Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

BI KỊCH TÌNH YÊU TRONG BẾN KHÔNG CHỒNG CỦA DƯƠNG HƯỚNG ĐIỂM CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 50 trang )

UBND TỈNH QUẢNG NAM
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM
KHOA NGỮ VĂN & CÔNG TÁC XÃ HỘI

----------

PHẠM DUY THÀNH TÀI

BI KỊCH TÌNH U TRONG BẾN KHƠNG CHỒNG
CỦA DƢƠNG HƢỚNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Quảng Nam, tháng 5 năm 2018

UBND TỈNH QUẢNG NAM
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM
KHOA NGỮ VĂN & CÔNG TÁC XÃ HỘI

----------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Tên đề tài: BI KỊCH TÌNH U TRONG
BẾN KHƠNG CHỒNG CỦA DƢƠNG HƢỚNG

Sinh viên thực hiện
PHẠM DUY THÀNH TÀI

MSSV: 4115010330
CHUYÊN NGÀNH: SƢ PHẠM NGỮ VĂN



KHÓA: 2015 – 2018
Cán bộ hƣớng dẫn

ThS. TRỊNH MINH HƢƠNG
MSCB: ……..

Quảng Nam, tháng 5 năm 2018

LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên em xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến thầy
giáo - Th.S Trịnh Minh Hƣơng, ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn, giúp đỡ em nhiệt
tình về phƣơng pháp và kiến thức để em hồn thành khóa luận này. Đồng thời em
cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn của trƣờng Đại
học Quảng Nam đã hƣớng dẫn, giảng dạy, cung cấp kiến thức trong suốt ba năm
học qua. Vì đƣợc sự dạy dỗ, chỉ bảo tận tình của các thầy, cô mà hôm nay em
trƣởng thành hơn rất nhiều về kiến thức lẫn kinh nghiệm để làm hành trang bƣớc
vào đời. Sau cùng em cũng xin đƣợc gửi lời cảm ơn đến Thƣ viện trƣờng Đại học
Quảng Nam đã giúp em trong quá trình tìm kiếm và mƣợn tài liệu để phục vụ cho
việc nghiên cứu và hoàn thành bài khóa luận.
Do trình độ nghiên cứu và thời gian có hạn nên khóa luận này ắt hẳn khơng
tránh khỏi tình trạng sai sót. Vì vậy em rất mong nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến
và chỉ dẫn của thầy, cô. Lời cuối cùng em xin chúc quý thầy, cô dồi dào sức
khỏe, hạnh phúc và thành công trong sự nghiệp trồng ngƣời.
Em xin trân trọng cảm ơn!

Quảng Nam, tháng 5 năm 2018
Tác giả khóa luận

Phạm Duy Thành Tài


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bài khóa luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi
dƣới sự hƣớng dẫn của thầy giáo Th.S Trịnh Minh Hƣơng và sự tiếp thu những ý
kiến đóng góp của q thầy cơ trong khoa Ngữ văn và Cơng tác xã hội. Nếu có
điều gì trái với sự thật tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm.

Quảng Nam, tháng 5 năm 2018
Tác giả khóa luận

Phạm Duy Thành Tài

MỤC LỤC

Phần 1. PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................. 1
1.1. Lý do chọn đề tài.................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu đề tài........................................................................................ 2
1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.......................................................... 2
1.3.1. Đối tƣợng nghiên cứu.......................................................................... 2
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu............................................................................. 2
1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu........................................................................ 2
1.5. Lịch sử nghiên cứu ................................................................................. 3
1.6. Đóng góp của đề tài................................................................................ 4
1.7. Cấu trúc đề tài ........................................................................................ 4
Phần 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ............................................................ 5
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................. 5
1.1. Một vài nét về tác giả, tác phẩm ............................................................ 5
1.1.1 Dƣơng Hƣớng ...................................................................................... 5
1.1.2. Bến không chồng................................................................................. 6
1.2. Khái niệm về bi kịch .............................................................................. 6

1.2.1. Khái niệm cái bi .................................................................................. 6
1.2.2. Một số khái niệm về bi kịch................................................................ 7
1.3. Tình u trong Bến khơng chồng của Dƣơng Hƣớng............................ 9
CHƢƠNG 2: BI KỊCH TÌNH YÊU TRONG BẾN KHÔNG CHỒNG CỦA
..................................................................................................................... 14
DƢƠNG HƢỚNG....................................................................................... 14
2.1. Lời nguyền – nguyên nhân dẫn đến bi kịch ......................................... 14
2.2. Bi kịch tình u bi thảm trong Bến khơng chồng ................................ 17
2.2.1. Ngƣời phụ nữ, tấm bi kịch tình yêu đau thƣơng ............................... 17
2.2.1.1. Phụ nữ làng Đông – “lỡ duyên” cho một bi kịch tình yêu............. 17
2.2.1.2. Hạnh – bi kịch tình u khơng lối thốt......................................... 19

2.2.2. Ngƣời lính – nghiệt ngã cho một bi kịch tình yêu ............................ 22
2.2.2.1. Nguyễn Vạn – mặt nạ của một bi kịch tình yêu............................. 22
2.2.2.2. Nghĩa - bi kịch tình u “bất ngờ” ................................................. 26
2.3. Hình ảnh “bến khơng chồng” nơi kết thúc tấm bi kịch tình yêu oan
nghiệt ........................................................................................................... 29
2.3.1. Đỉnh điểm của một bi kịch tình yêu .................................................. 29
2.3.2. Biểu tƣợng “Bến không chồng” - sự sợ hãi của tình yêu.................. 30
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN .......... 34
BI KỊCH TÌNH YÊU TRONG BẾN KHƠNG CHỒNG............................ 34
3.1. Nghệ thuật xây dựng ngoại hình, tính cách nhân vật........................... 34
3.2. Nghệ thuật diễn biến tâm lí nhân vật ................................................... 35
3.3. Nghệ thuật xây dựng ngơn ngữ, hành động nhân vật .......................... 37
Phần 3. KẾT LUẬN .................................................................................... 41
Phần 4. TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 43

Phần 1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài


Sau 1975 đất nƣớc thống nhất và bắt đầu công cuộc xây dựng và bảo vệ
thành quả cách mạng. Dẫu chiến tranh đi qua nhƣng đâu đó vẫn cịn lại những
hình ảnh khó phai trong lịng tất cả chúng ta. Các nhà văn đã tái hiện lại hình ảnh
chiến tranh đau thƣơng, khốc liệt qua những bi kịch trong chiến tranh và những
bi kịch tình yêu, con ngƣời. Chúng ta có thể kể đến Dƣơng Hƣớng, Lê Lựu, Bảo
Ninh,... Nhắc đến Dƣơng Hƣớng chúng ta không thể không nhắc đến tiểu thuyết
đã làm nên tên tuổi của ơng đó là Bến không chồng. Cùng với hai tác phẩm khác
là Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trƣờng và Thân phận tình
u của Bảo Ninh, tiểu thuyết của ơng là một trong ba tác phẩm đạt Giải thƣởng
Hội nhà văn năm 1991. Đƣa nhanh Dƣơng Hƣớng lên một vị trí cao trong thành
tựu văn học Đổi mới. Song song với các tác giả khác nhƣ Ma Văn Kháng,
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn,... Dƣơng Hƣớng có
những bƣớc đi chậm và nổi bật lên hẳn khi cho ra đời tiểu thuyết Bến không
chồng. Bến không chồng tái hiện cảnh làng quê miền đồng bằng Bắc Bộ mà điển
hình là làng Đơng. Nơi đó có những ngƣời lính, ngƣời phụ nữ bƣớc ra từ chiến
tranh, tất cả họ đều mang một tấm bi kịch chung và riêng cho từng ngƣời.

Tình yêu là một vấn đề muôn thuở trong văn học bất kể nó là thơ, truyện,
tiểu thuyết thì nó vẫn khơng thay đổi sự hấp dẫn đối với các nhà văn, nhà thơ xƣa
và nay. Vốn dĩ là một vấn đề quen thuộc mà đƣợc nhiều ngƣời nói đến trong bất kì
hồn cảnh nào, đối tƣợng nào hay thời kì nào. Thế nhƣng khơng phải tình u nào
cũng đẹp cũng màu hồng, có khi đó là một bi kịch. Bi kịch đó có khi do chính
ngƣời trong cuộc tạo ra, có khi do chính xã hội gây ra, nhƣng cho dù do ai gây ra
hay vì lí do gì thì bi kịch vẫn là bi kịch mà đã là bi kịch thì sẽ có một kết thúc đau
thƣơng. Bến khơng chồng của Dƣơng Hƣớng tạo ra một bi kịch tình yêu đau
thƣơng, bi thảm mà không ai khác những ngƣời phụ nữ là những ngƣời đón nhận
bi kịch đó. Trong thời chiến và cả thời hậu chiến, qua số phận của những phụ nữ
dƣới tên truyện Bến không chồng, Dƣơng Hƣớng đã cho chúng ta thấy một bi kịch
tình yêu bi thảm chƣa từng có qua các nhân vật mà ơng xây dựng nên.


1

Cũng chính vì thế và vì có cảm hứng với tình u và đặc biệt là bi kịch
trong tình u, tơi mạnh dạn chọn tiểu thuyết Bến không chồng của Dƣơng
Hƣớng vào đề tài: “Bi kịch tình u trong Bến khơng chồng của Dƣơng
Hƣớng” để đi sâu nghiên cứu làm đề tài khóa luận của mình.
1.2. Mục tiêu đề tài

Thực hiện đề tài “bi kịch tình u” trong tiểu thuyết Bến khơng chồng của
Dƣơng Hƣớng, tôi chỉ tập trung nghiên cứu vào những nội dung sau:

Nghiên cứu về bi kịch tình u chính trong tác phẩm diễn ra đối với những
ngƣời phụ nữ trong và sau thời chiến song song với đó là sự trở về của Vạn cuốn
theo bao bi kịch của chính anh, của Nghĩa và Hạnh. Bi kịch đƣợc tiếp nối mà
không ai khác những ngƣời phụ nữ nhƣ Hạnh, mẹ Hạnh, Dâu, Thắm,..là ngƣời
gánh chịu tất cả. Cuối cùng bi kịch của Vạn và Hạnh là đỉnh điểm.

Nghiên cứu về nghệ thuật biểu hiện bi kịch tình yêu để khám phá cách mà
tác giả đƣa bi kịch vào tiểu thuyết.
1.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

1.3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối với đề tài này, ngƣời viết xác định đối tƣợng nghiên cứu là bi kịch
tình yêu và những biểu hiện của nó trong tiểu thuyết Bến khơng chồng của
Dƣơng Hƣớng.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Sự nghiệp sáng tác của Dƣơng Hƣớng có rất nhiều tác phẩm xuất sắc song
trong phạm vi nghiên cứu khóa luận này, tơi chỉ xin bàn đến bi kịch tình u
trong tiểu thuyết “bến khơng chồng” của Duơng Hƣớng.
1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phƣơng pháp phân tích tổng hợp: Đối với phƣơng pháp này tơi tiến hành
phân tích tác phẩm, mổ xẻ nhiều khía cạnh xung quanh với vấn đề bi kịch tình u
làm chính và sẽ tổng hợp các dẫn chứng để làm rõ thêm vấn đề đƣợc nghiên cứu.
Phƣơng thức đối chiếu so sánh: Đối với phƣơng pháp này tơi có sự so
sánh giữa tiểu thuyết Bến không chồng và các tiểu thuyết cùng thời khác để góp
phần làm nổi bật vấn đề.

2

1.5. Lịch sử nghiên cứu
Nghiên cứu về nhà văn Dƣơng Hƣớng đã có khơng ít lời bình, lời nhận

xét, đánh giá của các nhà văn, nhà phê bình văn học. Họ tìm thấy vấn đề của bộ
mặt xã hội lúc bây giờ qua những tác phẩm của ơng. Chính vì thế những tác
phẩm của ông luôn đƣợc nhắc đến cùng với những cây bút nhƣ Bảo Ninh, Lê
Lựu, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,... Dƣơng Hƣớng đã làm cho nền văn
học đất nƣớc thêm phần mới mẻ. Từ tập truyện Gót Son (1989), ông bƣớc đến
cuốn tiểu thuyết gây chấn động lúc đó và cũng làm nên tên tuổi của ông “Bến
không chồng”. Nghiên cứu về Dƣơng Hƣớng, nói chung nhƣ Trần gian đời người
(1991), Người đàn bà trên bãi tắm (1995), Dưới chín tầng trời (2007) đã có
nhiều trên các bài báo, các tạp chí và tác phẩm Bến khơng chồng của Dƣơng
Hƣớng nói riêng là một tiểu thuyết hay và có phạm vi lớn nên tất yếu sẽ có nhiều
nhà nghiên cứu về cuốn tiểu thuyết này nhƣ luận văn của ThS.Trần Thị Phƣơng
Thảo nghiên cứu xoay quanh tiểu thuyết Bến không chồng.

Với tiểu thuyết Bến không chồng ông đƣợc nhiều giới phê bình, các nhà
văn đặc biệt quan tâm. Với lời nhận xét của GS. Phong Lê: “Trong bộ ba được
Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 này, Bến không chồng không có cái sắc sảo,
riết róng của Mảnh đất lắm người nhiều ma; khơng có cái chiều sâu thâm trầm
đến ám ảnh của Nỗi buồn chiến tranh... Nhưng bù lại, và để đứng được với thời

gian, Bến khơng chồng lại có được một vẻ đẹp khác trong khn hình cổ điển:
mộc mạc và chân phương trong cốt truyện, trong cách dẫn dắt và ngôn từ; - một
ngôn từ không lấp lánh tài hoa, mà giản dị, tự nhiên, và với ưu thế đó, Bến khơng
chồng là tác phẩm khẳng định được ngay vị trí của nó trong lịng độc giả mà
khơng hề gây tranh cãi”. Trong bài Dục vọng trong tiểu thuyết Việt Nam về chiến
tranh, Nguyễn Xuân Dung có nói: “Với Nguyễn Vạn, con người muốn làm mực
thước, làm thánh nhân để xứng đáng với sự ngưỡng mộ của dân làng và đã hy
sinh một đời cho ảo tưởng đó trong cuộc sống khắc kỷ đến ngốc ngếch, cũng
không thể thoát khỏi sức cuốn mạnh mẽ của bản năng...Phần người, phần bản
năng đã chiến thắng phần thánh nhân của Vạn - con người ta không thể mãi mãi
ép xác theo lý tưởng và ảo tưởng của mình. Phút giây bản năng trỗi dậy là khi

3

Nguyễn Vạn sống bằng dục vọng, sống cho dục vọng nhưng không phải là lúc
Nguyễn Vạn bị trụy lạc mà đó chính là thời khắc anh được làm người - một con
người đúng nghĩa”. Trong báo Tổ Quốc, Phạm Học có nói: “Điểm khác trong
tính cách các nhân vật nữ của nhà văn Dương Hướng so với các tác phẩm viết về
những người chinh phụ là nhân vật không cam chịu hồn cảnh số phận, ln đấu
tranh vượt lên đi tìm hạnh phúc”.

Nói về mảng bi kịch tình u thì cũng đã có ngƣời nghiên cứu nhƣng chƣa
sâu. Trên cơ sở đó tôi sẽ đi sâu vào nghiên cứu mảng bi kịch về tình u trong
tiểu thuyết này.
1.6. Đóng góp của đề tài

Đề tài hồn thành mong muốn đóng góp thêm mảng mới về bi kịch tình yêu
cho cuốn tiểu thuyết đạt giải thƣởng văn học 1991 này, là một bài khóa luận mới
mẻ về bi kịch về tình yêu và sẽ là một tài liệu tham khảo có ý nghĩa cũng nhƣ là
một tài liệu học tập quan trọng đối với tôi và những ngƣời tham khảo sau này.

1.7. Cấu trúc đề tài

Đề tài gồm bốn phần mở đầu, nội dung, kết luận và tài liệu tham khảo
Trong phần nội dung gồm có ba chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung
Chƣơng 2: Bi kịch về tình u trong Bến khơng chồng của Dƣơng Hƣớng
Chƣơng 3: Một số biện pháp nghệ thuật biểu hiện bi kịch tình u trong
Bến khơng chồng

4

Phần 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Một vài nét về tác giả, tác phẩm
1.1.1 Dương Hướng
Nhà văn Dƣơng Hƣớng họ và tên khai sinh là Dƣơng Văn Hƣớng, sinh
ngày 8 tháng 7 năm 1949 tại thôn An Lệnh, xã Thuỵ Liên, huyện Thái Thuỵ, tỉnh
Thái Bình. Tháng 9 năm 1965, ơng tình nguyện đi cơng nhân quốc phịng làm
nhiệm vụ vận chuyển hàng hoá lƣơng thực trên tuyến Khu 4 phục vụ cho chiến
trƣờng miền Nam. Năm 1971, ông vào bộ đôi chiến đấu tại chiến trƣờng Quân khu
5. Năm 1976, ông ra quân chuyển ngành về Cục Hải quan Quảng Ninh và đã nghỉ
hƣu năm 2008. Hiện nay, ông đang làm biên tập báo Hạ Long tại thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh. Nhà văn Dƣơng Hƣớng bắt đầu viết văn từ năm 1985, là
một trong những gƣơng mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Ông chỉ bén duyên với nghiệp văn vào cuối thập niên 80 của thế kỉ XX.
Các tác phẩm của ông nhƣ: Gót son (tập truyện ngắn - 1989), Bến khơng chồng
(tiểu thuyết - 1990), đƣợc dịch ra tiếng Pháp, tiếng Ý: giải thƣởng hội nhà văn
Việt Nam 1991. Đƣợc chuyển thể thành phim nhựa dự liên hoan phim quốc tế
“Thái Bình Dƣơng” và liên hoan phim Đức. Trần gian đời người (tiểu thuyết -
1991). Người đàn bà trên bãi tắm (tập truyện ngắn). Tuyển chọn Dương Hướng

(1997). Dưới chín tầng trời (tiểu thuyết - 2007). Cùng với đó ơng nhận đƣợc khá
nhiều giải thƣởng nhƣ: Giải thƣởng Hội Nhà văn Việt Nam 1991 với tiểu thuyết
Bến không chồng. Giải thƣởng Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội với truyện ngắn Đêm
trăng. Giải A văn nghệ Hạ Long với tập truyện Người đàn bà trên bãi tắm. Tặng
thƣởng truyện ngắn hay tạp chí Đất Quảng với truyện ngắn Qng đời cịn lại
năm 1987. Tặng thƣởng truyện ngắn hay Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội với tác
phẩm Người mắc bệnh tâm thần năm 1989. Tặng thƣởng truyện ngắn hay Tạp chí
Văn Nghệ Quân Đội với tác phẩm Bến khách năm 2007. Giải thƣởng văn học Hạ
Long với tiểu thuyết Dưới chín tầng trời năm 2012.

5

1.1.2. Bến không chồng
Nhắc đến Dƣơng Hƣớng chúng ta không thể không nhắc đến tiểu thuyết

đã làm nên tên tuổi của ông đó là Bến khơng chồng. Tiểu thuyết Bến khơng
chồng của nhà văn Dƣơng Hƣớng đƣợc trao giải thƣởng của Hội nhà văn năm
1991 cùng với hai tác phẩm khác của Bảo Ninh và Nguyễn Khắc Tƣờng. Tiểu
thuyết Bến không chồng đã đƣa nhanh Dƣơng Hƣớng lên một vị trí cao trong
thành tựu văn học đổi mới. Bến không chồng đã góp đƣợc cái nhìn mới về bức
tranh đất nƣớc trong thời chiến và hậu chiến. Nó có đƣợc một vẻ đẹp khác trong
khn hình cổ điển: mộc mạc và chân phƣơng trong cốt truyện, trong cách dẫn
dắt và ngôn ngữ, một ngôn từ không lấp lánh tài hoa mà giản dị, tự nhiên, và với
ƣu thế đó, Bến khơng chồng đã khẳng định ngay đƣợc vị trí của nó trong lịng
độc giả mà khơng hề gây tranh cãi. Trong Bến không chồng Dƣơng Hƣớng đã rất
thành công với việc phác họa nông thôn miền Bắc thời hậu chiến, xây dựng xã
hội chủ nghĩa. Nhà văn đã xoáy sâu vào mối quan hệ họ tộc, bi kịch của ngƣời
lính với Nguyễn Vạn là nhân vật trung tâm. Cùng với đó là số phận, là nỗi đau
của những ngƣời phụ nữ làng Đông mà tiêu điểm là mẹ con chị Nhân – Hạnh.
Vấn đề tâm linh, tính dục, đạo đức cũng đƣợc tác giả đặt ra và giải quyết một

cách rốt ráo, thấm đƣợm giá trị nhân văn, nhân bản. Với Bến không
chồng, Dƣơng Hƣớng bỗng trở thành một tên tuổi, và quan trọng hơn, trở thành
gƣơng mặt tiêu biểu trong công cuộc đổi mới văn học vào nửa đầu những năm 90
thế kỉ XX.
1.2. Khái niệm về bi kịch
1.2.1. Khái niệm cái bi

Cái bi (tiếng Nga: tragicheskoe; tiếng Pháp: tragique) là phạm trù mỹ học
phản ánh một hiện tƣợng có tính quy luật của thực tế đời sống xã hội thƣờng diễn
ra trong cuộc đấu tranh không ngang sức giữa cái thiện với cái ác, cái mới với cái
cũ, cái tiến bộ với cái phản động,… trong điều kiện những cái sau còn mạnh hơn
những cái trƣớc. Đó là sự trả giá tự nguyện cho những chiến thắng và sự bất tử
về tinh thần bằng nỗi đau và cái chết của nhân vật chính diện. Cái bi là một phạm
trù mỹ học tồn tại bên cạnh cái cao cả, cái hài, là sự phản ánh một phẩm chất

6

thẩm mỹ của thực tại khách quan, là một phƣơng diện đặc biệt trong quan hệ
thẩm mỹ của con ngƣời. Cái bi đƣợc thể hiện một cách tập trung và điển hình
nhất trong bi kịch. Nếu cái đẹp, cái cao cả có mặt trong tự nhiên, trong đời sống
xã hội và trong nghệ thuật thì cái bi là một hiên tƣợng thẩm mỹ đặc biệt, khơng
có trong tự nhiên, chỉ tồn tại trong xã hội và trong nghệ thuật, bởi nó là một tình
huống của con ngƣời trong cuộc sống xã hội loài ngƣời.

Trong cuộc sống cái bi cũng đến với các vị anh hùng, các vĩ nhân, những
con ngƣời tài hoa xuất chúng nhƣng do những tình huống ngẫu nhiên đột ngột do
tai họa bất ngờ, do bệnh hiểm nghèo giữa lúc khả năng sáng tạo đang ở độ sung
mãn, giữa lúc họ đang cống hiến đƣợc nhiều nhất cho xã hội.

Trong văn học – nghệ thuật, cái bi qua mỗi thời đại vừa khơng thay đổi (ví

dụ cảm hứng duy nhất về mặt loại hình), lại vừa dễ thay đổi (về mặt bản chất xã
hội – lịch sử thể hiện ở tính chất, hình thái xung đột). Chẳng hạn trong bi kịch
của Sếch-xpia, cái bi là cái xung đột giữa ý thức cá nhân của con ngƣời với thời
đại và thiết chế xã hội cũng nhƣ chính bản thân mình. Cịn trong bi kịch của chủ
nghĩa cổ điển thì nó lại là xung đột giữa dục vọng, khát vọng cá nhân với tinh
thần nghĩa vụ quốc gia. Trong văn học – nghệ thuật ngày nay, cái bi đƣợc khám
phá và thể hiện trên nhiều khía cạnh và từ trong cội nguồn lịch sử – xã hội của
nó. Ở đây, cái bất tử của nhân vật đƣợc thực hiện trong cái bất tử của nhân dân,
vì thế cái bi mang tính chất lạc quan lịch sử.

Tóm lại, từ tất cả những vấn đề đã trình bày trên có thể khái quát rằng:
Với tƣ cách là một phạm trù mỹ học, cái bi gắn liền với những xung đột có ý
nghĩa xã hội giữa cái đẹp với cái xấu, cái tích cực với cái tiêu cực mà kết quả là
sự thất bại, tiêu vong của nhân vật tích cực những con ngƣời đã đấu tranh đến
cùng vì khát vọng chân chính của con ngƣời, qua đó gợi lên những cảm xúc thẩm
mỹ tích cực, khẳng định niềm tin của con ngƣời đối với giá trị chân chính của
cuộc sống, kích thích con ngƣời hƣớng về phía trƣớc.
1.2.2. Một số khái niệm về bi kịch

Có rất nhiều khái niệm về bi kịch nhƣng nổi lên một số khái niệm chính
nhƣ sau:

7

* Theo từ điển bách khoa toàn thƣ Việt Nam bi kịch là một hình thức kịch
dựa trên sự đau khổ của con ngƣời, khiến cho khán giả cảm thấy bị thu hút hoặc
hứng thú khi xem. Thể loại bi kịch thƣờng đƣợc vận dụng vào các loại hình hƣ
cấu khác nhƣ phim ảnh, tiểu thuyết, truyện tranh,v.v nhằm tạo cho ngƣời xem
những mối đồng cảm với hoàn cảnh của nhân vật và đạt đến mức độ xúc động
sâu sắc. Bi kịch có thể là yếu tố chủ đề của tác phẩm, hoặc ám chỉ đến một kết

thúc mà sự mất mát to lớn về nhiều nghĩa là tâm điểm.

* Theo từ điển văn học bi kịch là một thể loại kịch dựa vào xung đột bi đát
của các nhân vật anh hùng, có kết cục bi thảm và tác phẩm đầy chất thống thiết.
Bi kịch là một thể của loại hình chính kịch, đối lập với thể hài kịch. Bi kịch là thể
loại nghiêm ngặt đến khắc nghiệt; nó miêu tả thực tại theo lối nhấn mạnh, cô đặc
các mâu thuẫn bên trong, phơi bày những xung đột sâu sắc của thực tại dƣới dạng
bão hòa và căng thẳng đến cực hạng, mang ý nghĩa tƣợng trƣng nghệ thuật.

* Cái bi kịch có 2 hình thức biểu hiện: Cái bi kịch trong lịch sử và cái bi
kịch trong đời sống con ngƣời.

- Cái bi kịch trong lịch sử gồm: Bi kịch của những nhân vật chết trong
đêm trƣờng đen tối và bi kịch của những nhân vật chết trƣớc bình minh

+ Bi kịch của các nhân vật chết trong đêm trường đen tối: là một dạng
nhận thức bi kịch lịch sử và có tính chất điển hình nhất, nhƣ Anghen nói: “ Đây
là xung đột bi kịch tất yếu về mặt lịch sử và tình trạng khơng thể nào thực hiện
đƣợc điều đó trong thực tiễn”. Nhƣ vậy, bi kịch ở đây là bi kịch của cái mới, cái
tiến bộ, cái cách mạng, còn đang ở trong thế yếu. Nhân vật là những con ngƣời
dám đón nhận sứ mệnh cao cả để đốt đuốc làm bừng tỉnh cả dân tộc đang ngủ
triền miên. Tấm gƣơng của họ trở nên trác tuyệt, cũng vì họ chết trong bối cảnh
vận động của lịch sử tạo thành phong trào đối địch thông thƣờng của giai cấp lịch
sử mà là cái chết trong bối cảnh vận động của lịch sử.

+ Bi kịch của những nhân vật chết trước bình minh: Bi kịch này vẫn là
một dạng thức lịch sử, nhƣng là bi kịch của cái mới, cái tiến bộ, cách mạng đã ở
thế thắng trong thế thắng tồn cục nhƣng một bộ phận nào đó cịn lâm vào hồn
cảnh trở trêu, khiến cho ngƣời anh hùng tạm thời bị sa cơ và bị tiêu vong thảm


8

thƣơng. Hành động của nhân vật này là hành động anh hùng, phù hợp với tất yếu
của lịch sử, khả năng thực hiện lý tƣởng đã đƣợc mở rộng.

- Cái bi kịch trong đời sống con ngƣời : Bi kịch của cái cũ, cái xấu, của sự
nhầm lẫn, kém hiểu biết hoặc dốt nát và bi kịch những khát vọng của con ngƣời.

+ Bi kịch của cái cũ: Đó là bi kịch của cái cũ trong cuộc đấu tranh chống
lại cái mới đang nảy sinh, nhƣng bản thân cái cũ vẫn chƣa phải mất hết vai trị
lịch sử, chƣa trở thành hồn tồn xấu, phản động; bản thân cái cũ vẫn cịn tin vào
tính chất hợp lí của nó. Những con ngƣời đứng ở phía chế độ cũ khơng phải là sự
lầm lạc có tính cá nhân, mà là sự lầm lạc có tính lịch sử toàn thế giới. Vậy là, bi
kịch ở đây là bi kịch của sự lầm lạc của chính cái cũ.

+ Bi kịch của chính cái xấu: Cái cũ đã thực sự trở thành xấu và gây ra tác
hại khủng khiêp, nó cần phải bị trừng phạt một cách nghiêm khắc, đó là nội dung
cơ bản của bi kịch của chính cái xấu. Giá trị mỹ học của bi kịch của chính cái xấu
là bi kịch của tội ác, ở đây ngƣời ta lấy sự khủng khiếp để nhắc nhở con ngƣời
chớ làm điều khủng khiếp.

+ Bi kịch của sự nhầm lẫn, sự kém hiểu biết hoặc của sự “ngu dốt”: Đây
là loại bi kịch xảy ra khi nhân vật bi kịch phải đƣơng đầu với đối tƣợng mà chƣa
nhận thức đúng đắn và đầy đủ về đối tƣợng nên cuối cùng phải trả giá cho sự
nhầm lẫn, kém hiểu biết của mình bằng cái chết.

+ Bi kịch của những khát vọng con người: Loại bi kịch này nảy sinh do
xung đột gay gắt bởi những mâu thuẫn không thể nào khắc phục nổi giữa những
khát vọng chính đáng riêng tƣ của con ngƣời và khả năng khơng thể thực hiện
những khát vọng đó trong cuộc sống. Bi kịch này thể hiện những đau khổ, dằn

vặt của cá nhân song đó lại động chạm đến lẽ sống, tình u, sứ mệnh của con
ngƣời nói chung, vì thế nó day dứt mãi lịng ngƣời.

Cuối cùng ở khóa luận này tơi xin lấy hình thức biểu hiện cái bi kịch trong
cuộc sống của con ngƣời làm nền tảng để nghiên cứu.
1.3. Tình u trong Bến khơng chồng của Dƣơng Hƣớng

Tình yêu là đề tài muôn thuở của nhân loại. Trên đời này ai cũng phải trải
qua giai đoạn gọi là tình yêu. Tình u giống nhƣ thứ gì đó nó đã đƣợc mặc định

9

vào mỗi ngƣời chúng ta. Khi cịn nhỏ thì u thƣơng ơng bà cha mẹ, lớn lên là
tình u nam nữ mặn nồng, khi có gia đình thì tình u thƣơng con vơ bờ
bến,...Ấy thế mới thấy tình u là thứ không thể thiếu trong cuộc sống mỗi con
ngƣời. Dẫu là ai ở nơi đâu hay làm gì đều khơng “thốt” đƣợc nó. Nhƣng tình
u nam nữ vẫn là đề tài tốn không biết bao nhiêu giấy mực của các nhà văn, nhà
thơ xƣa và nay. Nhắc đến tình yêu thì ai mà khơng muốn hạnh phúc, đơi lúc
ngƣời ta cịn chạy đi kiếm tìm cái hạnh phúc một đời của chính mình.

Ta mải mê man với ai tình
Với thần Hạnh phúc, cảnh hư vinh
Thân ta trải biết bao nguy hiểm
Rốt cuộc khơng ai hiểu được mình

(Chạy theo hạnh phúc – Hàn Mặc Tử)
Nhƣng rồi ơng hồng của thơ tình lại có một nỗi buồn thầm kín mang tên
tình u đơi lứa, Xn Diệu chìm đắm trong cái ngây ngất của tình yêu để rồi
buồn man mác khi tình yêu tan vỡ.


Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Đem cho em kèm với một lá thư
Em khơng lấy là tình anh đã mất
Tình đã cho khơng lấy lại bao giờ

(Một tình yêu – Xuân Diệu)
Và phải chăng bà hoàng của thơ tình cũng hịa chung một nhịp đập tƣơng
tƣ của tình yêu. Nhƣng nhịp đập ấy thể hiện một khát vọng, khát vọng cháy bỏng
đƣợc yêu thƣơng.

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

(Sóng – Xuân Quỳnh)
Đó mới thấy cái hay, cái đẹp, cái lãng mạn trong tình u nhƣng song song
với nó là nỗi đau xót xa khi tình u tan vỡ. Cuối cùng là những chiêm nghiệm

10

khi một cuộc tình qua đi. Khơng chỉ có thơ mà rất nhiều các truyện ngắn hay tiểu
thuyết đều viết về đề tài mn thuở này. Hạnh phúc trong tình u khơng chỉ là
niềm vui mà đơi lúc cịn có những khổ đau đã đƣợc mặc định là hạnh phúc.
Chúng ta phải biết chấp nhận những điều xảy ra trong tình u vì khi u khơng
ai làm chủ đƣợc chính mình.

Thơ là thế nhƣng trong những tập truyện ngắn hay tiểu thuyết liệu có
giống nhƣ vậy? Khơng giống nhƣ những tiểu thuyết tình u mang đậm chất
ngơn tình, khơng giống nhƣ những tình u có kết thúc đẹp đẽ, tình u trong

Bến khơng chồng của Dƣơng Hƣớng là một tình u đầy bi ai và nƣớc mắt.
Những tình yêu đẹp nhƣng cái kết lại khơng đẹp mà mang trong đó những tâm tƣ
lắng đọng, bi ai và đầy cảm xúc. Khi chúng ta đọc những tiểu thuyết ngơn tình,
chúng ta có thể khóc khi nhân vật trong đó gặp điều khơng may, có thể hạnh phúc
khi thấy nhân vật trong đó đƣợc hạnh phúc. Hễ y nhƣ rằng tình yêu trong các tiểu
thuyết đó đều là kết thúc có hậu và hiển nhiên dẫu trải qua mn vàn khó khăn
rồi các nhân vật trong đó đều đƣợc một cái kết mĩ mãn khơng chê vào đâu đƣợc.
Nhìn đi nhìn lại có vẻ tình u trong tiểu thuyết Bến khơng chồng của Dƣơng
Hƣớng lại ở một cảnh hồn tồn trái ngƣợc. Nó đƣợc viết trong thời buổi chiến
tranh và thời kì hậu chiến nên tình u trong đó khơng mĩ mãn. Và chính nó
mang bản chất của một sự thật khơng thể chối cãi về hậu quả của chiến tranh. Đề
tài tình yêu trong tiểu thuyết Bến khơng chồng nó nhƣ ngời sáng lên giữa đám
mây đen. Các nhân vật trong truyện đều là đại diện của những con ngƣời nông
dân trong chế độ cũ. Những ngƣời lính nhƣ Vạn, Nghĩa, Thành, Hiệp, Hà,.. ngƣời
thì chết trên chiến trƣờng ngƣời trở về lại gặp cảnh ối oăm trong tình u. Cịn
những cơ gái hậu phƣơng làm chỗ dựa cho tiền tuyến thì mấy khá hơn. Những
chị Ngân, Hạnh, Dâu, Cúc,...ngƣời thì sống chịu đựng khơng dám nói tình u
của mình, ngƣời thì mạnh dạn vƣợt qua chơng gai, thử thách nhƣng rồi có hạnh
phúc đƣợc đâu.

Ấy thế rõ là Dƣơng Hƣớng đã có dụng tâm sắp đặt. Mới đầu những tƣởng
một số tình yêu vƣợt qua thử thách, rào cản sẽ đƣợc hạnh phúc thế nhƣng đâu lại
vào đấy vẫn là bi kịch dài vô tận. Tình u trong Bến khơng chồng nó là thế

11

nhƣng khơng phải vì thế mà mất đi cái chất, cái cảm xúc trong tình yêu. Khi đọc
chúng ta nhận ra hƣơng vị tình u vẫn có cho dù là đau khổ và bi ai nhiều hơn.
Cảm xúc của con ngƣời lên ngơi cũng chỉ vì có tình u, cảm xúc của con ngƣời
tan biến khi tình yêu vỡ tan. “Hình nhƣ” tình yêu trong tiểu thuyết này là màu

đen thì phải, mà mấy ai thích màu đen trong tình u. Riêng tơi cũng vậy thơi
thích cái sự đẹp đẽ màu hồng trong tình yêu. Thật sự khi đọc tiểu thuyết này điều
tơi lƣu tâm nhất là tại vì sao Dƣơng Hƣớng khơng cho một cuộc tình nào có kết
thúc đẹp, mĩ mãn cả. Đôi lúc cảm thấy cái hứng đọc văn nó trơi theo tình u
trong tiểu thuyết này. Nhƣng khi nhìn thấu nhìn rõ dụng ý của ơng thì mới hiểu
tại vì sao tình u trong đây nó là nhƣ vậy. Cái điểm nhấn của kết cục tình yêu bi
thảm cuối cùng để kết thúc ý nghĩa của tiểu thuyết. Một ý nghĩa hết sức to lớn
khi Nguyễn Vạn chết đã làm thức tỉnh ngƣời dân làng Đông và cả một chế độ
trƣớc đây. Thì ra bấy lâu nay tất cả tình yêu đƣợc Dƣơng Hƣớng nhắc đến trong
Bến không chồng đều là một sợi dây liên kết để cho một cái kết cuối cùng, cái kết
tƣơi sáng hơn bao giờ hết. Và để rồi các bi kịch tình u đó sẽ mở đƣờng cho
những mối tình đẹp hơn, có hậu hơn sau này. Lại nói tình u trong Bến khơng
chồng tuy là buồn bã, thê lƣơng, nó làm cho ngƣời đọc cảm thấy xót xa cho
những số phận oan nghiệt, lầm lỗi. Nhƣng nó nói lên đƣợc sự khát vọng trong
tình u đơi lứa, mở đƣờng cho một sự phát triển mới của tình yêu khi đi qua
thời đại bấy giờ. Mặt khác tình yêu trong tiểu thuyết này giống nhƣ một sợi dây
dẫn đến cái kết cuối cùng theo mong muốn của tác giả. Thật sự cứ nói về những
tình u trong tiểu thuyết này tơi lại cảm thấy man mác buồn. Buồn cho những số
phận oái oăm, buồn cho những kết thúc vô hậu và buồn cho chính nỗi buồn của
những nhân vật trong truyện. Rồi cứ nhƣ thế trong vơ thức tơi lại nhìn thấy
những con ngƣời trong Bến không chồng.

Nhìn chung, hiểu về Dƣơng Hƣớng và hiểu về các tác phẩm của ông
đặc biệt là Bến không chồng. Chúng ta thấy một lối văn chậm mà chắc không
sắc xảo nhƣng ngôn từ giản dị làm nên thành công cho những tác phẩm của
ông. Bên cạnh đó đi nghiên cứu đề tài nói về bi kịch tình yêu nên chúng ta
phải đi tìm hiểu cái bi và sâu hơn là bi kịch. Lại nói, tình u trong Bến không

12


chồng nó bi ai, đầy nƣớc mắt làm cho ngƣời đọc cảm thấy xót xa, thƣơng cảm
đến vơ bờ. Những số phận, những con ngƣời làng Đơng đó đã trải qua biết bao
khổ cực trong cuộc sống thế nhƣng vẫn chƣa đủ, cả thẩy họ còn phải nhận
những bi kịch tình u nghiệt ngã. Để thấy đƣợc bi kịch đó diễn ra nhƣ thế
nào chúng ta đi vào chƣơng hai.

13

CHƢƠNG 2: BI KỊCH TÌNH U TRONG BẾN KHƠNG CHỒNG CỦA
DƢƠNG HƢỚNG

2.1. Lời nguyền – nguyên nhân dẫn đến bi kịch
Nói đến lời nguyền mà ở đây là lời nguyền rủa thì ngƣời ta nghĩ ngay đến

những điều không tốt đẹp. Khác với lời chúc phúc, lời nguyền rủa đƣợc coi là
mang vận xui rủi đến ngƣời hay gia tộc bị nguyền rủa. Sống ở trên đời nào ai
muốn hại nhau, duy chỉ có tâm xấu thì mới nảy sinh lịng ganh ghét thù hận mà
thôi. Trên đời không thiếu ngƣời tốt nhƣng cũng lắm ngƣời xấu xa, độc ác. Chính
vì thế càng ngày lòng tin, lòng vị tha của con ngƣời dần mất đi một cách vơ thức.
Đơi lúc có ngƣời gặp nạn chúng ta cũng thờ ơ vì ngƣời ta sợ sẽ có vận xui khi cứ
nghĩ rằng nhiều ngƣời sẽ lấy oán báo ơn. Chúng ta thƣờng đọc những cuốn tiểu
thuyết hay xem những bộ phim về đề tài phép thuật. Ắt hẳn không ai không biết
cuốn tiểu thuyết mang tên Harry Potter, cuốn tiểu thuyết rất dài nói về một thế
giới siêu nhiên phép thuật vơ lƣờng. Ở đó lời nguyền rủa đƣợc cho là thƣờng
xuyên xảy ra bởi các mụ phù thủy độc ác. Thế mới nói những lời nguyền rủa đó
rất ghê rợn mà chúng ta phải tránh. Nhƣng thật chất thế giới của lời nguyền chỉ là
tâm linh mà thôi, riêng tôi là tôi không tin lời nguyền. Thế nhƣng trên cuộc sống
này khó biết trƣớc chuyện gì xảy ra, đang yên đang lành tự nhiên nổi sóng gió.
Một bầu trời n bình mang tên làng Đơng bỗng chốc hóa cuồng phong chỉ do
một câu chuyện cho là khơng rõ lí do. Hai dịng tộc lớn là Nguyễn và Vũ đã xảy

ra mối thù ngàn kiếp ở làng Đông. Một câu chuyện xảy ra không ai ngờ đƣợc,
chuyện kể rằng:

“Đúng vào cái ngày họ Nguyễn ăn mừng lễ khánh thành ngôi từ đường to
nhất làng Đông, cô con gái rượu duy nhất của cụ tổ họ Nguyễn tối hôm ấy bỗng
nhiên lại rỡn mỡ mị ra bến Tình tắm. Cơ gái đâu có biết trên đầu bến cũng có
chàng trai nổi loạn, anh ta lặn một hơi dài chưa từng có đến ơm ghì lấy tấm thân
mềm mại mát lạnh của cơ gái. Cơ ngất xỉu trong vịng tay chàng trai. Thân thể
đầy dục vọng của chàng trai, cô gái lại ngỡ là ba ba thuồng luồng hay con ma
mắt đỏ ở gốc duối mị tới hiếp mình. Sáng hôm sau người ta thấy xác cô gái trần

14


×