Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận cao học chính sách công - Phân tích những bất cập về chính sách công ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.26 KB, 25 trang )

TIỂU LUẬN

MƠN: CHÍNH SÁCH CƠNG

Đề tài:

PHÂN TÍCH NHỮNG BẤT CẬP VỀ CHÍNH SÁCH CƠNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

MỤC LỤC

I. ĐẶT VẤN ĐỀ...............................................................................................1
II. NỘI DUNG..................................................................................................1
1. Khái niệm chính sách cơng, vai trị của chính sách cơng..............................1
1.1. Khái niệm chính sách cơng.........................................................................1
1.2 Vai trị của chính sách cơng ở Việt Nam.....................................................4
2. Những bất cập về chính sách cơng ở Việt Nam hiện nay.....................................7
3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi chính sách cơng ở Việt Nam.16
KẾT LUẬN....................................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................21

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Chính sách cơng (CSC) là chính sách của nhà nước, do nhà nước ban
hành và thể hiện vai trò của nhà nước trong quản lý xã hội. CSC là một bộ
phận quan trọng trong hệ thống chính sách của mỗi quốc gia nhằm hiện thực
hóa đường lối, chủ chương của chính đảng cầm quyền, đồng thời là công cụ
hữu hiệu để quản lý, điều hành, điều tiết và tạo điều kiện xây dựng, phát
triển kinh tế - xã hội (KT-XH) tại những thời điểm nhất định. Tồn bộ q
trình từ khi xây dựng, hình thành chính đến thực thi, đánh giá chính sách
được gọi là chu trình CSC. Chu trình CSC bao gồm nhiều khâu, nhiều giai


đoạn với những bước, những hoạt động cụ thể có mối quan hệ tương tác với
nhau. Mỗi khâu thuộc chu trình CSC có vai trị nhất định, tạo thành hệ thống
tổng thể quyết định đến giá trị, hiệu quả của từng CSC trong thực tế đời
sống kinh KT-XH. Do đó, nghiên cứu về chu trình CSC là rất cần thiết và có
ý nghĩa quan trọng.

Ở nước ta, CSC do Nhà nước ban hành, tổ chức thực hiện và dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phản ánh quan điểm, ý chí, nguyện
vọng của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt
Nam. Trong thời gian qua, chu trình CSC đã khơng ngừng được cải tiến và
từng bước hoàn thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, chu trình
CSC vẫn cịn bộc lộ khơng ít hạn chế, cần khắc phục, hồn thiện hơn. Chính
vì vậy, nghiên cứu về “Phân tích những bất cập về chính sách cơng ở Việt
Nam hiện nay” là một chủ đề đòi hỏi tiếp tục quan tâm và thực hiện ở nước ta
hiện nay. Chính vì vậy tác giả lựa chọn làm đề tài hết mơn chính sách cơng
của mình.

II. NỘI DUNG
1. Khái niệm chính sách cơng, vai trị của chính sách cơng

1.1. Khái niệm chính sách công

1

Trên các ấn phẩm ở Việt Nam những năm gần đây, thuật ngữ “Chính
sách cơng” được sử dụng với nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các cơng
trình nghiên cứu về chính sách cơng ở nước ta vẫn cịn khá khiêm tốn;
nhiều vấn đề liên quan đến chính sách cơng cần phải tiếp tục được làm rõ
cả về lý luận và thực tiễn. Trong khn khổ có hạn, bài viết dừng lại ở góc
độ nhận thức khái lược bước đầu về lý luận và thực tiễn “Chính sách cơng”

ở nước ta.

Chính sách cơng

Ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ “Chính
sách cơng” được sử dụng rất phổ biến. Có thể nêu ra một số quan niệm sau:

Chính sách cơng bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành
(Peter Aucoin, 1971).

Chính sách cơng là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau
của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa
chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin,
1978).

Chính sách cơng là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay khơng làm
(Thomas R. Dye, 1984).

Chính sách cơng là tồn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng
một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân (B. Guy
Peter, 1990).

Chính sách cơng là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan
lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà
nước hay các quan chức nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992).

2

Chính sách cơng bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các
chương trình nhằm đạt được những mục tiêu xã hội (Charle L. Cochran and

Eloise F. Malone, 1995).

Nói cách đơn giản nhất, chính sách cơng là tổng hợp các hoạt động của
chính phủ/chính quyền, trực tiếp hoặc thơng qua tác nhân bởi vì nó có ảnh
hưởng tới đời sống của cơng dân (B. Guy Peters, 1999).

Thuật ngữ chính sách cơng ln chỉ những hành động của chính
phủ/chính quyền và những ý định quyết định hành động này; hoặc chính sách
cơng là kết quả của cuộc đấu tranh trong chính quyền để ai giành được cái gì
(Clarke E. Cochran, et al, 1999).

Chính sách là một q trình hành động có mục đích mà một cá nhân
hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề
(James Anderson, 2003).

Chính sách cơng là một q trình hành động hoặc khơng hành động của
chính quyền để đáp lại một vấn đề cơng cộng. Nó được kết hợp với các cách
thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng
như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những
chương trình (Kraft and Furlong, 2004).

Từ các quan niệm trên, chính sách cơng có thể được nhìn nhận như sau:

Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà
nước, do chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính
sách nói chung của mỗi nước.

Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách cơng phản ánh và thể hiện hoạt
động cũng như quản lý đối với khu vực cơng, phản ánh việc đảm bảo hàng
hóa, dịch vụ công cộng cho nền kinh tế.


3

Thứ ba, là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng
để: (i) Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ cơng cho nền
kinh tế, khuyến khích cả với khu vực cơng và cả với khu vực tư; (ii) Quản lý
nguồn lực công một cách hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế,
chính trị, xã hội, môi trường, cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn. Nói cách
khác chính sách cơng là một trong những căn cứ đo lường năng lực hoạch
định chính sách, xác định mục tiêu, căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách
nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công như ngân sách nhà nước, tài sản
công, tài nguyên đất nước.

1.2 Vai trị của chính sách cơng ở Việt Nam

Chính sách cơng định hướng cho các chủ thể trong xã hội

Một trong những vai trò quan trọng của chính sách cơng là định hướng
cho các hoạt động của các thực thể kinh tế - xã hội. Mục tiêu chính sách thể
hiện thái độ ứng xử của Nhà nước trước một vấn đề cơng, nên nó thể hiện rõ
xu hướng tác động của Nhà nước lên các thực thể xã hội để chúng vận động
phù hợp với những giá trị tương lai mà Nhà nước theo đuổi. Các giá trị đó
phản ánh ý chí của Nhà nước nhằm đáp ứng các nhu cầu cơ bản của đời sống
xã hội. Nếu các thực thể xã hội tiến hành các hoạt động phù hợp với mục tiêu
chính sách thì cũng có nghĩa là đạt được mục tiêu phát triển chung và sẽ nhận
được những trợ giúp từ phía Nhà nước. Hơn nữa, bản thân các giải pháp chính
sách cũng có vai trò định hướng cho các thực thể kinh tế - xã hội trong việc
đề ra biện pháp.

Tạo động lực cho các chủ thể trong xã hội


Thái độ ứng xử của chủ thể biểu lộ rõ những xu thế tác động đến các
đối tượng để chúng vận động theo định hướng. Tác động này tạo động lực
mạnh mẽ đến các chủ thể trong quá trình hoạt động. Chẳng hạn, Nhà nước

4

dùng chính sách khuyến khích đầu tư trang thiết bị kỹ thuật trong các đơn vị
kinh tế vừa tạo việc làm, vừa tăng thu nhập cho lao động.

Vai trị khuyến khích và hỗ trợ: Để đạt được mục tiêu chính sách, Nhà
nước ban hành nhiều giải pháp, trong đó có giải pháp mang tính khuyến khích
và hỗ trợ tài chính như miễn thuế, hỗ trợ lãi suất, cho vay vốn lãi suất thấp
hoặc không lãi suất, về trợ giá, trợ cấp… và các biện pháp kỹ thuật như đơn
giản hóa thủ tục hành chính, hỗ trợ kỹ thuật để tạo thuận lợi cho các thực thể
kinh tế - xã hội tham gia. Các biện pháp này khơng mang tính bắt buộc, nó tạo
ra cơ chế khuyến khích sự tham gia tự nguyện của các thực thể kinh tế - xã
hội, nghĩa là khuyến khích các thực thể kinh tế - xã hội tiến hành những hoạt
động mà Nhà nước mong muốn. Ví dụ, chính sách khuyến khích đầu tư trong
nước, chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nhà nước ban hành
nhiều giải pháp nhằm khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư xây dựng
nhà máy để tiến hành hoạt động kinh doanh như miễn, giảm tiền thuê đất, đơn
giản hóa thủ tục hành chính, hỗ trợ giải phóng mặt bằng,… Hoặc trong chính
sách tam nơng, Nhà nước ban hành các giải pháp khuyến nông như hỗ trợ về
giống, hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân, thu mua lương thực với giá bảo đảm
cho nơng dân có một mức lợi nhuận nhất định, cho vay vốn lãi suất thấp…

Phân bổ nguồn lực cho quá trình phát triển

Để sử dụng có hiệu quả tài nguyên theo hướng ổn định, bền vững, Nhà

nước dùng chính sách để khuyến khích và điều tiết các q trình khai thác sử
dụng tài nguyên theo định hướng để bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và phát
triển bền vững.

Tạo lập mơi trường thích hợp cho các chủ thể tham gia hoạt động
kinh tế - xã hội

5

Thống nhất thái độ ứng xử của chủ thể với các vấn đề kinh tế - xã hội
chính là đã tạo ra một môi trường hướng đạo, giúp cho các thực thể xác định
được mục tiêu vận động của mình. Cịn sự phong phú về các giải pháp thực
hiện sẽ làm cho các thực thể chủ động tìm cách ứng phó hiệu quả nhất với
môi trường để tồn tại. Điều này sẽ mang lại động lực mạnh cho các thực thể
có chỗ đứng trong môi trường cạnh tranh.

Làm cơ sở phối hợp hoạt động của các chủ thể trong xã hội

Nhà nước đề ra mục tiêu chính sách để thống nhất mọi thành phần xã
hội đều hướng tới mục tiêu chung trên cơ sở thực hiện tốt những mục tiêu bộ
phận của mình. Do nắm chắc được mục tiêu chung các bộ phận sẽ tự biết
được vai trò, vị trí, thời gian và mức độ hồn thành các mục tiêu cụ thể của
mình để tự giác phối hợp thực hiện mục tiêu chung.

Vai trò tạo lập

Thơng qua các chính sách cơng, Nhà nước đưa ra những điều kiện cần
thiết nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho các thực thể kinh tế - xã hội tiến
hành các hoạt động. Ví dụ, chính sách phát triển thị trường lao động, thị
trường vốn, thị trường khoa học – cơng nghệ, thị trường chứng khốn, thị

trường bất động sản, thị trường dịch vụ. Để kinh tế - xã hội đất nước phát
triển một cách bình thường, ổn định, Nhà nước ban hành nhiều chính sách để
đảm bảo các cân đối vĩ mơ chính yếu như: cân đối giữa cung cầu, xuất nhập
khẩu,…

Vai trò điều tiết

Nhà nước cũng sử dụng các chính sách để điều tiết thu nhập giữa các cá
nhân và doanh nghiệp trong xã hội, điều tiết các thị trường lao động, vốn…
như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, quy định giá cả một

6

số hàng hóa thiết yếu, bình ổn giá trên thị trường, chính sách tiền lương, chính
sách lãi suất, chính sách tỷ giá,…

Nhà nước dùng các chính sách để bảo bảo sự phát triển đồng đều giữa
các vùng, miền thông qua việc phân bổ và tái phân bổ các nguồn lực của xã
hội.

Vai trò hiệu chỉnh những thất bại của thị trường

Trong kinh tế thị trường, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy
luật giá cả và các quy luật thị trường khác khuyến khích các thực thể kinh tế -
xã hội đầu tư vốn, trí tuệ vào các hoạt động kinh doanh, nghiên cứu và phát
triển, không ngừng đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, nâng cao
chất lượng và hạ giá thành hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho xã hội. Nhờ đó các
cá nhân, tổ chức trong xã hội được hưởng lợi như hàng hóa và dịch vụ nhiều
về số lượng, phong phú về chủng loại, chất lượng ngày càng tăng lên với giá
ngày càng rẻ. Ở góc độ tồn xã hội, kinh tế thị trường góp phần vào việc phân

bổ có hiệu quả các nguồn lực của xã hội và gia tăng phúc lợi xã hội, tạo động
lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Tuy nhiên, bản thân kinh tế thị trường
cũng có nhiều khiếm khuyết mà các nhà kinh tế học gọi là thất bại của thị
trường như độc quyền tự nhiên, cung cấp khơng đầy đủ hàng hóa công cộng,
ngoại ứng, không đối xứng thông tin, sử dụng quá mức các tài nguyên sở hữu
chung, bất ổn kinh tế vĩ mơ, gia tăng bất bình đẳng… những vấn đề đó ảnh
hưởng khơng tốt lên xã hội và các thành viên của xã hội. Vì vậy, nhà nước
phải ban hành các chính sách để hiệu chỉnh những thất bại của thị trường như
chính sách tạo mơi trường cạnh tranh và chống độc quyền; cung ứng dịch vụ
công thông qua thành lập các doanh nghiệp nhà nước và tổ chức dịch vụ
cơng; điều tiết những tác động tích cực và tiêu cực của ngoại ứng; bảo vệ và
sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên sở hữu chung; loại bỏ sự bất đối

7

xứng thông tin giữa những người sản xuất và người tiêu dùng hàng hóa và
dịch vụ; duy trì sự ổn định của nền kinh tế; bảo đảm sự công bằng xã hội.

2. Những bất cập về chính sách cơng ở Việt Nam hiện nay

Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) thì CSC là cơng cụ
tiền đề, khơng thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý khác như pháp
luật, kế hoạch, phân cấp - phân quyền… Điều đó giải thích vì sao trong những
năm gần đây Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao
vai trò của CSC như là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước nói riêng và đẩy mạnh chất lượng của sự nghiệp đổi mới nói chung.
Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao và phức tạp của quản lý nhà nước thì
hoạt động hoạch định và thực thi CSC ở nước ta đang ở trong bối cảnh nào và
đặt ra những vấn đề gì cần giải quyết?


Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định CSC đã đạt được một số kết
quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực trọng yếu,
cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh xã hội, quân
sự, ngoại giao…). Một số CSC quan trọng đã được luận chứng khoa học hơn,
bám sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã tạo lập
và hoàn thiện được một hệ thống CSC khá phù hợp, đáp ứng được yêu cầu
ngày càng cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách
mới được ban hành đã đáp ứng được về cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn
thiện thể chế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt, có tính ứng phó khá tốt với
tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu như: chính sách kích cầu,
chính sách điều chỉnh tiền lương cơ bản, chính sách hạ thấp lãi suất cho vay
của ngân hàng, lãi suất tối đa cho tiền gửi bằng đồng Việt Nam, chính sách
mang ngoại tệ, tiền Việt Nam của cá nhân khi xuất nhập cảnh, chính sách điều
chỉnh thuế thu nhập cá nhân, chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông

8

nghiệp… Theo đó, nhiều chính sách đã phát huy được tác dụng trong kiềm
chế lạm phát, góp phần ổn định giá cả thị trường và mức độ tăng trưởng của
nền kinh tế trong điều kiện khủng hoảng kinh tế. Điều đó được đánh giá như
những phản ứng kịp thời của nhà nước trước những biến động lớn của kinh tế
toàn cầu và khu vực.

Bên cạnh đó, việc tổ chức thực thi CSC cũng đạt được những yêu cầu
cơ bản như: kịp thời, đồng bộ, hiệu quả trong phạm vi cả nước cũng như từng
địa phương, ngành. Một số địa phương đã chủ động, linh hoạt và sáng tạo
trong triển khai thực thi chính sách cho phù hợp với đặc điểm của mình, có
tính đến đặc điểm của đối tượng thụ hưởng chính sách. Cơng tác tổng kết thực

tiễn thi hành chính sách cũng đã bắt đầu được chú ý hơn; một số chính sách
được sơ kết, tổng kết khá cơng phu, có quy trình khoa học và có giá trị tham
khảo lớn. Nhìn tổng thể, việc thực thi chính sách đã đi vào nề nếp, nghiêm
minh với khơng ít kinh nghiệm bổ ích đã được đúc rút từ thực tiễn.

Hoạt động phân tích, đánh giá CSC đã bắt đầu được quan tâm với tư
cách là một trong những cơng đoạn quan trọng của quy trình CSC. Tuy chưa
nhiều và chưa thật sự phát huy hết hiệu quả nhưng một số cơ quan nhà nước,
viện nghiên cứu và cá nhân có những sản phẩm phân tích, đánh giá CSC rất
tốt, giúp cho việc ban hành, sửa đổi nhằm hồn thiện hệ thống chính sách
hiện hành theo hướng khả thi, hiệu quả, mang lại lợi ích cho xã hội. Đặc biệt,
vai trò của một số tổ chức phi nhà nước trong việc phân tích, đánh giá CSC
được dư luận xã hội thừa nhận về chất lượng, về chính kiến và ảnh hưởng của
chúng như: Viện nghiên cứu, tư vấn chính sách, pháp luật và phát triển (PLD)
thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA)… Nhờ
đó, từ chỗ là cơng việc khá lạ lẫm trong quy trình chính sách, thì đến nay hoạt
động phân tích, đánh giá CSC đã bắt đầu được quan tâm nhiều hơn khơng chỉ
từ phía các cơ quan nhà nước mà còn là của xã hội.

9

Mặc dù vậy, khi đánh giá về hạn chế, khuyết điểm trong 5 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội X, Đảng ta nhận định: "Năng lực xây dựng thể chế,
quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu… Năng lực dự báo,
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực cịn yếu…"[1]. Có
thể thấy những hạn chế, bất cập đó trên các khía cạnh chủ yếu sau đây:

- Lý luận về mơ hình phát triển chung cịn nhiều vấn đề chưa được làm
sáng tỏ đã và đang tác động không nhỏ tới lý luận và thực tiễn của nhiều lĩnh
vực vĩ mô như: về mối quan hệ giữa cải cách hệ thống chính trị với đổi mới

kinh tế, về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, về tăng trưởng đi đôi
với thực hiện công bằng xã hội trong từng bước và trong cả quá trình phát
triển, về bảo vệ môi trường trong phát triển bền vững… Trong đó, cịn nhiều
vấn đề đặt ra rất bức xúc nhưng chưa được kiến giải thấu đáo ở phương diện
lý luận hay nói cách khác, lý luận cịn bất lực trước nhiều vấn đề thực tế mà
cội rễ của nó là tư duy chưa thật sự bắt kịp được yêu cầu ngày càng cao, phức
hợp của công cuộc đổi mới.

Thực tiễn của Việt Nam, của từng địa phương, từng ngành vẫn chưa
thật sự được quan tâm như là một tiền đề, điều kiện tối quan trọng để xây
dựng, ban hành, tổ chức thực hiện chính sách. Vì thế, vẫn cịn khơng ít những
chính sách xa với thực tế, gây khó khăn khi tổ chức thực hiện và khơng được
dư luận thật sự đồng tình. Đặc biệt, những căn bệnh chủ quan, duy ý chí, chạy
theo thành tích, thích "đánh bóng hình ảnh", lợi ích cục bộ của từng bộ, ngành
hoặc lợi ích của một số nhóm trong xã hội vẫn tồn tại dai dẳng đã gây những
hậu quả không nhỏ cho xã hội, cho từng ngành và địa phương từ hoạt động
hoạch định cho tới tổ chức thực thi CSC.

Quy trình hoạch định CSC tuy đã được nghiên cứu cải tiến theo hướng
hiện đại, tiện lợi, dân chủ nhưng nhìn tổng thể vẫn theo cách "có một không

10

hai" (theo dẫn chứng của Giáo sư Kenichi Ohno, Viện Nghiên cứu kinh tế
Nhật Bản)[2]. Theo đó, có thể chỉ ra những bất cập chủ yếu như:

- Làm chính sách vẫn đang được coi là đặc quyền của các cơ quan nhà
nước, của nhà nước nói chung mà chưa phải là cơng việc chung của xã hội,
của các doanh nghiệp, của các nhóm lợi ích trong xã hội.


- Có q nhiều chính sách của các bộ, ngành trong khi chúng được xây
dựng phân tán; thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành một cách hợp lý và có cơ
quan chủ trì, chịu trách nhiệm đích thực nên chất lượng khơng cao. Trong khi
đó, hầu hết các chiến lược hay chính sách đều thể hiện sự liệt kê mục tiêu,
quan điểm định hướng, yêu cầu mà thiếu hẳn những kế hoạch hành động cụ
thể hay các biện pháp cần có.

- Chưa hình thành được những kênh thơng tin chính thống cần thiết
giữa nhà nước với xã hội trong việc xây dựng, ban hành, thực thi CSC để
phúc đáp những lợi ích cơ bản của đôi bên.

- Vai trò của các cơ quan thẩm định, phê duyệt chính sách chưa được
phát huy nên đã tạo những kẽ hở đáng kể cho việc ra đời một số chính sách có
chất lượng chưa cao, thậm chí xã hội khơng đồng tình.

- Hiện tượng "vận động chính sách" (lobby) tuy chưa được chính thức
thừa nhận ở phương diện luật pháp nhưng đã xuất hiện dưới nhiều hình thức
với những biểu hiện tiêu cực khác nhau làm ảnh hưởng đến tính cơng bằng
của chính sách, gây những nguy hại nhất định cho xã hội lại chưa được quan
tâm nghiên cứu để có phương hướng và biện pháp xử lý có hiệu lực, hiệu quả.

Trong lĩnh vực tổ chức thực thi CSC bộc lộ những hạn chế, bất cập chủ
yếu về tính kịp thời, đồng bộ, nhất quán trong tổ chức thực hiện, nhất là ở một
số chính sách về kinh tế - xã hội và môi trường trong thời gian gần đây. Hoạt
động tuyên truyền, phổ biến, thuyết phục, vận động nhằm định hướng dư luận

11

trong q trình thực hiện chính sách chậm được đổi mới về hình thức, phương
pháp, nội dung; cịn nhiều biểu hiện hình thức, "làm cho có"… nên kém hiệu

quả. Cơng tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra chưa kịp thời, thường xuyên và
thiếu thực chất. Việc xử lý khiếu nại, tố cáo các vi phạm pháp luật trong quá
trình thực hiện cịn chậm, nhiều trường hợp thiếu cơng bằng, nghiêm minh đã
ảnh hưởng xấu đến thực hiện CSC. Công tác tổng kết thực tiễn, rút kinh
nghiệm cho hoạch định và thực thi chính sách chưa được coi trọng, chưa làm
thường xuyên, kịp thời. Trong một thời gian dài, hoạt động này chưa thật sự
được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quan tâm, coi trọng do sự bất cập
trong tư duy làm chính sách. Điều này khơng chỉ đúng với quy trình chính
sách của chính quyền địa phương mà cịn của Chính phủ, các bộ, ngành.
Trong những năm gần đây, thực tiễn cho thấy xã hội đã bắt đầu ý thức rõ hơn
về vai trò quan trọng của hoạt động này trong tổng thể quy trình chính sách.
Tuy vậy, xét về tổng thể, hoạt động phân tích, đánh giá CSC cịn ở trong tình
trạng lẻ tẻ, rời rạc, hình thức; khơng có nhiều những sản phẩm nghiên cứu có
tầm cỡ về nội dung, chất lượng và quy mô để có thể tạo ra được những đột
phá về chính sách trong từng lĩnh vực. Vì những lý do rất khác nhau mà
những kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá CSC được ứng dụng vào thực
tế một cách hữu ích chưa nhiều, gây lãng phí, thiệt thịi cho tồn bộ quy trình
CSC hoặc từng cơng đoạn trong đó. Việc tiếp thu các kết quả phân tích, đánh
giá CSC từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cịn rất dè dặt, cứng
nhắc; thậm chí có những trường hợp tỏ thái độ phân biệt, phê phán, "chụp
mũ"… Số lượng các cơ quan hoặc cá nhân nghiên cứu về CSC chưa đủ để
đáp ứng nhu cầu thực tế của lĩnh vực này, trong đó bản thân họ cũng gặp
những khó khăn nhất định về khung pháp lý và phản ứng của một số cơ quan
nhà nước.

Khi Việt Nam chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, địi hỏi ban hành các chính sách để

12


tạo ra những nhân tố, môi trường cho sự chuyển đổi trở thành cấp bách. Vì
vậy, trong một thời gian khá dài, Nhà nước tập trung cao vào việc xây dựng
và ban hành các thể chế, nhằm tạo các hành lang pháp lý cho mọi lĩnh vực
kinh tế, xã hội. Việc ban hành hàng loạt văn bản pháp luật trong khơng ít
trường hợp dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lắp, thậm chí mâu thuẫn
nhau giữa các quy định pháp lý, mà cuối cùng là sự chi phối của chúng đối
với các hoạt động kinh tế – xã hội theo các chiều khác nhau, khiến cho
những hoạt động này không đạt được mục tiêu mong muốn. Nói cách khác,
hàng loạt chính sách được ban hành, có hiệu lực thi hành, song việc chính
sách đó có hiệu lực thực tế như thế nào và đáp ứng mục tiêu đặt ra đến đâu
thì dường như khơng được quan tâm. Đơi khi chính sách được ban hành
chẳng những không giải quyết được vấn đề đặt ra, mà còn gây ra những hiệu
ứng phụ làm phức tạp thêm vấn đề. Chẳng hạn, chính sách hạn chế ùn tắc
giao thông trong các thành phố lớn đã được triển khai với nhiều giải pháp
khác nhau, song thực tế vẫn chưa giải quyết được vấn đề ùn tắc, trong khi đó
một số giải pháp đưa ra, như chặn các ngã tư, thu phí chống ùn tắc lại gây ra
các hiệu ứng phụ làm rắc rối thêm hiện trạng. Hơn thế, việc hoạch định
chính sách (thơng qua việc soạn thảo và ban hành hàng loạt văn bản pháp
luật) và việc tổ chức triển khai các chính sách đó trên thực tế đã tiêu tốn tiền
của của nhân dân và sức lực của khơng ít người, song nhiều khi các chính
sách này khơng đem lại lợi ích tương xứng với chi phí đã bỏ ra. Do đó, đã
đến lúc cần coi đánh giá chính sách như một khâu khơng thể thiếu trong quy
trình chính sách.

Các trở ngại trong đánh giá chính sách công hiện nay

Mặc dù là một khâu quan trọng trong quy trình chính sách, song ở nước
ta, nhiều chính sách khơng được quan tâm đánh giá. Tình trạng đó xuất phát
từ các lý do sau đây:


13

Thứ nhất, nhận thức về đánh giá chính sách cịn đơn giản. Điều đó
được biểu hiện:

- Đồng nhất chính sách với một văn bản đơn lẻ. Mặc dù chính sách
được thể chế hóa trong văn bản pháp luật, song khơng thể đồng nhất chính
sách với một văn bản đơn lẻ. Thậm chí có những chính sách lớn lại là tập hợp
của những chính sách bộ phận. Chẳng hạn, chính sách xóa đói, giảm nghèo
bao gồm chính sách hỗ trợ người nghèo thơng qua các chương trình mục tiêu
quốc gia, chính sách miễn giảm học phí cho người nghèo, chính sách khám,
chữa bệnh miễn phí cho người nghèo… Do đó, việc đánh giá chính sách
thường khá phức tạp, địi hỏi có cách nhìn tổng thể.

- Coi đánh giá chính sách là việc của cơ quan ban hành chính sách, nên
chờ đợi khi cơ quan này có chủ trương hoặc yêu cầu cụ thể mới tổ chức triển
khai đánh giá.

- Tách biệt giữa đánh giá nội dung chính sách (thể hiện qua văn bản)
với đánh giá việc thực thi chính sách. Đơi khi, chúng ta rơi vào các nhận xét
phiến diện: hoặc cho rằng các chính sách ban hành là đúng đắn, thường chỉ
sai phạm trong khâu thực thi; nhưng có lúc lại che lấp các hạn chế trong
thực thi chính sách bằng cách đổ lỗi cho sự không phù hợp của các quy định
pháp luật.

Thứ hai, các cơ quan chức năng thường không quan tâm tổ chức đánh
giá chính sách. Trên thực tế, rất ít chính sách được tổ chức đánh giá một cách
nghiêm túc, bài bản. Nhiều cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ban hành chính
sách hoặc chủ trì tổ chức thực hiện chính sách) khơng đưa việc đánh giá chính
sách vào chương trình hoạt động của mình. Có thể nêu ra nhiều ngun nhân

của tình trạng này: do khơng có đủ nhân lực, khơng có nguồn lực tài chính để
đánh giá, do chính sách được thực hiện rất “bình lặng” khơng gây ra vấn đề
gì, do bản thân các cơ quan này khơng muốn “tự phán xét” các chính sách do

14

mình ban hành và thực thi… Đương nhiên, việc đánh giá chính sách khơng
chỉ do các cơ quan nhà nước tiến hành. Các đánh giá chính sách có thể được
phản ánh qua công luận, qua ý kiến của nhân dân, của các tổ chức chính trị –
xã hội. Song sự đánh giá từ bên ngồi nhà nước sẽ chỉ có giá trị thực sự nếu
được các cơ quan nhà nước tiếp nhận, tổng hợp và rút kinh nghiệm. Trong
khơng ít trường hợp, sự đánh giá lẻ tẻ, tự phát của nhân dân bị bỏ qua. Nếu
thiếu sự chủ trì của các cơ quan chức năng, thì việc đánh giá cũng ít có tác
động đến các nhà hoạch định và thực thi chính sách.

Thứ ba, việc xem xét lại chính sách đơi khi chỉ được thực hiện khi xuất
hiện “vấn đề”. Trong một số trường hợp, các chính sách vẫn “bình n” trong
một thời gian dài, chỉ đến khi “vấp váp” trong thực tiễn, người ta mới nhận ra
được những “lỗ hổng” của chính sách.

Thứ tư, thiếu các tiêu chí để đánh giá chính sách một cách khoa học.
Khi đánh giá chính sách, người ta thường so sánh các kết quả đạt được với
mục tiêu chính sách ban đầu. Việc đánh giá chính sách sẽ dễ dàng nếu các
mục tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định lượng, chẳng hạn như tốc
độ gia tăng dân số, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường… Song,
trên thực tế đa số các mục tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định tính,
nhiều khi mục tiêu khơng rõ ràng, trong trường hợp đó việc đánh giá chính
sách theo mục tiêu đề ra có thể khơng phản ánh hết các giá trị của chính sách.
Để đánh giá chính sách, về ngun tắc, phải có các bộ tiêu chí đánh giá được
thiết kế đối với từng loại chính sách. Việc thiếu các tiêu chí đánh giá khiến

cho việc đánh giá khơng tồn diện, đầy đủ, mang tính phiến diện. Chẳng hạn,
đánh giá về chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam, có thể thấy kết quả
rất khả quan với việc giảm tỷ lệ nghèo từ 22% năm 2005 xuống còn 10,7%
năm 2010 theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006 – 2010. Song, nếu đi vào đánh giá
tác động của các chính sách cụ thể tới người nghèo thì thấy cịn rất nhiều hạn
chế. Chẳng hạn, Chương trình 135 trong giai đoạn 2006 – 2010 tuy đã chi hơn

15

14.000 tỉ đồng, chưa tính đến giá trị cơng sức đóng góp của dân, nhưng đến
năm 2010, mới chỉ có 113 xã, chiếm 6% số xã được hưởng thụ Chương trình,
được “xóa tên” khỏi diện nghèo. Ở một số tỉnh có số xã cịn tỷ lệ nghèo cao,
như Lạng Sơn: 49%, Điện Biên: 50%, Quảng Bình: 49,34%, Quảng Nam:
48,78%, Quảng Ngãi: 49,94%.

Thứ năm, đánh giá chính sách đơi khi mang tính một chiều, chỉ phản
ánh nhận xét của các cơ quan nhà nước mà không quan tâm đủ mức đến sự
phản hồi từ xã hội, từ những đối tượng mà chính sách hướng vào. Mặc dù
đánh giá của các cơ quan nhà nước về chính sách có thuận lợi do họ nắm rất
rõ về chính sách và q trình thực hiện chính sách, nhưng cách làm này có thể
dẫn đến chỗ các kết quả đánh giá chịu sự chi phối của chính những người làm
ra và vận hành chính sách đó, việc chỉ ra các sai sót của bản thân họ sẽ gặp
phải rào cản tâm lý mạnh mẽ và nhiều khi bị bóp méo theo ý muốn chủ quan.
Vì vậy, khi đánh giá chính sách, ít cơ quan tổ chức các cuộc khảo sát lấy ý
kiến phản hồi từ nhân dân hay các đối tượng hưởng lợi một cách rộng rãi,
công khai. Trong một số trường hợp các cơ quan chức năng đã tổ chức thu
thập ý kiến phản hồi từ các phương tiện truyền thơng, hay tổ chức các buổi
đóng góp ý kiến thơng qua các đồn thể chính trị – xã hội. Tuy nhiên, không
phải lúc nào các ý kiến này cũng phản ánh đầy đủ và chính xác những vấn đề
mà thực tiễn đang đặt ra liên quan đến chính sách được đánh giá.


Thứ sáu, thiếu kinh phí dành cho việc đánh giá chính sách. Các cơ quan
thường dành nguồn kinh phí có hạn của mình để triển khai các cơng việc mới
(nhằm tạo ra những kết quả mới) hơn là dùng kinh phí đó để xem xét lại
những gì đã làm.

Nhận thức về đánh giá chính sách cịn đơn giản, phiến diện, thường
được thực hiện có tính chất hành chính, tổng kết, báo cáo cơng tác của các cơ
quan chính quyền chịu trách nhiệm triển khai chính sách. Các cơ quan chức

16

năng thường khơng quan tâm tổ chức đánh giá chính sách. Việc xem xét lại
chính sách chỉ được thực hiện khi xuất hiện “vấn đề”.

Chưa thể chế hóa được quy trình, tiêu chí đánh giá chính sách, đặc biệt
là hiệu quả chính sách từ phương diện chi phí - lợi ích.

Việc đánh giá chính sách đơi khi mang tính một chiều, chỉ phản ánh
nhận xét của các cơ quan nhà nước mà chưa quan tâm đầy đủ đến sự phản hồi
từ xã hội, từ những đối tượng mà chính sách hướng vào.

Sự can dự và vai trò của các chủ thể hưởng lợi trong việc đánh giá
chính sách cơng cịn thấp và mờ nhạt. Chưa có cơ chế hữu hiệu nhằm giám
sát, ghi nhận và xử lý các phản hồi của người dân đối với việc thực thi chính
sách. Việc này chỉ được các cấp quản lý quan tâm khi có các sự cố hoặc vụ
việc nghiêm trọng xảy ra (tranh chấp đất đai, ô nhiễm môi trường, sự cố đập
thủy điện, dịch bệnh, cháy nổ...).

Chưa dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc đánh giá chính sách nên

thường phải dựa vào sự hỗ trợ của nước ngoài và các nhà tài trợ.

3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi chính sách công ở
Việt Nam

Khi phân tích nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên một số
lĩnh vực về chính sách cơng, Đảng ta đều đưa ra đánh giá, đó là: "tổ chức thực
hiện vẫn là khâu yếu". Từ việc nghiên cứu các yếu tố tác động đến hiệu quả
thực thi chính sách cơng, có thể rút ra một số kiến nghị nâng cao hiệu quả
thực thi chính sách ở Việt Nam như sau:

Một là, muốn nâng cao hiệu quả thực thi chính sách cơng, cần nâng cao
chất lượng chính sách.Trong thực tiễn chính sách cơng ở Việt Nam, bên cạnh
những chính sách đảm bảo chất lượng, cũng có khơng ít chính sách chất
lượng khơng cao. Chính điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả thực thi

17

một số chính sách trong thực tế. Chất lượng khơng cao của một số chính sách
thể hiện trên một số khía cạnh, như phương án và mục tiêu chính sách thiếu
cụ thể, khơng rõ ràng, thiếu tính khả thi, mục tiêu chính sách quá cao, một số
phương án chính sách được đề ra không phù hợp với thực tiễn. Chất lượng
của một số chính sách khơng cao do nhiều ngun nhân, trong đó gồm ba
nguyên nhân chủ yếu: i) chưa coi trọng đúng mức việc nghiên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn của chính sách; ii) năng lực hoạch định chính sách của cơ
quan hoạch định chính sách; iii) dân chủ hóa trong hoạch định chính sách
chưa được coi trọng đúng mức, sự tham gia của người dân và hoạt động tư
vấn, giám định và phản biện của các tổ chức chưa đáp ứng yêu cầu. Do đó, để
góp phần nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, cần coi trọng nâng cao chất
lượng chính sách theo hướng, coi trọng nghiên cứu cơ sở lý luận về chính

sách, nâng cao năng lực của cơ quan hoạch định chính sách và dân chủ hóa
q trình hoạch định chính sách.

Hai là, để nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, cần đảm bảo nguồn
lực đủ mức cho thực thi chính sách. Trong thực tiễn thực thi chính sách cơng
ở Việt Nam, nhiều chính sách liên quan trực tiếp đến lợi ích và cuộc sống của
đông đảo người dân như bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm... thực
hiện chưa như mong muốn. Có nhiều ngun nhân dẫn đến tình trạng này,
trong đó, có nguyên nhân là việc phân bổ và đảm bảo nguồn lực chưa đủ mức.
Do đó, để nâng cao hiệu quả thực thi chính sách cơng, cần phân bổ nguồn lực
đủ mức cho thực thi chính sách; thực hiện sự ưu tiên trong phân bổ nguồn lực
để thực thi một số chính sách liên quan đến lợi ích và cuộc sống của nhiều
người dân. Để đảm bảo nguồn lực cho thực thi chính sách, ngồi sử dụng hợp
lý và tiết kiệm nguồn lực do nhà nước đầu tư, cần thực hiện xã hội hóa tối đa
cũng như sự tham gia của người dân và xã hội để có thêm nguồn lực cho thực
thi chính sách.

18


×