Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân tích và đánh giá các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.76 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................1
I. Phân tích các quy định pháp luật........................................................................1

1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ................................................................1
2. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra...........4
3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại...................................................................5

3.1. Trách nhiệm của chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ....................................................................................5
3.2. Trách nhiệm của người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy
hiểm cao độ.........................................................................................................7
4. Điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự.........................................................9
4.1 Có thiệt hại xảy ra........................................................................................9
4.2 Có mối quan hệ nhân quả giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao
độ và thiệt hại xảy ra..........................................................................................9
4.3 Có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật......................................................10
II. Đánh giá các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra............................................................................11
KẾT LUẬN.............................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................14

MỞ ĐẦU
Trong thế giới tự nhiên, có những vật ln tiềm ẩn trong nó khả năng gây thiệt
hại cho thế giới vật chất xung quanh mà bản thân con người rất khó kiểm sốt được
gọi là nguồn nguy hiểm cao độ. Tự bản thân nguồn nguy hiểm cao độ luôn tạo ra
mối nguy hiểm cho những người xung quanh, mặc dù chủ sở hữu, người chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đã áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhưng
cũng thể kiểm soát được một cách tuyết đối khả năng gây thiệt hại của nguồn nguy
hiểm cao độ. BLDS đã quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy


hiểm cao độ là một “loại trách nhiệm dân sự nâng cao”. Để tìm hiểu rõ hơn các quy
định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra, em xin chọn đề bài số 19: “Phân tích và đánh giá các quy định pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”. Do khả năng
nhận thức và phân tích vấn đề cịn non yếu nên bài viết này khơng thể tránh khỏi
nhiều sai sót và hạn chế, vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của thầy, cơ để
bài làm của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin cảm ơn.

NỘI DUNG

I. Phân tích các quy định pháp luật.
1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ.

Về khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ, khoản 1 Điều 601 BLDS quy định:
“Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ
thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy,
chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật
quy định”. Khoản 1 Điều 601 năm 2015 kế thừa hoàn toàn quy định tại khoản 1
Điều 623 BLDS năm 2005. Các nhà làm luật Việt Nam không đưa ra khái niệm thế

1

nào là nguồn nguy hiểm cao độ mà đã liệt kê các nguồn nguy hiểm cao độ. Theo
đó, Điều luật liệt kê những nguồn nguy hiểm cao độ sau:

- Phương tiện giao thông vận tải cơ giới: gồm phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ như ơ tơ, máy kéo, rơ mc hoặc sơ mi rơ mc được kéo bởi ơ tơ, máy
kéo, xe mô tô hai bánh, xe mô tô băn bánh, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các
loại xe tương tự (khoản 18 Điều 3 Luật giao thông đường bộ 2008); các phương
tiện giao thông đường thủy như tàu, thuyền, cấu trúc nổi khác (khoản 7 Điều 3 Luật

giao thông đường thủy nội địa 2004); các phương tiện giao thông đường hàng
không gốm máy bay, trực thăng, tàu lượn, khí cầu và các thiết bị bay khác (khoản 1
Điều 13 Luật hàng không dân dụng Việt Nam 2006); các phương tiện giao thông
đường sắt là đầu máy, toa xe, toa xe động lực, phương tiện chuyên dùng di chuyển
trên đường sắt (khoản 26 Điều 3 Luật đường sắt 2017).

- Hệ thống tải điện: được hiểu là một cấu trúc được thiết kế, lắp đặt hoàn
chỉnh giữa máy biến áp và đường dây tải điện cùng một số thiết bị khác nhằm cung
cấp điện đến nơi tiêu thụ.

- Nhà máy cơng nghiệp: là nơi lắp đặt máy móc, trang thiết bị nhằm phục vụ
cho hoạt động sản xuất hàng hóa.

Theo quy định tại Điều 601 BLDS 2015 thì khơng phải phương tiện giao
thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp trong bất cứ trường
hợp nào cũng là nguồn nguy hiểm cao độ, những đối tượng này được coi là nguồn
nguy hiểm cao độ khi đang hoạt động. Phương tiện giao thông vận tải cơ giới được
coi là hoạt động khi đang di chuyển trên đường bằng động cơ của chính phương
tiện đó hoặc khơng di chuyển nhưng động cơ của phương tiện lại đang ở chế độ
mở. Đối với hệ thống tải tiện thì phải có dịng điện chạy qua mới được coi là đang
hoạt động. Còn nhà máy công nghiệp đang hoạt động tức là nhà máy đang trong

2

quá trình vận hành sản xuất. Trong trường hợp phương tiện giao thông cơ giới, hệ
thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang không hoạt động, tức là đanh ở trạng thái
tĩnh thì khơng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ.

- Vũ khí: là những phương tiện được sử dụng với mục đích sát thương nhanh.
Vũ khí thường được sử dụng trong chiến tranh, dẹp bạo loạn, truy bắt tội phạm…

bao gồm: vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn… (khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh
quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ).

- Chất nổ: là những chất có tính chất dễ phát nổ với mức độ mạnh, nhanh tỏa
nhiệt và ánh sáng như thuốc nổ, thuốc pháp, thuốc súng…

- Chất cháy: được hiểu là những chất tồn tại dưới dạng khí, lỏng, rắn có tính tự
bốc chạy khi tiếp xúc với oxy trong khơng khí, nước hoặc dưới tác động của nhiệt
như photpho, xăng, dầu, cồn, ga…

- Chất độc: là những chất khi thâm nhập vào cơ thể con người, động thực vật
hay môi trường tự nhiện gây ra những phản ứng nguy hiểm do đặc tính độc tố của
những chất đó.

- Chất phóng xạ: là chất phát ra bức xạ do quá trình phân rã hạt nhân, chuyển
mức năng lượng hạt nhân, có hoạt độ phóng xạ riêng hoặc tổng hoạt độ lớn hơn
mức miễn trừ (khoản 8 Điều 3 Luật năng lượng nguyên tử 2008); chất phóng xạ có
khả năng sát thương rất cao và trên một diện rộng, có thể gây ra tình trạng nhiễm
xạ đối với người, động thực vật và môi trường sống. Việc xử lý, tiêu hủy, hạn chế
gây ô nhiễm mội trường của các chất phóng xạ là rất khó khăn, phức tạp và đòi hỏi
phải xử lý trong một thời gian dài.

- Thú dữ: là động vật bậc cao, có lơng mao, có tuyến vú, ni con bằng sữa,
rất hung dữ như hổ, báo, sư tử, gấu… Đậy là những động vật tiềm ẩn sự nguy hiểm,
có thể gây ra thiệt hại lớn về người và tài sản. Thú dữ là những động vật có tính

3

chất nguy hiểm phải thuộc lớp thú thì mới được coi là nguồn nguy hiểm cao độ.
Tuy nhiên, thực tiễn có nhiều động vật khơng thuộc lớp thú nhưng lại tiềm ẩn mối

nguy hiểm như: rắn độc, cá sấu, trăn,… Đây là những động vật mang tính hoang
dã, chưa được thuần hóa và có tính nguy hiểm cao. Bởi vậy, khi những động vật
này gây ra thiệt hại cần áp dụng tương tự Điều 601 để giải quyết việc bội thường
thiệt hại.

Các nhà làm luật không nêu khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ mà liệt kê
những trường hợp được coi là nguồn nguy hiểm cao độ để chúng ta khơng phải
hình dung q lan man mà chỉ cần biết rõ nguồn nguy hiểm cao độ là những trường
hợp cụ thể nào. Từ những đối tượng liệt kê trên chúng ta thấy rằng nguồn nguy
hiểm cao độ là những vật thể, hay chất thể tồn tại trong tự nhiên, xã hội mà trong
qua trình tồn tại, hoạt động của nó có tiềm tàng gây ra thiết hại về tính mạng, tài
sản cho những người xung quanh. Chính tính chất nguy hiểm của những đối tượng
này trong q trình tồn tại và hoạt động địi hỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu, trông
giữ, bảo quản, sử dụng nguồn nguy hiểm cao đội phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy
định cảu pháp luật liên quan.

2. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng là

một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Do
vậy mà các nguyên tắc trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra cũng xuất phát từ những nguyên tắc chung đó. Theo Điều 585 BLDS
2015 việc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải tuân theo
các nguyên tắc sau:

Thứ nhất, thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Việc bồi thường
xuất phát từ nguyên tắc công bằng, thiệt hại bao nhiêu thì mức bồi thường sẽ là bấy
nhiêu. Và việc bồi thường phải kịp thời cho người bị thiệt hại nhằm khắc phục tình

4


trạng về tài sản của người bị thiệt hại, tạo điều kiện cho họ khắc phục tài sản khi bị
thiệt hại. Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bao gồm những chi phí hợp
lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại.

Thứ hai, người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý
mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
Điều này nhằm tạo ra tính khả thi trong việc thực hiện bồi thường thiệt hại trên
thực tế. Vì có rất nhiều trường hợp mà khi mức thiệt hại quá lớn so với khả năng
kinh tế của người liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra, thì họ không thể thực hiện việc bồi thường cho chủ thể kia do
khơng đủ tài chính để chi trả.

Thứ ba, khi mức bồi thường không cịn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt
hại hoặc người gây thiệt hại có quyền u cầu tịa án hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường. Việc thay đổi mức bồi thường sẽ căn cứ
vào yêu cầu của các bên và thực tế cần phải sự thay đổi mức bồi thường và do Tịa
án xác định. Mức bồi thường có thể tăng hoặc giảm tùy theo việc xác định đó.

3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
3.1. Trách nhiệm của chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ.

Theo khoản 2 Điều 601 quy định: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao
cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác”.

Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại khi nguồn nguy
hiểm cao độ gây thiệt hại. Chủ sở hữu là người được thực hiện các quyền năng đối

với tài sản, trong đó có quyền khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài

5

sản. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ được chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối
với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình nhưng khơng được gây tồn hại tới lợi ích
cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Vì vậy, nếu nguồn nguy
hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác khi chủ sở hữu trực tiếp chiếm hữu, sử
dụng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về chủ sở hữu của nguồn nguy
hiểm cao độ. Chủ sở hữu có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả
khi không trực tiếp chiếm hữu, sử dụng tài sản. Đó là các trường hợp: chủ sở hữu
giao cho người chiếm hữu, sử dụng để phục vụ lợi ích của chính mình; chủ sở hữu
cho người khác thuê, cho mượn nhưng có thỏa thuận với người đó về việc chủ sở
hữu chịu trách nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại; chủ sở
hữu giao nguồn nguy hiểm cao độ không đúng với các quy định về quản lý và sử
dụng; chủ sở hữu có lỗi để cho nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái
pháp luật.

Theo lẽ công bằng, khi tài sản mang lại lợi ích, chủ sở hữu được hưởng, thì
khi tài sản gây ra thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường là hoản toàn phù hợp.
Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ
xuất phát từ việc chủ sở hữu được hưởng lợi ích mà tài sản mang lại, bất kể trong
việc quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, chủ sở hữu có lỗi hay khơng có lỗi.

Người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có thể là người
được giao thông qua một giao dịch dân sự, hoặc có hể thơng qua một quyết định
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, quyết định của người sử dụng lao động…
Trong trường hợp chủ sở hữu đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người chiếm
hữu, sử dụng theo đúng quy định của pháp luật, khi nguồn nguy hiểm cao độ gây
thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khác thì người được giao này phải bồi thường. Khi

nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại thì người được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ

6

phải bồi thường ngay cả khi có lỗi hay khơng có lỗi. Điều này cũng giống với trách
nhiệm bồi thường của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ.

Mặc dù, chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ phải chịu trách
nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, nhưng lại có sự khác
nhau đối giữa trường hợp có lỗi và trường hợp khơng có lỗi, đó chính là loại trách
nhiệm pháp lý mà người đó phải chịu. Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ
hoặc người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ khơng có lỗi
khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, thì vẫn có trách nhiệm
bồi thường toàn bộ thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo trách nhiệm
dân sự, nhưng người này sẽ khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngược lại, nếu
chủ sở hữu hoặc người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có
lỗi vơ ý hoặc cố ý để nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác thì
ngồi trách nhiệm bồi thường tồn bộ thiệt hại, họ cịn có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.

3.2. Trách nhiệm của người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy
hiểm cao độ.

Theo khoản 4 Điều 601 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp nguồn
nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu,
sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.

Khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có lỗi trong
việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên
đới bồi thường thiệt hại.”.


Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ là những
người chiếm hữu, sử dụng tài sản của người khác mà không thông qua việc được
chuyển giao và không thuộc các trường hợp chiếm hữu hợp pháp khác theo quy

7

định của pháp luật. Khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, họ phải chịu trách
nhiệm bồi thường và cơ sở xác định trách nhiệm của họ luôn xuất phát từ sự vi
phạm. Ngay cả khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại mà họ quản lý nghiêm
ngặt thì họ vẫn bị coi là vi phạm, bởi vì sự vi phạm này xảy ra ngay khi họ chiếm
hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ của người khác. Chính việc
chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật cảu họ sẽ làm tăng thêm khả năng nguồn nguy
hiểm cao độ có thể gây thiệt hại cho con người và mơi trường xung quanh, bởi bản
thân họ có thể khơng nắm được tình trạng của tài sản cũng khơng được sự chỉ dẫn
của chủ sở hữu nên khó có thể đề phịng khả năng gây thiệt hại của nguồn nguy
hiểm cao độ.

Xác định trách nhiệm dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hay do hành
vi trái pháp luật gây ra, để có căn cứ áp dụng các quy phạm pháp luật trong việc
xác định chủ thể bồi thường thiệt hại. Trên thực tế luôn phát sinh và tồn tại những
sự kiện mà theo đó nếu như khơng có căn cứ xác định thì rất có thể có sự nhầm lẫn
trong việc xác định trách nhiệm dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra với trách
nhiệm dân sự do hành vi trái pháp luật gây ra. Việc xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn cao độ ra hay do hành vi trái pháp luật gây ra luôn luôn
phải dựa trên các điều kiện phù hợp để xác định các loại trách nhiệm dân sự đó.
Nếu xác định sai loại trách nhiệm, sẽ dẫn đến việc xác định trách nhiệm không
đúng chủ thể phải bồi thường thiệt hại.

Trong trường hợp chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử

dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị
chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.

Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là thiệt hại phải do chính sự tác
động của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn
nguy hiểm gây ra chứ không phải do hành vi của con người tác động vào nguồn

8

nguy hiểm cao độ làm cho nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại. Những trường
hợp thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhưng do tác động của con
người, do hành vi của con người gây ra thì là trường hợp bồi thường thiệt hại do
hành vi của con người gây ra. Việc phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái
pháp luật gây ra có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định ai là người phải bồi
thường. Khi nguồn nguy hiểm cao độ nên khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại
thì chủ sở hữu, người chiếm hữu, quản lý, vận hành… phải bồi thường thiêt hại.
Việc quy đinh như vậy nhằm nhanh chóng khắc phục thiệt hại cho người bị hại.

4. Điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự.
4.1 Có thiệt hại xảy ra.

Thiệt hại theo khái niệm chung được hiểu là sự giảm bớt những lợi ích vật
chất của cá nhân, tổ chức và nhà nước về tài sản, sức khỏe, tính mạng, uy tín, danh
dự, nhân phẩm, mồ mả, thi thể… xác định được bằng một khoản tiền cụ thể; và
những chi phí hợp lý, phù hợp để nhằm khắc phục những tổn thất về vật chất và
tinh thần của chủ thể bị gây thiệt hại. Người có hành vi trái pháp luật có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho người bị thiệt hại theo nguyên tắc
bồi thường toàn bộ và kịp thời. Mức bồi thường thiệt hại mà người có hành vi trái
pháp luật phải thực hiện đối với người bị thiệt hại dựa trên những thiệt hại thực tế

xác định được và theo quy định của pháp luật hoặc các bên có thể thỏa thuận về
mức bồi thường thiệt hại, với điều kiện thỏa thuận đó khơng trái pháp luật và đạo
đức xã hội.

Tuy nhiên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng mang tính chất
thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng của con người xung quanh nhưng khơng
bao gồm thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư của cá nhân. Ngoài
ra, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cịn có những đặc điểm rất khác biệt

9

so với những thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra. Những khác biệt đó được
thể hiện ở chỗ thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được hiểu là do chính sự
hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà khơng có yếu tố lối của con
người tác động.

4.2 Có mối quan hệ nhân quả giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và
thiệt hại xảy ra.

Quan hệ giữa hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra có
mối quan hệ phổ biến, biện chứng. Sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là
nguyên nhân trực tiếp gây thiệt hại, khơng có yếu tố lỗi của con người. Việc xác
định mối quan hệ nhân quả giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt
hại xảy ra có ý nghĩa pháp lý quan trọng vì nó là bằng chứng để xác định có hay
khơng có trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì hành vi trái pháp luật được coi
là nguyên nhân và thiệt hại được coi là hậu quả. Về mặt nguyên tắc, hành vi trái
pháp luật phải có trước và thiệt hại có sau. Như vậy, để phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì tự thân sự hoạt động của
nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân trực tiếp gây thiệt hại.


Còn trong trường hợp người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà có lỗi trong
việc sử dụng chúng đã gây ra thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại khơng
phải do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
4.3 Có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật.

Pháp luật bảo vệ những quyền, lợi ích chính đáng của mọi chủ thể trong xã hội
và trong các quan hệ pháp luật. Những quyền và lợi ích chính đáng của mọi cá
nhân và tổ chức, của nhà nước đều được bảo vệ bằng pháp luật. Việc gây thiệt hại
trái pháp luật là những thiệt hại do sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra mà pháp luật không cho phép. Những thiệt hại về tài sản của các tổ chức, của

10

nhà nước, cảu cá nhân; những thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của cá nhân là nhóm
khách thể được pháp luật bảo vệ, bất khả xâm phạm. Những thiệt hại về quyền, lợi
ích chính đáng của các chủ thể trong xã hội do chính sự hoạt động của nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu, người
được giao chiếm hữu, sử dụng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra là một loại trách nhiệm pháp lý đặc biệt mà không cần điều kiện
lỗi. Bởi vì, những phương tiện cơ giới và sự hoạt động của những phương tiện đó
theo tính chất đã ln ln chứa đựng những tiềm ẩn nguy hiểm gây thiệt hại bất
ngờ và đột ngột cho những người xung quanh, do vậy pháp luật đã quy định cho
những sự bất ngờ đó những hậu quả pháp lý và biện pháp giải quyết những hậu quả
đó; nhằm đảm bảo cho các quyền, lợi ích chính đáng của các chủ thể và nâng cao
trách nhiệm của chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu và sử dụng hợp pháp của
nguồn nguy hiểm cao độ. Trong trường hợp sự hoạt động của nguồn cao độ nguy
hiểm gây thiệt hại, thì chủ sử hữu có trách nhiệm bồi thường, vì những thiệt hại
pháp luật khơng cho phép.


II. Đánh giá các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

Các quy định pháp luật đã quy định rất chi tiết về khái niệm nguồn nguy hiểm
cao độ, trách nhiệm bồi thường khi có thiệt hại xảy ra cũng như cá điều kiện phát
sinh trách nhiệm bồi thường. Về khái niệm, các nhà làm luật không nêu một định
nghĩa mà liệt kê các trường hợp được coi là nguồn nguy hiểm cao độ, điều này
khiến chúng ta dễ dàng hơn trong việc xác định nguồn nguy hiểm cao độ mà khơng
phải hình dung trừu tượng. Trách nhiệm bồi thường của các chủ thể cũng được quy
định rõ ràng và cụ thể trong từng trường hợp.

Tuy nhiên, ngoài những điểm tốt đã đạt được, các quy định pháp luật về vấn
đề này vẫn còn một số bất cập, vướng mắc:

11

Thứ nhất, đó là vấn đề xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trên thực tế,
việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là
một trong những vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp, đặc biệt là việc hiểu và vận
dụng không được thống nhất. Cụ thể sự nhầm lẫn giữa bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra khá phổ
biến. Lý do của sự nhầm lẫn đó là khái niệm “thú dữ” trong nguồn nguy hiểm cao
độ và khái niệm “súc vật” chưa rõ ràng và cụ thể.

Thứ hai, trong khoản 1 Điều 623 BLDS, ngoài những loại nguồn nguy hiểm
cao độ đã được liệt kê, cịn có những loại nguồn nguy hiểm cao độ khác theo quy
định của pháp luật. Trong thực tế có những sự vật chưa từng được pháp luật quy
định là nguồn nguy hiểm cao độ nhưng nếu có đầy đủ tính chất của nguồn nguy
hiểm cao độ thì có được coi là nguồn nguy hiểm cao độ khơng?


Thứ ba, theo quy định của pháp luật thì thú dữ gây thiệt hại để phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải đang chịu sự
quản lý của một chủ thể nhất định, nếu khơng có sự quản lí (ở mơi trường tự nhiên,
thiên nhiên hoang dã) thì trách nhiệm bồi thường khơng phát sinh, mặc dù tài sản
này thuộc sở hữu của Nhà nước. Như vậy, trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ
trong tự nhiên gây thiệt hại như thú dữ trong rừng tấn công gây thiệt hại cho người
đi rừng thì sẽ khơng ai phải chịu trách nhiệm bồi thường. Đây cũng được xem là
một bất cập trong các quy định của pháp luật, qua đó đặt ra vấn đề đối với nhà
nước là cần phải có những biện pháp hợp lý hơn trong việc quản lý tài nguyên thiên
nhiên để bảo vệ quyền lợi của nhân dân.

Thứ tư, theo điểm a khoản 3 Điều 601 thì chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ sẽ khơng phải bồi thường thiệt hại nếu lỗi hồn toàn
là do người bị hại, tuy nhiên, trong thực tế còn xảy ra trường hợp thiệt hại xảy ra

12

vừa do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra vừa do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, vậy
thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ thuộc về ai?

13

KẾT LUẬN
Qua các phân tích về các vấn đề về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra, bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại
trách nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con
người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả
năng gây thiệt hại. Ta thấy rằng việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là
một trong những yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo lợi ích của chủ thể bị thiệt
hại, và nghĩa vụ của chủ thể có nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại. Mặc dù chủ

sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể khơng có lỗi đối với
thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật
vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường.Vậy nên, cần xây dựng hoàn thiện pháp luật
hơn về vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra để đảm bảo
cho các căn cứ pháp lý khi áp dụng, khắc phục tình trạng có các quan điểm tranh
cãi, cách hiểu không thống nhất khi áp dụng pháp luật.

14

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự năm 2015;
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập 2), Nxb.

Công an nhân dân, Hà Nội, 2009 ;
3. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật về hợp

đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia
Việt Nam, Tp.HCM, 2017;
4. Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2015, Nxb Tư pháp, 2016;
5. Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (đồng chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật
dân sự năm 2015, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2017;
6. Phùng Trung Tập, Luật dân sự Việt Nam (Bình giảng và áp dụng) – Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2017;
7. Lê Phước Ngưỡng, Tìm hiểu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra, Tạp chí kiểm sát, số 1/2005;

15



×