Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

VIẾT TÌNH HUỐNG PHỤC VỤ CHO GIẢNG DẠY – HỌC TẬP: TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU HỌC PHẦN QUẢN TRỊ MARKETING TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 14 trang )

Tạp chí Khoa học Đại học Huế; Tập 95; Số 7; 12/ 2014
ISSN 1859-1388

Chuyên San Khoa học Xã hội và Nhân văn

VIẾT TÌNH HUỐNG PHỤC VỤ CHO GIẢNG DẠY – HỌC TẬP: TRƯỜNG
HỢP NGHIÊN CỨU HỌC PHẦN QUẢN TRỊ MARKETING TẠI TRƯỜNG ĐẠI

HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC HUẾ

Lê Quang Trực, Phan Thị Thanh Thủy
Đại học Kinh tế- Đại học Huế

Tóm tắt. Giảng dạy bằng phương pháp tình huống trong các ngành học về kinh tế
được hiểu là việc sử dụng tình huống có thật, đã diễn ra ở các tổ chức, doanh
nghiệp để sinh viên cùng nhau thảo luận và giải quyết vấn đề, từ đó trau dồi năng
lực suy nghĩ phản biện và khả năng ra quyết định. Khởi xướng đầu tiên ở trường
Kinh doanh Harvard vào năm 1870, ngày nay phương pháp tình huống được sử
dụng rộng rãi trong giảng dạy ở các nước trên thế giới. Tại Việt Nam, phương pháp
này đang được nhiều trường đại học khuyến khích áp dụng vì tính thực tiễn của nó.
Bài báo này dựa vào kết quả nghiên cứu khoa học năm 2013 của nhóm giảng viên
Bộ môn Marketing – Khoa QTKD – Trường Đại học Kinh tế – Đại học Huế. Nội
dung bài báo nhằm trả lời các câu hỏi (1) phương pháp tình huống là gì? (2) quy
trình viết tình huống nào có thể áp dụng cho khóa học quản trị marketing? (3) cách
lập bản hướng dẫn giảng dạy cho một tình huống?. Qua đó, giúp giảng viên và sinh
viên hiểu đúng phương pháp tình huống và cách ứng dụng phương pháp này vào
giảng dạy các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, marketing, vv.

Từ khóa: Phương pháp tình huống, viết tình huống

1. Giới thiệu



Trong lĩnh vực đào tạo về kinh tế và quản trị kinh doanh, phương pháp giảng dạy
truyền thống với vai trò người thầy làm trung tâm phát thông tin và sinh viên bị động
tiếp nhận thơng tin đã trở nên lạc hậu. Để có thể đảm bảo rằng các nhà quản trị kinh
doanh tương lai được đào tạo ra có đủ năng lực tư duy sáng tạo, khả năng tự tiếp thu cái
mới và cao hơn nữa là khả năng tự hồn thiện thì việc đổi mới phương pháp giảng dạy
trong đó bao gồm cả việc vận dụng phương pháp tình huống vào giảng dạy là nhu cầu
bức thiết.

Vào năm 1870, Trường Kinh doanh Harvard lần đầu tiên áp dụng phương pháp
tình huống vào giảng dạy bằng cách mời các nhà quản trị doanh nghiệp chia sẻ thông tin
thực tế cho sinh viên và liên tục cập nhật cho các bài tập tình huống của mình. Từ đó
cho đến nay, việc sử dụng phương pháp tình huống được diễn ra rất phổ biến trên thế

Địa chỉ E-mail:
Nhận bài: 18-02-2014; Hoàn thành phản biện: 23-06-2014 .

Jos.hueuni.edu.vn Tập. 95; Số. 7; 12,1014

giới, đặc biệt ở các nước phát triển, và thường tập trung vào các ngành kinh doanh, quản
lý, tâm lí, sư phạm, y khoa,… Tại Việt Nam, đã có một số nghiên cứu được triển khai về
phương pháp tình huống trong giảng dạy bậc cao học Quản trị kinh doanh. Điển hình là
sách tham khảo “Các tình huống trong giảng dạy cao học quản trị kinh doanh tại Việt
Nam1” do nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 2009.
Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có những nghiên cứu chính thức về cách viết tình huống
phục vụ cho giảng dạy – học tập học phần Quản trị marketing.

Thơng qua q trình giảng dạy, chúng tôi nhận thấy cần thiết phải hiểu đúng và
vận dụng đúng phương pháp tình huống. Vì vậy, nghiên cứu này nhằm mục đích trả lời
các câu hỏi: (1) phương pháp tình huống là gì? (2) quy trình viết một tình huống? (3)

làm thế nào để lập bản ghi chú (hướng dẫn) giảng dạy một tình huống?.

2. Cơ sở lý thuyết

2.1. Tình huống và phương pháp tình huống

Theo Từ điển Tiếng Việt, tình huống được hiểu là tồn thể những sự việc xảy ra
tại một địa điểm, trong một thời gian cụ thể, buộc người ta phải suy nghĩ, hành động,
đối phó, tìm cách giải quyết. Nếu xét trong bối cảnh giảng dạy - học tập thì tình huống
là một câu chuyện, có cốt chuyện và nhân vật, liên hệ đến một hồn cảnh cụ thể, từ góc
độ cá nhân hay nhóm, và thường là hành động chưa hồn chỉnh. Đó là một câu chuyện
cụ thể và chi tiết, chuyển nét sống động và phức tạp của đời thực vào lớp học (Boehrer,
1995).

Nếu xem xét trong bối cảnh hẹp hơn nữa là giảng dạy các môn học thuộc lĩnh vực
kinh tế và quản lý, một tình huống là những thơng tin mơ tả về một quyết định, thách
thức, cơ hội, sự cố hay vấn đề mà người trong tổ chức phải đối mặt. Tình huống địi hỏi
người đọc từng bước đứng vào vị trí của người ra quyết định (Mauffette – Leenders và
cộng sự, 1999).

Những dạng công cụ giảng dạy khác như bài tập, vấn đề, hoặc bài báo… có thể là
những cơng cụ giảng dạy tuyệt vời nhưng chúng khác với một tình huống ở chỗ người
viết chúng không sử dụng dữ liệu do tổ chức cung cấp và chưa có được sự cho phép
cơng bố. Thỉnh thoảng những cơng cụ đó được gọi là tình huống được viết tại chỗ
“armchair case”, để ám chỉ rằng chúng được viết ra khi người viết ngồi thoải mái trên
ghế ở một văn phịng nào đó, chứ khơng phải ra hiện trường để thu thập dữ liệu thật.

1 Đây là kết quả của dự án do The Sasakawa Peace Foundation tài trợ để phát triển các tình huống kinh
doanh giảng dạy MBA tại Việt Nam và được thực hiện bởi 03 trường đại học: Đại học Kinh tế TP. HCM,
Đại học Nông nghiệp Hà Nội và Đại học Kinh tế- Đại học Huế.


230

Jos.hueuni.edu.vn Tập. 95; Số. 7; 12,1014

2.2. Phương pháp tình huống

Phương pháp tình huống cần được nhìn nhận dưới cả hai góc độ: người dạy và
người học. Dưới góc độ giảng dạy, đây là một phương pháp giảng dạy dựa vào những ví
dụ thực tế và được dùng để thúc đẩy hành động, phát triển kiến thức và kỹ năng của
người học. Dưới góc độ của người học, phương pháp tình huống là phương pháp học
tập dựa trên thảo luận, kích thích người học học tập thông qua việc chia sẻ, thảo luận
với những thành viên khác bằng cách sử dụng tình huống (Mauffette – Leenders và
cộng sự, 1999). Tóm lại, phương pháp tình huống vừa là kỹ thuật giảng dạy vừa là kỹ
thuật học tập, trong đó những thành tố chính của một tình huống được trình bày cho
sinh viên với mục đích minh họa hoặc tạo kinh nghiệm giải quyết vấn đề.

Các tình huống cung cấp cho sinh viên và giáo viên cùng một thông tin để ra
quyết định. Từ điểm xuất phát này, sinh viên và giáo viên thực hiện những vai trò khác
nhau trong tiến trình học tập, bao gồm: tự chuẩn bị, thảo luận theo nhóm nhỏ, và thảo
luận thành nhóm lớn (hoặc cả lớp cùng thảo luận).

2.3. Tiến trình viết tình huống

2.3.1. Tóm tắt tiến trình viết tình huống

Theo A. Mauffette-Leenders và cộng sự tại Trường Đại học Kinh doanh Rithard
Ivey (1999), tiến trình viết tình huống gồm ba giai đoạn, gồm: (1) Xuất phát điểm và
liên lạc ban đầu với doanh nghiệp; (2) Thu thập dữ liệu; và (3) Hoàn thiện ghi chú
giảng dạy, thử nghiệm tại lớp học, chỉnh sửa thêm và phát hành lại.


Hình 1. Tóm tắt tiến trình viết tình huống (Nguồn: tác giả đề xuất dựa trên tài liệu của
Trường Đại học Kinh doanh Rithard Ivey)

231

Jos.hueuni.edu.vn Tập. 95; Số. 7; 12,1014

Giai đoạn 1: Xuất phát điểm và liên lạc ban đầu với doanh nghiệp

- Xuất phát điểm. Là việc quyết định viết tình huống cho một khóa học cụ thể.
Một khi đã quyết định, tiến trình viết tình huống bắt đầu khởi động tình huống nào sẽ
được viết và tìm kiếm tổ chức có thể cung cấp tình huống. Sau đó, người viết tình
huống có thể gọi điện thoại, gửi thư, thư điện tử cho đại diện tổ chức để có những mối
liên lạc ban đầu và sắp đặt buổi phỏng vấn đầu tiên.

- Buổi phỏng vấn đầu tiên. Cho phép người viết tìm ra liệu một tình huống tiềm
năng có thực sự tồn tại và tổ chức đó có sẵn lịng cung cấp dữ liệu hay khơng.

- Chuẩn bị kế hoạch. Dựa trên thông tin cơ bản từ buổi phỏng vấn đầu tiên, một
hoặc nhiều kế hoạch về tình huống sẽ được chuẩn bị ngay lập tức bởi người viết và
người hướng dẫn. Kinh nghiệm cho thấy hoàn toàn hợp lý để hồn thành một hoặc một
vài kế hoạch tình huống trong vòng một ngày sau buổi phỏng vấn ban đầu. Lần liên lạc
thứ hai sẽ được thực hiện trực tiếp hoặc qua điện thoại để người đại diện từ phía doanh
nghiệp có thể xem xét lại và có những đóng góp về phía doanh nghiệp. Mục đích là để
thảo luận về tất cả những điểm mấu chốt, tính sẵn có của thơng tin và sự sẵn lịng hợp
tác của doanh nghiệp.

- Phát hành tạm thời. Thỏa thuận phát hành tạm thời nhằm xác nhận rằng tổ chức
cộng tác sẽ cam kết hợp tác trong việc cung cấp thơng tin u cầu và nếu tình huống sau

khi hoàn thành theo đúng kế hoạch ban đầu thì sẽ được tổ chức đồng ý phát hành chính
thức. Điều khoản phát hành tạm thời thông thường là thỏa thuận miệng, nhưng tốt hơn
hết nên được khẳng định bằng văn bản.

Giai đoạn 2: Thu thập dữ liệu

Khi những dữ liệu đã được thu thập đầy đủ, người viết tình huống có thể hồn
thành bản viết nháp thơ và những ghi chú giảng dạy ban đầu.

- Bản viết nháp và ghi chú giảng dạy ban đầu. Viết bản nháp cho tình huống nên
được thực hiện ngay bởi vì tình huống đã được lên kế hoạch bởi chủ thể, trình tự và
nguồn dữ liệu. Bản nháp này là sự diễn giải, thể hiện thành câu, thành đoạn của danh
sách dữ liệu cần có trong kế hoạch tình huống. Ghi chú giảng dạy ban đầu nên chứa
đựng: (1) Phát biểu về mục tiêu giảng dạy, (2) Gợi ra những câu hỏi cho sinh viên, và
(3) Câu trả lời.

- Chỉnh sửa tình huống. Ở bước chỉnh sửa, trọng tâm chuyển từ sự đầy đủ của dữ
liệu, trình tự và tổ chức sang vấn đề mang tính chất trau chuốt thêm như diễn đạt, ngữ
pháp, chính tả và cách trình bày.

- Phát hành tình huống. Suốt giai đoạn phát hành, sự trao đổi thông tin phản hồi
trở lại với tổ chức cộng tác nhằm xác nhận việc kiểm tra về tính chính xác và hồn thiện

232

Jos.hueuni.edu.vn Tập. 95; Số. 7; 12,1014

tình huống, đồng thời mong đợi sự chấp thuận chính thức để đưa vào sử dụng. Một tình
huống được viết theo đúng kế hoạch sẽ gặp ít (nếu có) khó khăn trong vấn đề phát hành
chính thức. Thỉnh thoảng một tình huống muốn được phát hành phải có vài chỉnh sửa

nhỏ. Người viết tình huống thay đổi những điểm cần thiết và nhanh chóng gởi lại cho
người có thẩm quyền trong tổ chức.

2.3.2. Nội dung cụ thể của các giai đoạn trong tiến trình viết tình huống

2.3.2.1. Các lựa chọn trọng tâm của tình huống và cách ngụy trang

a. Lựa chọn vấn đề

Sự lựa chọn vấn đề, quyết định, rắc rối hoặc cơ hội cho tình huống liên quan
chặt chẽ với danh sách vấn đề được thảo luận trong phần tiếp theo. Nếu có hơn một vấn
đề ở tổ chức cộng tác, thì quyết định vấn đề nào được chọn có thể cơ bản dựa trên sự
phù hợp với yêu cầu của tình huống gốc trong ý định ban đầu. Một vấn đề cụ thể của
tình huống cũng có thể được chọn bởi ý của tổ chức cộng tác quan tâm đến nó hoặc vấn
đề mang tính thời sự hơn, hoặc dễ thu thập thơng tin hơn.

b. Lựa chọn thời điểm

- Chọn mốc thời gian để đưa vào tình huống. Tất cả các vấn đề đều có trật tự về
thời gian hoặc theo diễn biến của một câu chuyện. Một vài sự kiện xảy ra đồng thời,
hoặc trước hoặc sau những sự kiện khác và mỗi câu chuyện đều chứa đựng những mốc
ra quyết định chủ chốt. Người viết cần hiểu rõ câu chuyện, cái gì đã diễn ra, khi nào, ở
đâu và tại sao. Ở giai đoạn nào những quyết định quan trọng đã được thực hiện, ai ra
quyết định đó, tại sao và hậu quả của chúng là gì? Một khi người viết tình huống đã
thấu rõ câu trả lời cho những câu hỏi nêu trên, họ có thể chọn được mốc thời gian thích
hợp để dừng câu chuyện.

- Chọn mốc ra quyết định. Người viết tình huống căn cứ vào 6 tiêu chí để chọn
mốc ra quyết định: (1) khi nào cần ra một quyết định mặc dù lúc đó người ta vẫn chưa ý
thức được vấn đề đang tồn tại, (2) mọi người bắt đầu nhận thức ra vấn đề và bắt đầu thu

thập thông tin, (3) phân tích và đề xuất nhiều phương án, (4) quyết định, (5) thực hiện
và (6) đánh giá.

- Kết hợp giữa mốc thời gian theo câu chuyện và mốc ra quyết định. Vấn đề mấu
chốt cho người viết tình huống là phải xem xét sự phối hợp giữa mốc ra quyết định cho
vấn đề và mốc thời gian trong một tình huống. Sự am hiểu về các lựa chọn mốc thời
gian có trong diễn biến câu chuyện và các giai đoạn liên quan đến việc quyết định đi
kèm cho phép người viết tình huống lựa chọn chính xác.

- Hành động khởi phát. Những hành động khởi phát là những sự kiện hoặc sự cố
trong một tổ chức làm cho một hoặc nhiều cá nhân cần phải có sự phản ứng đáp lại.

233

Jos.hueuni.edu.vn Tập. 95; Số. 7; 12,1014

Những sự kiện hoặc sự cố này chính là sự đánh thức, gây chú ý hoặc lý do tại sao một ai
đó trong tổ chức phải quan tâm đến một vấn đề. Có nhiều hành động khởi phát điển
hình như đáp ứng nhu cầu thông tin (một cuộc gặp mặt, hoặc điện đàm, bản ghi chú,
báo cáo, fax, thư điện tử hoặc thư phàn nàn từ một khách hàng, vv.) hoặc một sự kiện
quan trọng trong nội bộ (máy móc bị hỏng nghiêm trọng, cháy nổ, sụp đổ tài chính của
tập đồn, sáp nhập, thơn tính, mất hoặc giành được khách hàng quan trọng, sự ra đi hoặc
chuyển đến của những nhân vật quan trọng, vv.)

c. Lựa chọn người ra quyết định hoặc nhân vật chính

Thơng thường, sự lựa chọn này khá đơn giản, đó chính là người được phỏng vấn.
Thỉnh thoảng, vấn đề có thể được giải quyết từ nhiều góc độ quản lý khác nhau, như
trên cương vị là chủ tịch, giám đốc marketing, hoặc nhà tư vấn… Sự lựa chọn người ra
quyết định cho tình huống phụ thuộc vào người viết, yêu cầu của tình huống và sự sẵn

sàng của nhân vật chính trong việc hợp tác vào tiến trình viết tình huống. Hầu hết các
tình huống chỉ một người sẽ được chọn làm nhân vật chính/người ra quyết định.

d. Ngụy trang

Sự ngụy trang được sử dụng trong trường hợp nếu khơng làm thế thì khơng được
chấp thuận phát hành tình huống hoặc cơng bố dữ liệu liên quan đến tình huống. Vì thế,
sự ngụy trang cần thiết phải bảo vệ được tính vơ danh của nguồn và tính an ninh cho dữ
liệu. Quyết định ngụy trang quan trọng nhất liên quan đến việc có sử dụng tên thật của
tổ chức cộng tác không? Sự thay đổi tên gọi sẽ giúp người viết đỡ tốn công sức hơn,
nhưng nó sẽ phá hủy việc những sinh viên giỏi nhận diện nguồn dữ liệu để khai thác.
Người viết có thể ngụy trang ngày tháng, số liệu, tên nhân vật,…

2.3.2.2. Kế hoạch viết tình huống và thỏa thuận phát hành tạm thời

Kế hoạch viết tình huống là văn bản quan trọng cần phải hồn thành trong giai
đoạn đầu của tiến trình viết tình huống. Kế hoạch viết nhận diện các trọng tâm và mục
đích của tình huống, cách nó được tổ chức, nội dung, và lịch trình để hồn thành. Đây là
một cơng cụ giao tiếp quan trọng giữa người viết tình huống và nhân vật chính trong
tình huống đó, cũng như là giữa người viết và người hướng dẫn. Một kế hoạch viết tình
huống gồm 5 thành tố: (1) Đoạn mở đầu, (2) Phát biểu ngắn gọn về mục tiêu giảng dạy,
(3) Tổ chức được đề xuất hoặc đề cương của tình huống, (4) Danh sách dữ liệu yêu cầu,
và (5) Kế hoạch thời gian.

a. Đoạn mở đầu

Trong phương pháp giảng dạy bằng tình huống, người đọc sẽ được u cầu đặt
mình vào vị trí của người ra quyết định. “ Nếu bạn đứng ở vị trí của nhà quản trị X, bạn
sẽ làm gì trong tình huống này?” thường là câu hỏi bài tập cho sinh viên. Một số yêu
cầu cho đoạn mở đầu: Người ra quyết định có được xác định bằng tên hoặc vị trí cơng


234

Jos.hueuni.edu.vn Tập. 95; Số. 7; 12,1014

tác không? Thời gian trong tình huống rõ ràng? Địa điểm của tổ chức cộng tác có được
xác định khơng? Vấn đề, quyết định, rắc rối hoặc cơ hội có được xác định rõ khơng?
Câu chuyện trong tình huống có được dừng lại đúng thời điểm không? Liệu việc cắt
muộn hơn hoặc sớm hơn có tạo ra một tình huống tốt hơn khơng? Liệu có cần ngụy
trang tình huống khơng và ở mức độ nào? (tên công ty, tên của nhân lực, ngày tháng, địa
điểm, số liệu, sản phẩm, ngành cơng nghiệp)?v.v

Hình 2. Nội dung các bước viết tình huống (Nguồn: tác giả đề xuất dựa trên tài liệu của
Trường Đại học Kinh doanh Rithard Ivey)

b. Phát biểu ngắn gọn về mục tiêu giảng dạy

Một cách đơn giản và hiệu quả để giải thích về mục tiêu giảng dạy là gắn nó với
các khía cạnh mục tiêu bao gồm: phân tích (analytical dimension), khái niệm
(conceptual dimension), và trình bày (presentation dimension). Khía cạnh phân tích,
sinh viên có thể phát triển các kỹ năng sau: nhận diện rắc rối/vấn đề/quyết định hoặc cơ
hội, đánh giá một quyết định đã thực hiện, phân tích một rắc rối hoặc một vấn đề, phát

235

Jos.hueuni.edu.vn Tập. 95; Số. 7; 12,1014

triển các tiêu chí ra để ra quyết định, phát triển và đánh giá các phương án, tạo ra kế
hoạch hành động và thực hiện. Khía cạnh khái niệm, sinh viên có thể hiểu và áp dụng:
lý thuyết, khái niệm, kỹ thuật. Khía cạnh trình bày, sinh viên có thể: tách biệt ra những

thơng tin có liên quan với những thơng tin được cho sẵn, chỉ rõ những thơng tin có liên
quan cịn thiết, tổ chức thông tin một cách logic, phát triển những giả thiết phù hợp,
thực hành việc tái tạo dữ liệu.

c. Dàn bài cho tình huống

Dàn bài tạo ra khung sườn cho việc thu thập dữ liệu, từ đó dễ quản lý các giai
đoạn trong quá trình viết tình huống. Dàn bài thường bao gồm: Đoạn mở đầu, thông tin
cơ bản về công ty, những lĩnh vực quan tâm cụ thể, những vấn đề/quyết định/rắc rối
hoặc cơ hội cụ thể, các phương án, kết luận.

d. Lập danh sách dữ liệu cần có

Phần khó nhất của kế hoạch viết tình huống là lên danh sách liệt kê dữ liệu cần có
dưới mỗi đề mục. Trước hết, thật sự là thách thức cho hầu hết người viết để hình dung
ra tình huống sẽ như thế nào chỉ với các khối cấu trúc cơ bản tạo thành bởi các đề mục.
Thứ hai, sẽ rất khó khăn để xác định được bao nhiêu thơng tin cần đưa vào tình huống
để đáp ứng với mục tiêu giảng dạy. Người viết tình huống khơng nên địi hỏi tất cả mọi
thơng tin có sẵn ở cơng ty với hy vọng rằng sẽ tìm thấy những phần thú vị và liên quan
sau đó. Danh sách dữ liệu cần có là một bảng thiết kế tùy ý, điều chỉnh theo những
trường hợp cụ thể về thông tin cần thiết cho phép sinh viên đạt được mục tiêu học tập
như dự định thông qua sự chuẩn bị và thảo luận của họ.

e. Thời gian biểu

Thời gian biểu là phần thứ năm địi hỏi phải hồn thành trong kế hoạch viết tình
huống. Thời gian biểu đề xuất một lịch trình cụ thể cho từng bước quan trọng trong tiến
trình viết tình huống. Nó chuyển tải sự nghiêm túc về thời hạn và xác định những mong
đợi cho cả người viết và tổ chức cộng tác.


f. Phát hành tạm thời

Phát hành tạm thời là dấu hiệu cho phép bước vào giai đoạn hai của tiến trình viết
tình huống và nó cũng là chủ đề chính trong cuộc phỏng vấn lần thứ hai. Kế hoạch viết
tình huống là yếu tố quan trọng giúp giành được sự đồng ý phát hành tạm thời. Kế
hoạch viết tình huống chỉ rõ đề xuất về sự ngụy trang và kiểm tra mức độ hiểu biết về
những thông tin ban đầu được đưa ra trong suốt cuộc phỏng vấn thứ nhất. Người viết
tình huống có thể nói “Cho đến thời điểm này, tôi vẫn chưa mất quá nhiều thời gian và
nỗ lực cho tình huống này. Nếu có chỉnh sửa về vấn đề lựa chọn, thông tin cung cấp
hoặc sự sẵn lịng hợp tác, ơng/bà vui lịng cho biết là suy nghĩ của mình. Nếu khơng, tơi
xin chân thành cảm ơn và rất mong chờ sự hợp tác của ông/bà. Xin gửi đến ông/bà danh

236

Jos.hueuni.edu.vn Tập. 95; Số. 7; 12,1014

sách thông tin cần thiết để hồn thành tình huống và mong rằng ơng/bà cho phép phát
hành chúng.”

2.3.2.3. Viết tình huống và ghi chú giảng dạy ban đầu

a. Viết bản nháp cho tình huống

Trong bản kế hoạch viết, những vấn đề chủ yếu như cấu trúc của bài viết, bao gồm
cái gì, ở đâu…đã được quyết định. Tiến trình viết nháp sẽ là việc phát triển câu và đoạn
theo dàn bài đã gợi ý. Bởi vì có thể có nhiều hơn một bản viết nháp nên tốt hơn hết là
nên tập trung vào việc sắp đặt thông tin vào đúng chỗ chứ không nên quá bận tâm vào
lỗi chính tả ở giai đoạn này. Khi viết nháp, cần xem xét số đoạn văn cần cho mỗi đề
mục và thơng tin gì cần đưa vào mỗi đoạn. Người viết sẽ phải quyết định múc độ bao
phủ cần thiết cho mỗi luận điểm và trình tự sắp đặt thế nào. Việc viết tình huống cần

tuân thủ một số quy tắc: dùng thì quá khứ, phân biệt sự kiện khách quan (facts)- ý kiến
(opinions) và đóng góp (attributions), minh họa và phụ lục, độ dài của tình huống.

b. Chuẩn bị ghi chú giảng dạy ban đầu

Mục đích của việc chuẩn bị ghi chú giảng dạy ban đầu sau khi viết nháp là để
kiểm tra sự đầy đủ và chính xác của thơng tin đã được trình bày. Nguyên tắc cơ bản là
tình huống phải chứa đựng đúng thông tin. Một ghi chú giảng dạy ban đầu điển hình có
bảy tiêu đề: Tên tình huống, đoạn mở đầu hoặc tóm tắt tình huống, mục tiêu giảng dạy,
vấn đề tức thì, vấn đề cơ bản, bài tập gợi ý cho sinh viên và phân tích cho tình huống.

c. Điều chỉnh bản nháp

Dựa vào các câu hỏi sau để điều chỉnh bản nháp: Những dữ liệu định tính hoặc
định luợng nào cịn thiếu? Thơng tin có đúng khơng? Những mơ tả và giải thích có rõ
ràng khơng? Liệu tình huống có q nhiều thơng tin khơng liên quan khơng? Người viết
có đưa vào trong tình huống những đánh giá mang tính cá nhân và sự phân tích của
chính mình khơng?

d. Chỉnh sửa tình huống

Danh sách chín vấn đề cần kiểm tra (9 C’s) khi chỉnh sửa tình huống: phù hợp
(congruence), thống nhất (consistency), đúng đắn (correctness), ngắn gọn/súc tích
(conciseness), rõ ràng (clarity), kiểm soát (control), liên kết (coherence), quy ước trong
cách viết và trình bày (conventions).

2.3.2.4. Ghi chú giảng dạy hồn thiện và thử nghiệm tại lớp học

a. Ghi chú giảng dạy


Trước khi phát hành, tình huống có thể được thử nghiệm trong lớp học, người làm

237

Jos.hueuni.edu.vn Tập. 95; Số. 7; 12,1014

cơng tác hướng dẫn khóa học cần chuẩn bị những ghi chú cần thiết cho việc giảng dạy.
Bản ghi chú giảng dạy ban đầu đã được chuẩn bị trong giai đoạn trước với mục đích cơ
bản là kiểm tra chất lượng của thông tin cung cấp trong bản viết nháp. Giờ đây, việc
hoàn thiện bản ghi chú giảng dạy là nhằm mục đích giúp giáo viên mơn học chuẩn bị
cho việc sử dụng tình huống đó với lớp học của mình.

b. Thử nghiệm trước lớp

Một tình huống mới được viết khơng thể hồn thành đến khi được thử nghiệm
trước lớp học ít nhất một lần, sau đó chỉnh sửa theo phản hồi của người học và người
hướng dẫn giảng dạy. Có hai nội dung cần được giải quyết trong thử nghiệm trước lớp:
mục tiêu giảng dạy tình huống này và chất lượng của tình huống.

c. Viết lại và phát hành tình huống

Quan trọng là phải viết lại tình huống nhanh chóng sau thử nghiệm tại lớp. Ngôn
ngữ, ngữ pháp, bỏ bớt thông tin không phải là bắt buộc để có được sự chấp thuận phát
hành lại, nhưng nó sẽ tạo cảm nhận tốt khi gửi một bản thảo hoàn thiện hơn cho tổ chức
cộng tác. Đây cũng là một cơ hội tốt để chia sẽ kết quả của thử nghiệm và để người làm
công tác đối ngoại của tổ chức biết họ không bị bỏ quên. Nếu thêm dữ liệu hoặc có thay
đổi quan trọng thì việc xin phép phát hành lại là bắt buộc.

3. Kết quả nghiên cứu


3.1. Sự cần thiết của việc viết tình huống giảng dạy cho học phần Quản trị
marketing

Tại Trường Đại học Kinh tế- Đại học Huế, Quản trị marketing là học phần bắt
buộc đối với sinh viên ngành Marketing và ngành Quản trị kinh doanh tổng hợp, tự
chọn đối với các ngành Quản trị kinh doanh thương mại và Quản trị nhân lực. Được bố
trí thời lượng giảng dạy là 3 tín chỉ, học phần Quản trị marketing trang bị cho sinh viên
những kiến thức về hoạch định chiến lược marketing, quản trị các chính sách sản phẩm,
giá, phân phối, xúc tiến hỗn hợp. Bên cạnh đó, thơng qua học phần này sinh viên cịn
được rèn luyện kĩ năng phân tích mơi trường marketing, kĩ năng lập kế hoạch marketing,
kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng thuyết trình,… Do đó, việc sử dụng phương pháp
tình huống trong giảng dạy học phần Quản trị marketing là rất cần thiết, thể hiện ở
những điểm sau:

Một là, sinh viên cần được tiếp cận với những phương pháp giảng dạy phù hợp
trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là sinh viên ngành Quản trị kinh doanh và Marketing.

238

Jos.hueuni.edu.vn Tập. 95; Số. 7; 12,1014

Hai là, kết quả khảo sát cho thấy đa số sinh viên Khoa Quản trị kinh doanh2 ưa
thích giáo viên áp dụng phương pháp tình huống vào giảng dạy các học phần về quản trị,
trong đó có học phần Quản trị marketing.

Ba là, ở Việt Nam khơng có nhiều tình huống được xây dựng đúng bản chất là
tình huống phục vụ cho việc giảng dạy – học tập.

Bốn là, nhằm đáp ứng nhu cầu bổ sung tài nguyên giảng dạy – học tập cho giáo
viên – sinh viên trường Đại học Kinh tế- Đại học Huế.


Năm là, giảng dạy bằng phương pháp tình huống là xu thế của các nước trên thế
giới trong đào tạo ngành kinh doanh và marketing.

3.2. Hướng dẫn giảng dạy tình huống (lập bản ghi chú giảng dạy)

Ghi chú giảng dạy hay hướng dẫn giảng dạy là tài liệu giúp giáo viên, người
hướng dẫn thảo luận, trợ giảng (sau đây gọi tắt là giáo viên) hiểu được cách thức tổ
chức giảng dạy tình huống. Có nhiều quan điểm khi đề cập đến ghi chú giảng dạy tình
huống, tuy nhiên nhìn chung tài liệu hướng dẫn giảng dạy tình huống nên bao gồm các
nội dung cơ bản sau:

1. Tiêu đề tình huống. Tiêu đề nên thể hiện tính trung lập so với nội dung tình
huống.

2. Tóm tắt tình huống. Giúp giáo viên và sinh viên gợi nhớ tình huống và tập trung
vào những vấn đề chính mà tình huống cần giải quyết. Phần này nên viết ngắn
gọn từ 10- 15 dòng (khoảng 180 đến 220 từ).

3. Mục tiêu giảng dạy. Giúp sinh viên có được kiến thức gì, kĩ năng gì về lý thuyết
lẫn thực tiễn. Bên cạnh đó, phần mục tiêu giảng dạy cần chỉ rõ tình huống này
dùng để giảng dạy cho sinh viên năm thứ mấy, ngành học gì, cần trang bị kiến
thức gì để phân tích tốt tình huống.

4. Câu hỏi thảo luận/ bài tập cho sinh viên. Nhắc lại các câu hỏi thảo luận/ bài tập
gợi ý cho sinh viên từ tình huống. Bên cạnh đó, giáo viên có thể bổ sung thêm
những câu hỏi để làm rõ hơn vấn đề trong tình huống.

5. Tài liệu đọc thêm và thông tin cần thu thập thêm. Mục đích giúp sinh viên tìm
hiểu thêm những khái niệm, lý thuyết liên quan đến tình huống. Bên cạnh đó,


2 Nghiên cứu này được tiến hành vào tháng 11 và 12/2012. Đối tượng khảo sát là 122 sinh viên năm thứ 3
và thứ 4 thuộc 03 chuyên ngành của Khoa QTKD- Trường ĐH Kinh tế (QTKD Thương mại, QTKD Tổng
hợp và Marketing).

239

Jos.hueuni.edu.vn Tập. 95; Số. 7; 12,1014

giáo viên nên đưa ra các tài liệu trích dẫn trong q trình viết tình huống để sinh
viên có thể phân tích tình huống tốt hơn.

6. Phân tích và gợi ý trả lời các câu hỏi thảo luận/ bài tập. Dựa trên những thông
tin thảo luận giữa người viết tình huống với người đại diện công ty cung cấp
thơng tin cho việc hồn thiện tình huống và lý thuyết liên quan, người viết cần
đưa ra các gợi ý trả lời cho câu hỏi thảo luận trong tình huống.

7. Tổ chức giảng dạy tình huống. Phần này trả lời cho câu hỏi làm thế nào để đưa
tình huống vào giảng dạy hiệu quả? Thơng qua thực tế giảng dạy, nhóm nghiên
cứu nhận thấy việc tổ chức giảng dạy tình huống nên được thực hiện theo ba giai
đoạn: (1) Giai đoạn chuẩn bị, (2) Phân tích sơ bộ và thảo luận nhóm, và (3)
Thuyết trình và thảo luận tại lớp.

Giai đoạn chuẩn bị: Bản tình huống đầy đủ và các tài liệu liên quan cần được giới
thiệu và cung cấp cho tất cả sinh viên trước 7- 10 ngày. Giáo viên nên giới thiệu cách
thức tổ chức lớp học và trình tự các cơng việc cần thiết cho sinh viên nắm bắt. Kinh
nghiệm cho thấy, giáo viên không nên chia nhóm thảo luận trong giai đoạn này để mỗi
sinh viên cần phát huy tính chủ động trong nghiên cứu và nêu lên ý kiến cá nhân.
Nhiệm vụ của sinh viên trong giai đoạn chuẩn bị: (1) Đọc kĩ tình huống từ 2- 3 lần và có
thể nhiều hơn. Lần đọc đầu tiên giúp sinh viên có cái nhìn tổng qt về tình huống như

chủ đề của tình huống, loại dữ liệu có trong tình huống,… Những lần đọc tiếp theo giúp
sinh viên nắm bắt vấn đề trong tình huống tốt hơn thơng qua các câu hỏi thảo luận trong
tình huống. (2) Chuẩn bị ý kiến cá nhân liên quan đến tình huống để phục vụ cho bước
phân tích sơ bộ ở nhóm học tập. Sinh viên có thể viết lên giấy ý kiến cá nhân của mình.

Giai đoạn phân tích sơ bộ và thảo luận nhóm, bao gồm các nội dung sau: (1)
Phân tích sơ bộ tình huống: Giáo viên cần tương tác với sinh viên để phân tích sơ bộ
tình huống nhằm mục đích kiểm tra khả năng hiểu biết của sinh viên về bản chất của
tình huống. (2) Chia nhóm thảo luận: Thực tế cho thấy, số lượng sinh viên trong mỗi
lớp học ở Việt Nam thường quá đông để tổ chức giảng dạy theo phương pháp tình
huống. Tuy nhiên, giáo viên có thể chia nhóm từ 5- 7 sinh viên để tiến hành thảo luận
nhóm. Tùy điều kiện giảng dạy, việc thảo luận nhóm có thể được tiến hành trên lớp hoặc
ở nhà. Sinh viên cần đọc thêm tài liệu về kĩ năng làm việc nhóm để đạt hiệu quả cao
trong thảo luận nhóm. (3) Chuẩn bị những sản phẩm để nộp cho giáo viên, bao gồm:
file word hoặc bản in, file powerpoint. Nộp cho giáo viên trước vài ngày so với thời
gian ấn định thuyết trình tại lớp.

Giai đoạn thuyết trình và thảo luận tại lớp, bao gồm các nội dung sau: (1) Mỗi
nhóm có 10- 12 phút trình bày kết quả làm việc nhóm. Người trình bày có thể do giáo
viên hoặc nhóm đề cử. (2) Trả lời câu hỏi phản biện của giáo viên và các nhóm khác.
Câu hỏi phản biện đưa ra cần bám sát mục tiêu giảng dạy và khuyến khích tranh luận.

240

Jos.hueuni.edu.vn Tập. 95; Số. 7; 12,1014

(3) Giáo viên đóng vai trò điều phối thảo luận, liên kết giữa lý thuyết với tình huống,
đưa ra các kết luận về tình huống và nhận xét/đánh giá các nhóm.

Cuối cùng, giáo viên cần đánh giá chính xác, khách quan bài thảo luận nhóm để

cho điểm q trình của sinh viên. Gợi ý tiêu chí đánh giá: nội dung (lập luận chặt chẽ,
khoa học, bám sát yêu cầu tình huống), thuyết trình (kĩ năng thuyết trình, thiết kế slide),
trả lời phản biện (súc tích, chặt chẽ, sáng tạo,…). Bên cạnh đó, sinh viên cần đọc thêm
tài liệu về kĩ năng thuyết trình và kĩ năng thiết kế slide để hoàn thiện các kĩ năng.

4. Kết luận

Trong quá trình giảng dạy học phần Quản trị marketing tại Trường Đại học Kinh
tế - Đại học Huế, chúng tôi nhận thấy việc sử dụng tình huống để giảng dạy là rất cần
thiết trong việc giới thiệu lý thuyết, kết nối thực tiễn và giúp sinh viên nâng cao kĩ năng
nghiên cứu, kĩ năng quan sát, phân tích, kĩ năng ra quyết định trong marketing. Tuy
nhiên, ở Việt Nam hiện nay việc vận dụng phương pháp tình huống vào giảng dạy các
mơn học kinh doanh vẫn chưa được thực hiện theo quy trình chuẩn xác và khoa học.
Nhiều khóa học sử dụng những tình huống có sẵn trong các giáo trình quốc tế thiếu sự
tương thích với mơi trường kinh doanh Việt Nam. Một số giáo viên khác thì xây dựng
tình huống chỉ dựa trên thơng tin thứ cấp từ báo chí nên tính “thực” của tình huống vẫn
chưa cao. Mặt khác, việc áp dụng tình huống vào giảng dạy khơng chỉ dừng lại ở việc
viết ra một tình huống mà cịn địi hỏi nhiều cơng đoạn khác như đặt ra mục tiêu giảng
dạy, chuẩn bị câu hỏi thảo luận, tổ chức lớp học, dàn dựng buổi thảo luận, báo cáo của
sinh viên, theo dõi kết quả… Nghiên cứu này là kết quả của quá trình tìm hiểu lý thuyết
và xây dựng tình huống marketing cho giảng dạy - học tập tại Trường Đại học Kinh tế -
Đại học Huế. Qua nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy cùng với việc nghiên cứu cẩn thận
tài liệu của Trường Đại học Kinh doanh Rithard Ivey, chúng tơi mạnh dạn đề xuất
phương pháp viết tình huống thích hợp cho các học phần, trước hết là học phần Quản trị
marketing, hơn nữa là có thể vận dụng cho các học phần chuyên ngành đối với ngành
học Marketing và Quản trị kinh doanh. Theo đó, q trình viết tình huống phải mang
được “thế giới thực” đến với người học, giúp họ lĩnh hội được lý thuyết đồng thời quan
trọng hơn là trau dồi năng lực phân tích tình hình, áp dụng lý thuyết, đánh giá, tổng hợp
và sáng tạo. Qua nghiên cứu này, chúng tôi cũng mạnh mẽ khuyến cáo đến người viết
tình huống cũng như giảng viên không nên xem nhẹ phần hướng dẫn giảng dạy vì điều

này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giảng dạy theo tình huống.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Thị Phương Hoa (2009), Sử dụng phương pháp tình huống trong dạy học Giáo

dục học, Tạp chí Giáo dục, số 227, kì 1.

241

Jos.hueuni.edu.vn Tập. 95; Số. 7; 12,1014

[2] /> nhung-kho.

[3] K43 Marketing (2012), Nghiên cứu ứng dụng phương pháp tình huống trong giảng dạy tại
khoa QTKD- Đại học Kinh tế Huế, Bài tập nghiên cứu học phần Quản trị marketing.

[4] Đại học Kinh tế TP. HCM (2009), Các tình huống trong giảng dạy cao học quản trị kinh
doanh tại Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia TP. HCM.

[5] Phan Thị Bảo Quyên (2010), Ứng dụng phương pháp giảng dạy tình huống tại Khoa Kế
toán – Kiểm toán, Tài liệu hội thảo Khoa Kế toán – Kiểm toán Đại học Kinh tế TP. HCM.

[6] A. Mauffette-Leenders, J.A. Erskine, and M.R. Leenders (1999), Learning with cases,
Richard Ivey School of Business, Canada.

[7] Boehrer, J. (1995), How to teach a case, Kennedy School of Government Case
Programme, case no. C18-95-1285.0.

[8] Harvard business School (1989), Learning by the Case Method in Marketing, Vol. 9-590-
008.


WRITING CASES FOR MARKETING MANAGEMENT COURSE AT
COLLEGE OF ECONOMICS, HUE UNIVERSITY

Le Quang Truc, Le Thi Thanh Thuy
Hue College Of Economics, Hue University

Abstract: The case study method in business courses can be defined as using real
scenarios from organizations and enterprises to facilitate discussions and problem
solving practice in students, thus helping students to develop decision-making and
critical-thinking skills. Initiated by Harvard Business School in 1870, case study method
has become a common teaching method world-wide. In Viet Nam, case method has
been recognized and encouraged as a practical teaching method to in undergraduate and
postgraduate programs. This article suggests an appropriate approach for application of
case-study method in marketing management program. The study addresses three
dimensions in the application, including: (1) What case-study method is (2) How to
write cases for marketing courses, (3) How to compose a teaching note for a certain case.

Key words: case method, writing cases

242


×