật của ông vẫn thiếu đi một chiều sâu tâm lí
của Khảng liên tục có những diễn biến phức
tạp. Có khi, đó là cảm giác tức giận: “Đúng
là hắn đã đặt điều, dựng chuyện để dụ dỗ, lôi

Nguyễn Thị Hái Anh /Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, só 3 (2022) 377-391 390

Cần thiết. Nhân vật có mâu thuẫn, có đấu hiện ý thức trân trọng, tiếp thu, kế thừa các
tranh song chưa đạt đến mức gai góc, quyết giá trị nghệ thuật truyền thống, góp phần
liệt cũng như chưa đủ tinh tế và sâu lắng đế khắc sâu và làm đậm đà thêm bản sắc văn

thật sự chinh phục được trái tim độc giả như hóa dân tộc cho các tác phẩm văn học hiện
trong một số sáng tác đương đại của nhà văn đại, đồng thời, cũng giúp cho văn học trở
người Tày Cao Duy Sơn hay sáng tác của nên gần gũi, dễ tiếp cận hơn với các độc giả
Thạch Lam, Nam Cao, những nhà văn người miền núi. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng quá sâu
Kinh trước Cách mạng Tháng tám năm của tư duy nghệ thuật cổ đến cách xây dựng
1945. Đây đồng thời cũng là hạn chế chung nhân vật trong văn học hiện đại, rõ ràng, đã
trong nghệ thuật sử dụng độc thoại nội tâm trở thành một lực cản không nhỏ, làm chậm
của các nhà văn hiện đại dân tộc Thái. Một quá trình phát triển của loại hình tự sự hiện
nghệ sĩ tài năng bao giờ cũng là một bậc đại. Sau hành trình hơn nửa thế kỷ vận đơng,
thầy trong việc nắm bắt và diễn tả tâm lí con phát triển, loại hình tự sự văn học hiện đại
người. Miêu tả chân thực, tinh tế đời sống dân tộc Thái vẫn chưa có được một “con
nội tâm nhân vật là điểm thử thách tài nghệ người này” riêng biệt, không trộn lẫn, chưa
nhà văn. về điểm này, có lẽ, độc giả cịn có một tác giả hay tác phẩm nào thật sự ghi
phải tiếp tục trông đợi vào sự cố gắng nhiều được dấu ấn đậm nét trong lịng độc giả.
hơn nữa của một nền văn xi còn non trẻ. Đây là một thách thức đòi hỏi sự quan tâm
vào cuộc không chỉ ở cấp vĩ mô đối với các
4. Kết luận nhà quản lí mà cịn đòi hỏi tinh thần trách
nhiệm, ý thức tự chủ và sự sáng tạo của mỗi
Nói tóm lại, cùng với sự vận động, phát nhà văn dân tộc Thái. Theo đó, loại hình
triển và hồn thiện của các thể loại, thế giới mới có thể đạt được những bước tiến sâu
tinh thần và tâm lí nhân vật trong các tác hơn và vị trí vững chắc hơn trong văn đàn
phẩm thuộc loại hình tự sự văn học hiện đại dân tộc.
dân tộc Thái đang dần được quan tâm thể
hiện nhiều hơn. Điều này đã phần nào giúp Tài liệu trích dẫn
phá vỡ tính đơn thanh, đơn cực của nhân
vật, đồng thời, thể hiện những tìm tịi, sáng Aristote. 1999. Nghệ thuật thơ ca (in chung cùng
tạo của các nhà vãn dân tộc Thái. Song về Lưu Hiệp). Hà Nội: Nhà xuất bàn Văn học.
cơ bản, nghệ thuật xây dựng nhân vật của
loại hình vẫn chịu sự ảnh hưởng đậm nét từ Bùi Việt Thắng. 1997. “Độc đáo La Quán Miên”,
tư duy nghệ thuật xây dựng nhân vật trong in trong phụ trưcmg Văn nghệ Dân tộc và Miền

văn học dân gian và nghệ thuật xây dựng núi, Báo Văn nghệ 3.
nhân vật trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
giai đoạn 1945-1975 như: nguyên tắc quy Cao Duy Sơn. 2002. Những đám mây hình người.
phạm hóa nhân vật; hệ thống nhân vật được Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc.
phân chia thành hai tuyến thiện/ác đối lập rõ
rệt; nhân vật được chú trọng miêu tả qua Cao Duy Sơn. 2012. Đàn trời. Hà Nội: Nhà xuất
hành động bên ngoài, yếu tố nội tâm ít được bản Hội Nhà văn.
quan tâm miêu tả nên nhân vật cũng thường
thiếu đi những nét cá tính riêng. Điều đó thể Cao Huy Đỉnh. 1974. Tìm hiêu tiến trình văn học
dân gian Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản
Khoa học xã hội.

Cầm Hùng. 1995. Con thuyền ỉá (Tập truyện
ngắn). Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân.

391 Nguyễn Thị Hải Anh / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 377-391

Cầm Hùng. 1998. Cửa hàng dược trong nghĩa quyển 2. Hà Nội: Nhà xuất ban Khoa học xã
trang (tập truyện ngắn). Hà Nội: Nhà xuất bàn hội.
Văn hoá dân tộc. Nguyên An. 1997. “Một số ghi nhận về cách viết
cùa La Quán Miên”, Tạp chí Văn hóa các dân
Cầm Hùng. 2000. Những người con cùa bản tộc 12: 21-23.
(trường ca). Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hoá dân Nguyễn Hài Hà. 1992. Thi pháp tiểu thuyết
tộc. L. Tônxtôi. Hà Nội: Nhà xuất bàn Giáo dục.

Cầm Hùng. 2008. “Cảm nhận khi đọc “Đất bản Nguyễn Thái Hòa. 2000. Những vấn để thi pháp
quê cha” cùa Vương Trung”; Tạp chí Suối reo cùa truyện. Hà Nội: Nhà xuât bàn Giáo dục.
6: 85-86.
Nhiều tác giả. 1997. Văn học các dân tộc thiếu so

Cầm Hùng. 2009. Cơn lốc đen (tiểu thuyết). Hà Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hoá dân
Nội. Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc. tộc.

Đồ Bình Trị. 1991. Văn học dân gian Việt Nam (tập Pospelov Gennady Nhicolaevich (chủ biên). 1985.
1). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. Dan luận nghiên cứu văn học, tập 1, Hà Nội:
Nhà xuất bản Giáo dục.
Hà Văn Thư . 1996. về văn hoá văn nghệ các dán
tộc thiếu số. Hà Nội: Nxb Văn hoá dân tộc Phương Lựu, Trần Đinh Sừ, Nguyễn Xuân Nam,
Lê Ngọc Trà, La Khác Hoà, Thành Thế Thái
Kha Thị Thường. 2002. Lũ núi (Tập truyện ngẳn). Bình. 2012. Lí luận văn học (tái bàn lần thứ 5).
Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc. Hà Nội: Nhà xuất bàn Giáo dục.

Kha Thị Thường. 2008. Chín bậc cầu thang. Hà Sa Phong Ba. 1980. Những bông ban tỉm (tập truyện
Nội: Nhà xuất bãn Phụ nữ. ngắn). Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động.

Kha Thị Thường. 2008. Mùa hoa lù cù (tập truyện ngắn. Sa Phong Ba. 1994. Vùng đồi gió quẩn (Tập
Hà Nội: Nhà xuất bản Kim Đồng. truyện ngắn). Hà Nội: Nhà xuất bàn Văn hoá
dân tộc.
La Quán Miên. 1996. Hai người trở về bản
(Truyện và kí). Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học. Sa Phong Ba. 2005. Chuyện dưới chân núi Hồng
Ngài (tập truyện ngắn). Hà Nội: Nhà xuất bản
La Quán Miên. 1997. Vùng đất hoa kờ mạ (Truyện và Vãn hoá dân tộc.
kí). Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.
Sa Phong Ba. 2010. Nhà ấy có ma xỏ. Hà Nội:
La Quán Miên. 2000. Bàn nhỏ tuồi thơ (truyện vừa). Nhà xuất bàn Văn hố thơng tin.
Hà Nội: Nhà xuất bản Kim Đồng.
Tơ Hồi. 1977. số tay viết văn. Hà Nội: Nhà xuất
La Quán Miên. 2003., Năm học đã qua (truyện bân Tác phẩm mới.
vừa). Nghệ An: Nhà xuất bản Nghệ An.
Thái Tâm. 2014. Tiếng thét Tồng Lôi. Nhà xuất

La Quán Miên. 2014. Xuôi bè. Nhà xuất bàn Nghệ bản Nghệ An.
An.
Trần Đình Sự (chù biên). 2007-2008. Tự sự học
La Quán Miên.1998. Trời đỏ (Truyện và kí). Nghệ (Một số vấn đề lí luận và lịch sử - 2 phần). Hà
An: Nhà xuất bàn Nghệ An. Nội: Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.

Lại Nguyên Ân. 2004. 150 thuật ngữ văn học. Hà Vương Trung. 1994. Mối tình Mường Sinh. Hà
Nội: Nhà xuất bản Đại học quốc gia. Nội: Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc.

Lê Bá Hán, Trần Đinh Sử, Nguyễn Khắc Phi. Vương Trung. 2007. Đất bản quê cha. Hà Nội:
2011. Từ điển thuật ngừ văn học (tái bàn lần Nhà xuất bàn Văn hoá dân tộc.
thứ 5). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.
Vương Trung. 1967. Ing Eng (Truyện thơ). Hà
Lê Ngọc Trà. 2007. Văn chương, thâm mỹ và văn Nội: Nhà xuất bản Văn học.
hóa. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.

Nơng Quốc Chấn (chú biên). 2004. Tinh tuyển văn
học Việt Nam - Văn học dân tộc ít người, tập 2,


×