Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Từ nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù cái riêng và cái chung, hãy vận dụng để nhận thức và giải quyết một vấn đề của thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.58 KB, 19 trang )

lOMoARcPSD|11424851

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP NHÓM

Môn: Triết học Mác - Lênin

------*------

ĐỀ BÀI:

Từ nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù “cái
riêng và cái chung”, hãy vận dụng để nhận thức và giải quyết một

vấn đề của thực tiễn

LỚP : 4714

NHÓM : 01

Hà Nội, 2022

BẢNG ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG NHÓM

Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

Nhóm: Lớp:



Tổng số sinh viên của nhóm:

+ Có mặt:

+ Vắng mặt:

Nội dung: Xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia làm bài tập nhóm

Đề tài: Từ nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù “cái riêng và cái chung”,
hãy vận dụng để nhận thức và giải quyết một vấn đề của thực tiễn.

Xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia của từng sinh viên trong việc thực hiện bài tập
nhóm số … Kết quả như sau:

STT Mã SV Họ và tên Đánh giá SV ký Đánh giá của GV
của SV tên
Điểm Điểm GV ký
ABC (số) (chữ) tên

1

2

3

4

5


6

7

8

9

10

11

- Kết quả điểm bài viết:....................... Hà Nội, ngày tháng năm
+ Giáo viên chấm thứ nhất:.................. Trưởng nhóm
+ Giáo viên chấm thứ hai:....................
- Kết quả điếm thuyết trình..................
- Giáo viên cho thuyết trình:................
- Điểm kết luận cuối cùng:...................
- Giáo viên đánh giá cuối cùng:..............

Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………… 1
NỘI DUNG
I. Cặp phạm trù “cái riêng - cái chung” ………………………………………. 1
1. Khái niệm……………………………………………………………………… 1

2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng, cái đơn nhất………….. 2
3. Ý nghĩa phương pháp luận…………………………………………………… 3
II. Vận dụng cặp phạm trù “cái riêng - cái chung” để nhìn nhận quá trình ra
đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh…………………………….4
1. Hành trình ra đi tìm đường cứu nước của người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành là đầy đúng đắn và là cái riêng đặc sắc…………………...4
2. Cái chung được vận dụng trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước của
Chủ Tịch Hồ Chí Minh…………………………………………………………..6
3. Những giá trị đặc sắc, cái đơn nhất trong quá trình ra đi tìm đường cứu
nước của Chủ Tịch Hồ Chí Minh……………………………………………… 7
4. Bài học……………………………………………………………………….. 10
III. Liên hệ……………………………………………………………………….12
KẾT LUẬN…………………………………………………………………….. 13
DANH MỤC THAM KHẢO……………………………………………………14
CHÚ THÍCH……………………………………………………………………..14

Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

LỜI MỞ ĐẦU
Triết học – một khái niệm hiện hữu trong mọi lĩnh vực của đời sống, tưởng
như là vô cùng quen thuộc với chúng ta nhưng cũng không kém phần mơ hồ, trừu
tượng. Lật ngược lại những trang sử của nhân loại, có thể thấy, khi mới ra đời, triết
học được coi là đỉnh cao của trí tuệ, được biết đến là hệ thống tri thức lý luận
chung xuất hiện sớm nhất trong các loại hình lý luận của con người. Nó vẽ ra một
bức tranh tổng quát và toàn diện nhất về thế giới khách quan, về vị trí và vai trò
của con người trong thế giới ấy.
Triết học Mác - Lênin là sự kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng
nhất của tư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem

xét tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người. Cho đến nay, chỉ có
Triết học Mác – Lênin là mang tính ưu việt hơn cả. Theo đó, phép biện chứng duy
vật, cùng với hệ thống những nguyên lý, quy luật và phạm trù của nó đã phản ánh
sự vật, hiện tượng một cách chính xác. Nhờ các phạm trù, triết học nghiên cứu và
xác lập các tính chất chung, các mối liên hệ và tương quan giữa các sự vật, các quy
luật phát triển tác động trong tự nhiên, trong xã hội, lẫn trong tư duy con người.
Cái đặc biệt năng động chính là nội dung của phạm trù, bởi nó là kết quả của nhận
thức và thực tiễn tất cả lịch sử đã đi qua của loài người.
Từ đây, chúng em đã lựa chọn đi sâu và nghiên cứu cặp phạm trù thứ nhất,
với chủ đề là: “Từ nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù “cái
riêng và cái chung”, vận dụng để nhìn nhận quá trình ra đi tìm đường cứu nước
của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Hi vọng rằng bài nghiên cứu của nhóm 1 chúng em
sẽ khơng chỉ cung cấp cho mọi người một cái nhìn sâu sắc hơn về cặp phạm trù
“cái riêng – cái chung” mà còn giúp mọi người biết cách vận dụng lý thuyết vào
thực tế để giải quyết các vấn đề trong đời sống hàng ngày.

NỘI DUNG

I. Cặp phạm trù “cái riêng - cái chung”
1. Khái niệm:
1.1. Cái riêng:

“Cái riêng” là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng, một quá
trình nhất định tồn tại một cách tương đối độc lập so với sự vật, hiện tượng, quá
trình khác.
1.2. Cái đơn nhất:

Nằm trong phạm trù cái riêng, ta có khái niệm của “cái đơn nhất” là phạm
trù triết học dùng để chỉ các mặt, các đặc tính, tính chất chỉ vốn có ở một sự vật,
hiện tượng (một cái riêng) nào đó mà khơng lặp lại ở một sự vật, hiện tượng nào

khác. Khái quát lại, “cái đơn nhất” được dùng để chỉ những đặc tính, đặc điểm chỉ
có ở một cái riêng nhất định.
1.3. Cái chung:

Ngoài hai phạm trù “cái riêng” và “cái đơn nhất”, ta có phạm trù cơ bản thứ
ba thuộc về phép biện chứng duy vật. Đó chính là “cái chung”. “Cái chung” là

1

Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

phạm trù triết học được dùng để chỉ những đặc điểm, tính chất, những mặt khơng
chỉ có riêng ở một sự vật, hiện tượng hay q trình nào mà cịn lặp đi lặp lại ở
nhiều hiện tượng, sự vật hay quá trình khác. Nói ngắn gọn, cái chung có thể hiểu là
được dùng để chỉ những thuộc tính lặp lại ở nhiều cái riêng.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung, cái riêng, cái đơn nhất

Trong lịch sử triết học có hai xu hướng là duy thực và duy danh đối lập nhau
giải quyết vấn đề quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Các nhà duy thực cho rằng,
cái chung mới là cái có thực vì nó tồn tại độc lập, khơng phụ thuộc vào cái riêng và
sinh ra cái riêng. Cái chung mang tính tư tưởng, tinh thần, tồn tại dưới dạng khái
niệm chung (theo luận giải thứ nhất). Theo cách lý giải thứ hai thì cái chung mang
tính vật chất, tồn tại dưới dạng một khối không đổi, bao trùm tất cả, tự trung với
mình hoặc dưới dạng các nhóm đối tượng… Cịn cái riêng, có hai xu hướng: hồn
tồn khơng có (xuất phát từ Plato vốn coi các sự vật cảm tính là khơng thực, chỉ là
cái bóng của những ý niệm) hoặc tồn tại phụ thuộc vào cái chung; là cái thứ yếu,
tạm thời, do cái chung sinh ra. Còn theo phái duy danh , cái chung không tồn tại
thực trong hiện thực khách quan, chỉ có sự vật đơn lẻ, cái riêng mới tồn tại thực,

chỉ tồn tại trong tư duy con người, chỉ là tên gọi của các đối tượng đơn lẻ. Tuy
cùng coi cái riêng là duy nhất có thực, song các nhà duy danh giải quyết khác nhau
vấn đề hình thức tồn tại của nó (Occam cho rằng cái riêng tồn tại như đối tượng vật
chất cảm tính, số khác như Berkeley lại coi cảm giác là hình thức tồn tại của cái
riêng…). Nếu xuất phát từ quan điểm của phái duy thực và duy danh về mối quan
hệ giữa cái riêng (sự vật cảm tính) và cái chung (khái niệm, phạm trù) thì chúng ta
khơng thể nào tìm ra được những phương pháp khoa học để giải quyết những vấn
đề của thực tiễn. Vì theo quan điểm của phái duy thực thì cái khái niệm, phạm trù
(tức là cái chung) tồn tại trước và độc lập với các sự vật, hiện tượng mà chúng
phản ánh (cái riêng). Ngược lại, phái duy danh lại coi các khái niệm, phạm trù như
là những hình thức tư duy trống rỗng không hàm chứa bất cứ một nội hàm nào. Cả
hai cách tiếp cận kể trên về mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung đều tỏ ra sai
lầm xét cả về phương diện bản thể luận lẫn nhận thức luận.

Xuất phát từ phương pháp luận duy vật – khoa học, triết học Mác –Lênin đã
giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung và xem xét
mối quan hệ đó với q trình nhận thức của con người. Trong “Bút ký triết học”,
Lênin cũng đã đề cập đến vấn đề quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung.
Theo Lênin, dù người ta bắt đầu bằng bất cứ mệnh đề nào, chẳng hạn bắt đầu bằng
mệnh đề đơn giản nhất, quen thuộc nhất như “Ivan là một người”, “Giutsơka là con
chó”,v.v, thì ngay ở đó người ta đã thấy có phép biện chứng rồi, phép biện chứng
đó thể hiện ở chỗ “cái riêng là cái chung” và “bất cứ cái riêng nào cũng thông qua
hàng nghìn sự chuyển hố mà liên hệ với những cái riêng khác, thuộc loại khác”.
Qua đó, ta có thể lý giải mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung trong triết học
Mác-Lênin như sau. Thứ nhất, cái chung tồn tại trong cái riêng và thông qua cái
riêng để biểu hiện sự tồn tại của mình; nó khơng tồn tại biệt lập, tách rời cái riêng (
tức là cái chung không tách rời mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình riêng lẻ). Ví dụ,
thuộc tính chung là trung tâm chính trị, kinh tế văn hóa của cả một quốc gia, dân
tộc, của thủ đô chỉ tồn tại thông qua từng thủ đô cụ thể như Hà Nội, Mátxcơva,


2

Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

Viêng Chăn, Phnôm Pênh…Thứ hai, cái riêng “chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn
đến cái chung”; khơng có cái riêng tồn tại độc lập tuyệt đối tách rời cái chung.
Giữa cái riêng ấy bao giờ cũng có những cái chung giống nhau. Vì vậy, để giải
quyết mỗi vấn đề riêng khơng thể bất chấp cái chung, đặc biệt là cái chung là cái
thuộc bản chất, quy luật phổ biến... Ví dụ, trong một lớp học có 30 sinh viên, mỗi
sinh viên coi như “một cái riêng”; 30 sinh viên này (30 cái riêng) liên hệ với nhau
và sẽ đưa đến những điểm chung: đồng hương (cùng quê), đồng niên (cùng năm
sinh), đồng môn (cùng học một thầy/cô), đều là con người, đều là sinh viên, v.v.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng so với cái chung là bộ phận,
bản chất và sâu sắc so với cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngồi
những đặc điểm chung, cái riêng cịn có cái đơn nhất, nhưng cái chung sâu sắc hơn
cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất
nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy, cái chung là cái gắn liền với bản
chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng. Ví dụ, cái chung
của thủ đơ là thuộc tính “trung tâm chính trị, kinh tế, văn hố của một quốc gia”.
Nhưng, từng thủ đơ cụ thể cịn có nhiều nét riêng khác về diện tích, dân số, vị trí
địa lý, v.v. Thứ tư, cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa lẫn nhau trong
những điều kiện xác định. Cái chung chuyển hóa thành cái đơn nhất khi nó đã là
cái cũ, lỗi thời, lạc hậu và khơng cịn phù hợp. Cái đơn nhất chuyển hóa thành cái
chung khi nó đã là cái tiến bộ, cách mạng và ngày càng trở nên phù hợp với quy
luật khách quan.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:

Từ việc phát hiện và phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái

chung, triết học Mác-Lênin đã rút ra ý nghĩa phương pháp luận đối với tư duy,
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người như sau. Trước hết muốn nhận
thức được cái chung, bản chất thì xuất phát từ cái riêng. Vì “cái chung” chỉ tồn tại
trong và thông qua “cái riêng”, nên chỉ có thể tìm hiểu, nhận thức về “cái chung”
trong “cái riêng” chứ khơng thể ngồi “cái riêng”. Để phát hiện, đào sâu nghiên
cứu “cái chung”, ta phải bắt đầu nghiên cứu từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ cụ
thể chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người. Thứ hai, nhiệm vụ
của nhận thức là phải tìm ra “cái chung” và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào
cái chung để cải tạo “cái riêng”. Vì “cái chung” tồn tại như một bộ phận của “cái
riêng”, bộ phận đó tác động qua lại với những bộ phận cịn lại của “cái riêng” mà
khơng gia nhập vào “cái chung”, nên bất cứ “cái chung” nào cũng tồn tại trong “cái
riêng” dưới dạng đã bị cải biến. Tức là, ln có sự khác biệt một chút giữa “cái
chung” nằm trong “cái riêng” này và “cái chung” nằm trong “cái riêng” kia. Sự
khác biệt đó là thứ yếu, rất nhỏ, không làm thay đổi bản chất của “cái chung”. Do
đó, bất cứ “cái chung” nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng lẻ cũng cần
được cải biến, cá biệt hóa. Nếu khơng chú ý đến sự cá biệt hóa, đem áp dụng
nguyên xi “cái chung”, tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ rơi vào sai lầm của những
người giáo điều, tả khuynh. Ngược lại, nếu xem thường “cái chung”, tuyệt đối hóa
“cái đơn nhất”, thì lại rơi vào sai lầm của việc chỉ bảo tồn cái vốn có mà khơng tiếp
thu cái hay từ bên ngồi. Đó là sai lầm của những người xét lại, bảo thủ, trì trệ, hữu
khuynh. Thứ ba, khơng được lảng tránh giải quyết những vấn đề chung khi giải

3

Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

quyết những vấn đề riêng. Vì “cái riêng” gắn bó chặt chẽ với “cái chung”, khơng
tồn tại bên ngồi mối liên hệ dẫn tới “cái chung”, nên nếu muốn giải quyết những

vấn đề riêng một cách hiệu quả thì khơng thể bỏ qua việc giải quyết những vấn đề
chung. Nếu không giải quyết những vấn đề chung – những vấn đề mang ý nghĩa lý
luận thì sẽ sa vào tình trạng mị mẫm, tùy tiện. Nếu bắt tay vào giải quyết những
vấn đề riêng trước khi giải quyết những vấn đề chung thì ta sẽ khơng có định
hướng mạch lạc.. Cuối cùng , trong hoạt động thực tiễn ta cần chủ động tác động
vào sự chuyển hóa cái mới thành cái chung để phát triển nó và cái cũ thành cái đơn
nhất để xóa bỏ nó. Bởi trong q trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện
nhất định, “cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại, nên trong
hoạt động thực tiễn, ta cần hết sức tạo điều kiện thuận lợi cho “cái đơn nhất” phát
triển, trở thành “cái chung” nếu điều này có lợi. Ngược lại, phải tìm cách làm cho
“cái chung” tiêu biến dần thành “cái đơn nhất” nếu “cái chung” khơng cịn phù hợp
với lợi ích của số đông mọi người.

II. Vận dụng cặp phạm trù “cái riêng - cái chung” để nhìn nhận quá trình ra
đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hơn nửa thế kỷ đã trơi qua nhưng chân lý “Khơng có gì quý hơn độc lập tự
do!” (17.7.1966) của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là lời hiệu triệu, là khát vọng, và
niềm tự hào của các dân tộc. Độc lập, tự do, hạnh phúc là những giá trị và là mục
tiêu phấn đấu của bất cứ dân tộc nào trong thời đại ngày nay. Phấn đấu cho dân tộc
độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân là cơ sở cho sự phát triển bền vững. Với ý
nghĩa đó, trân trọng, giữ gìn và bảo vệ giá trị của độc lập tự do là chân lý vĩnh hằng
của các dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua là quá trình vận
dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên
những vấn đề căn bản, có tầm chiến lược, trong đó, vấn đề hàng đầu là kiên định
và nhận thức đúng đắn về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới
của đất nước và thời đại, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu trong bài
viết: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam". Đó là, “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt

yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn
phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có
thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho
các dân tộc”. Đây chính là con đường cứu nước đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh hướng tới. Con đường này chính là sự đúc kết của một tiến trình lịch sử, kết
quả của những tháng ngày gian lan, vượt qua hoàn cảnh của Người. Do vậy, cần
nhìn nhận đúng đắn con đường cứu nước vĩ đại của Người.
1. Hành trình ra đi tìm đường cứu nước của người thanh niên yêu nước
Nguyễn Tất Thành là đầy đúng đắn và là cái riêng đặc sắc

Từ thế kỷ XVIII-XIX, Thế giới đã có những biến chuyển vơ cùng sâu sắc,
giai cấp tư sản lần lượt nắm chính quyền và thực hiện các biện pháp nhằm phát huy

4

Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

tối đa quyền lực nhà nước. Do vậy, các cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa dần
nổ ra. Thực dân Pháp bắt đầu nổ súng xâm lược Việt Nam vào năm 1858 và chính
thức đặt ách thống trị lên đất nước ta vào năm 1884. Trong bối cảnh triều đình nhà
Nguyễn tự đánh mất vai trị lãnh đạo của mình và phản bội lại quyền lợi của dân
tộc rất nhiều phong trào yêu nước chống Pháp theo các khuynh hướng khác nhau
đã nổ ra khắp 3 miền đất nước. Điển hình là phong trào Đông Du do Phan Bội
Châu và phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh lãnh đạo [1]. Tuy nhiên những
phong trào ấy đều không giành được sự thắng lợi. Nguyên nhân của những thất bại
đó là do thiếu đường lối đấu tranh đúng đắn, khoa học, thiếu sự lãnh đạo của một

giai cấp tiên tiến. Giai cấp phong kiến trở thành giai cấp phản động, bán nước, làm
tay sai cho thực dân Pháp. Giai cấp tư sản mới ra đời, cịn non yếu khơng có khả
năng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến để giành độc lập tự do.
Giai cấp nông dân và tiểu tư sản khao khát độc lập, tự do, hăng hái chống đế quốc
và phong kiến, nhưng không thể vạch ra con đường giải phóng đúng đắn và khơng
thể đóng vai trị lãnh đạo cách mạng. Tận mắt chứng kiến sự thất bại nặng nề của
chính những phong trào này người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã quyết tâm bơi
ra biển lớn, tìm ra cho dân tộc một con đường cách mạng đúng đắn.

Ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành từ cảng Nhà
Rồng, thành phố Sài Gịn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu
nước. Hành trang mà Người mang theo là lòng yêu nước nhiệt thành và quyết tâm
“làm bất cứ việc gì để sống và để đi” nhằm thực hiện hồi bão tìm ra con đường
cứu nước, cứu dân. Trong bóng tối dày đặc của chủ nghĩa thực dân chủ tịch Hồ Chí
Minh đã gặp được ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lênin. Tháng 7/1920 qua báo Nhân
đạo của Pháp Người đọc bản sơ khảo lần thứ nhất “Luận cương thứ nhất về những
vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Bản luận cương của Lênin như luồng ánh
sáng chiếu rọi vào tâm hồn và trí tuệ của Nguyễn Ái Quốc, đem đến cho Người
một nhãn quan chính trị mới và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn giải phóng
dân tộc Việt Nam. Từ đây, Hồ Chí Minh đã khẳng định được con đường cứu nước
của mình: giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vơ sản, gắn giải phóng
dân tộc với giải phóng giai cấp vô sản. Việc lựa chọn con đường giải phóng dân
tộc theo khuynh hướng cách mạng vơ sản, thể hiện tầm nhìn chiến lược và phù hợp
với xu thế thời đại, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân lao
động. Đến thời điểm này, cách mạng vơ sản là cuộc cách mạng tồn diện, sâu sắc
và triệt để nhất. Cuộc cách mạng đó khơng chỉ giải phóng giai cấp, mà gắn liền với
nó là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.

Có thể thấy con đường tìm đường cứu nước của bác là một hành trình riêng lẻ
nhất định độc lập và là cái riêng đầy phong phú và đặc sắc. Từ một sự lựa chọn

đúng và khởi đầu một hướng đi đúng, với ý chí, quyết tâm và sự phấn đấu khơng
mệt mỏi cho con đường mình đã Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi từ bến cảng Sài Gịn
năm xưa đã tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn và lãnh đạo nhân dân Việt
Nam đi đến độc lập và thống nhất, tự do và hạnh phúc, ngày một phát triển bền
vững. Đồng thời, cũng từ một sự khởi đầu đúng đắn đó, kiên định con đường cách
mạng do Người và Đảng đã chọn, và cho đến ngày này - một nước Việt Nam độc

5

Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

lập , tự do, hạnh phúc ngày càng phát triển vững mạnh và phồn vinh đã khẳng định
vị thế của mình trên trường quốc tế.
2. Cái chung được vận dụng trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước của
Chủ Tịch Hồ Chí Minh.

Tuy con đường Bác chọn là một con đường độc lập, riêng biệt nhưng cũng
tồn tại những mặt được lặp lại tương đồng so với các nhà yêu nước đi trước giả
như là của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Ba hành trình là ba cái riêng nhất
định nhưng cái chung vẫn tồn tại trong cái riêng và được biểu hiện thơng qua cái
riêng. Bởi như đã nói thì cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung,
và bất cứ cái riêng nào cũng tồn tại trong mối liên hệ với các cái riêng khác. Giữa
những cái riêng ấy bao giờ cũng có những cái chung giống nhau.Vậy nên giữa
những cái riêng là quá trình ra đi tìm đường cứu nước của Chủ Tịch Hồ Chí Minh
hay là của Phan Bội Châu, và của Phan Châu Trinh thì chắc chắn sẽ có những cái
chung. Và những cái chung ấy bao gồm:

Thứ nhất, các con đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội

Châu hay Phan Châu Trinh đều xuất phát từ lòng yêu nước, tinh thần dân tộc cùng
một tình thương dành cho nhân dân lao động. Sinh ra trong gia đình giàu lịng nhân
ái, có tinh thần yêu nước sâu đậm, cả Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu và
Phan Châu Trinh đều đã nhận được sự giáo dục và ni dưỡng lịng u nước và
truyền thống dân tộc sâu sắc đó là tình thương người, thương dân. Chính chủ tịch
Hồ Chí Minh hiểu rõ: dưới chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Nam Kỳ, cũng
chẳng khác gì dưới chế độ bảo hộ ở Trung Kỳ và dưới chế độ nửa thuộc địa, nửa
bảo hộ ở Bắc Kỳ. Ở đâu nhân dân cũng bị áp bức, bóc lột, đồng bào cũng bị đọa
đày, khổ nhục. Hoặc là trong tác phẩm “Ái Quốc”, Phan Bội Châu cũng tự cảm
thán rằng “Nay ta hát một thiên ái quốc/u gì hơn u nước nhà ta.” Chính động
lực này đã thúc đẩy Bác và hai nhà cách mạng Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
phải đi tìm một con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giúp nhân dân được sống
tại một đất nước độc lập, hạnh phúc và ấm no.

Thứ hai, quá trình ra đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hay
là của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đều có tư tưởng hướng ra nước ngoài để
cứu nước. Nghĩa là cả ba nhà cách mạng đều hoạt động cả trong lẫn ngoài nước.
Một lý do nhằm giải thích vấn đề này chính là các nhà cách mạng đã nhận thấy
những mặt hạn chế thời đại của phong trào Cần Vương hay cả khởi nghĩa Yên Thế.
Các phong trào, khởi nghĩa như trên đều mang theo khuynh hướng phong kiến và
đều đã thất bại. Bởi lẽ, các cuộc khởi nghĩa đấu tranh chỉ giải quyết được một mặt
mâu thuẫn cơ bản, quan trọng hơn là giai cấp phong kiến, địa chủ đã khơng cịn
khả năng dẫn dắt dân tộc thực hiện giải phóng đi đến thắng lợi được. Do đó chủ
tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu hay là Phan Châu Trinh đều đã ra nước ngồi để
học tập, tuy nhiên khơng phải cái nào cũng học tập bên nước khác mà vẫn phải phù
hợp với dân tộc, đất nước.

Tuy nhiên, nếu xét dựa trên hai cái riêng là quá trình tìm ra con đường cứu
nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh thì dễ thấy, ngồi những cái chung
nêu trên, cịn có những cái chung khác ở hai cái riêng này là đều đi theo con đường

dân chủ tư sản, đều sinh ra trong hoàn cảnh đất nước đang nằm trong tay đế quốc

6

Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

Pháp, công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm xã hội Việt Nam
biến chuyển và phân hóa cùng với đó là sự du nhập của trào lưu cách mạng thời kì
cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX. Chủ trương cứu nước của các cụ vừa giống nhau
vừa thống nhất với nhau ở khái niệm “Dân nước và nước dân”: Con đường cứu
nước của Phan Châu Trinh là “cứu dân để cứu nước” còn con đường cứu nước của
Phan Bội Châu lại là “cứu nước để cứu dân”.

Không chỉ thế cả 2 phong trào đều thúc giục lòng yêu nước của nhân dân
đương thời, tạo nên trong lòng xã hội những mầm mống, tư tưởng thúc đẩy sự phát
triển của những con đường cứu nước theo những khuynh hướng khác, sử dụng
được sức mạnh của nhân dân làm gốc.

Như vậy trong quá trình tìm ra con đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã xuất hiện những cái chung. Quả đúng vậy, cái chung chỉ biểu hiện
sự tồn tại của mình thông qua cái riêng, tồn tại trong cái riêng. không có cái chung
nào tồn tại hay biểu hiện ngồi cái riêng. Do vậy những cái chung nêu trên đều tồn
tại thơng qua cái riêng là q trình tìm ra con đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và hai cái riêng khác nữa là quá trình tìm ra con đường cứu nước của Phan
Bội Châu và Phan Châu Trinh.
3. Những giá trị đặc sắc, cái đơn nhất trong quá trình ra đi tìm đường cứu
nước của Chủ Tịch Hồ Chí Minh.


Trong q trình đi tìm con đường cứu nước của chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi
những cái chung thì cịn xuất hiện những cái đơn nhất, cái đặc thù. Đó là những giá
trị đặc sắc mà con đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh đem tới.Phải khẳng
định rằng, trước Nguyễn Tất Thành đã có những người Việt Nam xuất dương cứu
nước. Chỗ khác nhau cơ bản ở đây không phải ở hành động xuất dương, mà ở cách
đi, hướng đi và mục đích ra đi khi quyết định xuất dương của Bác so với các bậc
tiền bối.

Điểm thứ nhất là, trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc
(Nguyễn Tất Thành) đã tìm hiểu sâu sắc các cuộc cách mạng điển hình trên thế
giới. Người đề cao những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người
của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu nhưng Người cũng nhận thức rõ và phê
phán bản chất không triệt để của các cuộc cách mạng tư sản. Nguyễn Ái Quốc
nhận xét: “Tư bản nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng, Đồng bào để lừa dân, xúi dân
đánh đổ phong kiến. Khi dân đánh đổ phong kiến rồi, thì nó lại thay phong kiến mà
áp bức dân. Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản,
cách mệnh khơng đến nơi, tiếng là cộng hịa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước
lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa”. Đây là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc
khẳng định một cách dứt khoát rằng: Con đường cách mạng tư sản không thể đưa
lại độc lập và hạnh phúc thực sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt
Nam nói riêng.

Điểm thứ hai là mục đích sang phương Tây của Hồ Chí Minh cũng khác và
thể hiện tầm nhìn vượt trội so với những nhà cách mạng tiền bối. Tuy rất khâm
phục các sĩ phu dũng cảm tìm đường đấu tranh cứu dân, cứu nước nhưng người
thanh niên Nguyễn Tất Thành cũng sớm nhận ra những hạn chế trong con đường
của các vị ấy. Cụ Phan Châu Trinh yêu cầu thực dân Pháp thực hiện cải lương, việc

7


Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

này “chẳng khác nào xin giặc rủ lòng thương”. Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật
giúp ta đuổi Pháp cũng chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ
Hoàng Hoa Thám thực tế hơn, đã trực tiếp đấu tranh chống Pháp, nhưng còn nặng
cốt cách phong kiến, mà con đường theo lập trường phong kiến thì đã hết thời…
Nguyễn Tất Thành xác định mục đích ra đi tìm đường cứu nước hồn tồn khác:
tìm một con đường cứu nước mới để dân tộc Việt Nam được hưởng độc lập thật sự
trong đó chủ yếu phải là “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Rõ ràng, trước lúc ra
đi Người đã nhận thức một cách rõ ràng, cái mà dân tộc cần trước tiên chưa phải là
súng đạn, của cải, mà là cách đuổi giặc cứu nước, là làm cách mạng, hay nói cách
khác là lý luận cách mạng và phương pháp cách mạng.

Điểm thứ ba là cách đi, nếu như các bậc tiền bối đưa người sang phương
Đơng bằng tiền qun góp của các hào phú yêu nước, từ sự viện trợ; thì Bác ra đi
bằng đôi bàn tay trắng, tự lao động, tự kiếm tiền để sống và để đi, cách đi ấy thể
hiện sự tự chủ (trước hết là tự chủ về tài chính). Người trực tiếp hịa nhập vào
cuộc sống thực tiễn bằng lao động để mở mang nhận thức, tìm ra chân lí. Ngày 5
tháng 6 năm 1911, trên con tàu “Đô đốc Latouche Tréville”, từ bến cảng Nhà Rồng
của Thành phố Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành đã lên đường sang Pháp. Người làm
bất cứ việc gì để sống và hoạt động (phụ bếp dưới tàu, làm bánh trong các khách
sạn, cào tuyết, đốt lò, chụp ảnh…). Gần mười năm, vừa lao động kiếm sống, vừa
tiến hành khảo sát thực tiễn nhiều nước tư bản và các nước thuộc địa, khảo sát các
cuộc cách mạng ở các nước Pháp, Anh, Mỹ… Nguyễn Tất Thành đã có nhận thức
quan trọng là: Cách mạng tư sản là những cuộc cách mạng vĩ đại, nhưng là những
cuộc cách mạng chưa đến nơi. Nó đã phá tan gơng xiềng phong kiến cùng những
luật lệ hà khắc và những ràng buộc vô lý để giải phóng sức lao đợng của con
người. Cách mạng tư sản xây dựng lên một chế độ mới tiến bộ hơn xã hội phong

kiến. Nhưng cách mạng xong rồi dân chúng vẫn khổ, vẫn bị áp bức, bóc lột và vẫn
mưu toan làm cách mạng. Từ đó, Người đi đến kết luận: “chúng ta đổ xương máu
để làm cách mạng thì khơng đi theo con đường cách mạng này”. Nguyễn Tất
Thành đã tìm ra những mặt trái của xã hội phương Tây, nhận ra “ở đâu cũng có
người nghèo khổ như xứ sở mình” do ách áp bức, bóc lột dã man, vơ nhân đạo của
bọn thống trị. Điều đó đã giúp Người có một nhận thức quan trọng: Nhân dân lao
động trên toàn thế giới cần đoàn kết lại để đấu tranh chống kẻ thù chung là giai cấp
thống trị; cùng nhau thực hiện nguyện vọng chung là độc lập, tự do. Như vậy, sự
sáng tạo của Người còn được biểu hiện ở triết lý hành động, ở kiểm chứng mọi lý
thuyết trong thực tiễn và bằng thực tiễn, hiện thân nhân sinh bằng dấn thân.

Điểm thứ tư là Người hồn tồn khơng đứng ngồi để quan sát, tìm tịi và học
hỏi, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn dấn thân vào trung tâm cuộc đấu tranh giải phóng
các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới, vào trung tâm cuộc đấu tranh của phong
trào cơng nhân ngay giữa lịng châu Âu tư bản chủ nghĩa. Nhờ đó, Bác nhận ra mối
quan hệ giữa con đường cứu nước của dân tộc Việt Nam với sự nghiệp giải phóng
các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Đặc biệt, nhận ra mối quan hệ giữa đấu
tranh giải phóng dân tộc với đấu tranh giải phóng giai cấp. Nhận ra các mối quan
hệ ấy, Nguyễn Ái Quốc giác ngộ sâu sắc khẩu hiệu của Lênin “Giai cấp vô sản và
các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đoàn kết lại”. Và cũng từ đó, với Người,

8

Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

cuộc đấu tranh để giành lại độc lập cho dân tộc không thể “đứng một mình” mà
nhất thiết phải là một bộ phận của cuộc đấu tranh của phong trào giải phóng dân
tộc. Nhất thiết phải đặt cơng cuộc giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng

vô sản thế giới.

Điểm thứ năm là hướng đi, Nguyễn Tất Thành khơng chỉ đi sang Pháp mà cịn
sang Anh, sang Mỹ và một số nước châu Âu. Còn đi đến nhiều nước khác ở châu
Phi có cùng thân phận thuộc địa “được” văn minh phương Tây “khai hóa” như
nước Việt Nam của mình. Các lý do hấp dẫn đưa Người đến nước Pháp là những
truyền thống tự do, bình đẳng, bác ái và nền văn minh của chính quốc mà Người
được nghe, biết và sự tàn bạo của bọn thực dân ở thuộc địa mà Người đã chứng
kiến... Và chính những nhận thức về bối cảnh đất nước và những tìm hiểu của Hồ
Chí Minh về nước Pháp đã thôi thúc Người sang Pháp và các nước khác... Đây
không phải là hành động ngẫu nhiên, tự phát mà là sự lựa chọn, trăn trở; một quyết
tâm lớn, nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam. Nguyễn Tất
Thành đã đi đến nhiều nơi trên thế giới để tìm hiểu, khảo sát, chọn cho riêng mình
con đường trải nghiệm thực tế ở các quốc gia trên thế giới, với 30 năm bơn ba ở
nước ngồi (1911-1941), bàn chân của Người đã từng in dấu trên 3 đại dương, 4
châu lục (Âu, Á, Phi, Mỹ) và khoảng ba chục quốc gia. Đặc biệt Người đã dừng
chân khảo sát khá lâu ở ba nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp, Bác
đã tiếp xúc nhiều nền văn hóa, chính trị và đã dần hiểu rõ thực chất của nền văn
minh tư sản, nền dân chủ tư sản dưới các hình thức khác nhau của nó. Ngày 6 - 7 -
1911 (sau một tháng lênh đênh trên biển), tàu cập cảng Macxay lần đầu tiên đặt
chân đến nước Pháp, Bác thấy ở nước Pháp cũng có người nghèo khổ, thấy cảnh
của nhà thổ và gái làm tiền, Người đặt câu hỏi: “Tại sao người Pháp khơng “khai
hóa” đồng bào của họ trước khi đi “khai hóa” chúng ta”, qua nhiều lần tiếp xúc,
Người nhận ra rằng: “Người Pháp ở Pháp tốt và lễ phép hơn người Pháp ở Đông
Dương”. Đến các thuộc địa của Pháp, Người thấy rằng, những người Pháp thực
dân rất hung ác và vô nhân đạo. Người thấy nhiều người Pháp hết sức căm phẫn
khi biết những tội ác của thực dân Pháp ở các thuộc địa. Người nhận ra rằng, trong
cuộc chiến đấu để giải phóng đồng bào, giành độc lập cho Tổ quốc, chúng ta
không cô độc, bên cạnh chúng ta cịn có những người bạn Pháp dân chủ, chân
chính… Đến Mỹ, quê hương của bản Tuyên ngôn độc lập, tại đây Người vừa đi

làm thuê kiếm sống, vừa nghiên cứu lịch sử hình thành nước Mỹ. Nguyễn Tất
Thành đã đọc và nghiền ngẫm bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ.
Có thể coi đó là một sự kiện rất quan trọng, bởi bản tuyên ngôn này đã gây cảm
hứng cho Người trên hành trình đi tìm đường cứu nước sau này. Trong bản Tuyên
ngôn độc lập này, Nguyễn Tất Thành rất thích câu: “Mọi người sinh ra đều bình
đẳng, rằng tạo hóa đã cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được, trong
đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Bác thường đến thăm
khu Haclem của người da đen, đây được coi là “cái đáy” của nước Mỹ – nơi bộc lộ
rõ nhất bản chất của xã hội tư bản. Sự bần cùng ở khu vực người da đen vẫn hiện
lên rất rõ như một minh chứng về sự tương phản giàu nghèo mạnh mẽ. Bởi vậy,
khi tới thăm tượng nữ thần tự do tại Mỹ, Bác đã có trăn trở: “Ánh sáng trên đầu
Thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh, cịn dưới chân Thần thì người da đen bị chà

9

Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

đạp. Bao giờ thì người da đen mới hết bị chà đạp? Bao giờ thì người da đen và
người phụ nữ mới có bình đẳng? Bao giờ mới có sự bình đẳng giữa các dân tộc?”.
Như vậy, cho tới lúc này, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã nắm được bản
chất khái quát của thế giới hiện tại, đó là thiểu số người giàu cai trị và áp bức
người nghèo. Các nước giàu mạnh xâm lược, thống trị và đàn áp các nước nhược
tiểu. Bạo lực, bất cơng, bóc lột thay cho “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” và “Dù màu
da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống
người bị bóc lột”. Những nhận biết căn bản đó càng thơi thúc Người quyết tâm tìm
con đường giải phóng mà Người đã từng nung nấu, ấp ủ từ ngày rời Tổ quốc. Đầu
năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp, ngày 18/6/1919, lấy tên Nguyễn Ái
Quốc, thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam ở Pháp, Người đã gửi tới hội

nghị Véc-xây bản Yêu sách của nhân dân Việt Nam đòi chính phủ Pháp phải thừa
nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Như vậy
với tư cách đại diện cho người dân của một dân tộc thuộc địa, bản yêu sách của
nhân dân An Nam của Nguyễn Ái Quốc mang giá trị như một địn tấn cơng trực
diện đầu tiên vào chủ nghĩa đế quốc đã gây ra một tiếng vang lớn cho nhân loại.

Như vậy, những trải nghiệm thực tế phong phú trong 10 năm đầu ở nhiều
quốc gia trên thế giới đã giúp người nhận thức rõ bản chất xấu xa của chủ nghĩa
thực dân và sự bóc lột của nền dân chủ tư sản, thấy rõ trên thế giới này ở đâu nhân
dân lao động cũng là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù, vì vậy trong cuộc
chiến chống chủ nghĩa thực dân chúng ta không đơn độc, bên cạnh chúng ta có
những người bạn chính quốc u hịa bình, dân chủ và những nước thuộc địa khao
khát tự do, từ đó mà hình thành trong Bác tư tưởng đại đồn kết quốc tế để giành
độc lập – một điểm mới trong tư tưởng của một người yêu nước trẻ, khác hẳn với
các bậc tiền bối trước đó.

Bằng hoạt động thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua tầm nhìn hạn chế, ảo
tưởng mong chờ sự giúp đỡ của các chính phủ đế quốc đã từng tồn tại ở một số nhà
yêu nước khác cùng thời. Nguyễn Ái Quốc nhận rõ, trong thế giới chỉ có “một mối
tình hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vơ sản”.

Có thể thấy sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong hành trình tìm đường
cứu nước đang song hành với cả dân tộc trong thế kỷ XXI. Người anh hùng dân
tộc Hồ Chí Minh đã mang lại cho dân tộc ta con đường cứu nước, cứu dân với
những đóng góp đầy sáng tạo của Người. “Hãy làm đi khi chúng tôi còn trẻ” -
câu ngạn ngữ phương Tây rất đúng với thực tiễn cuộc đời Hồ Chí Minh. Người
đã hiến dâng tuổi trẻ, bằng sự dũng cảm, sáng tạo đã làm nên một Nguyễn Ái
Quốc - ngôi sao sáng nhất trên bầu trời cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.
Tư tưởng, nhân cách của Hồ Chí Minh trở thành mợt tài sản tinh thần quý báu
của dân tộc ta, trở thành vốn minh triết đối ứng trong quá trình cọ xát, đối diện,

bản địa hoá các lý thuyết khác nhau trong thế giới đương đại.
4. Bài học

Qua những vận dụng cặp phạm trù “cái riêng và cái chung” để nhìn nhận
con đường cứu nước của Bác, dễ thấy, quá trình ra đi tìm đường cứu nước của Bác
khơng chỉ truyền ý chí, cảm hứng, khát vọng cho thanh niên, mà còn giúp thanh

10

Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

niên Việt Nam rút ra nhiều bài học quý báu trong cuộc sống, học tập, công tác, lao
động sản xuất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trước hết là bài học về lòng yêu nước, thương dân, khát vọng độc lập dân
tộc, phát triển đất nước. Lòng yêu nước, thương dân, khát vọng độc lập của
Người luôn soi đường cho các thế hệ thanh niên Việt Nam. Trong giai đoạn đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, với tình yêu Tổ quốc cao cả, các
thế hệ thanh niên Việt Nam đã sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì khi
Tổ quốc cần, chiến đấu, cống hiến và hy sinh cho Tổ quốc, tô thắm truyền thống
yêu nước của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Thứ hai là về nghị lực và rèn luyện ý chí quyết tâm, bản lĩnh, nỗ lực, phấn
đấu không ngừng và không được tự mãn. Cả quá trình tìm đường cứu nước của
Bác Hồ cũng như suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người là tấm gương
sáng ngời về nghị lực, ý chí vươn lên, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, không
ngừng nỗ lực, phấn đấu, rèn luyện. Thanh niên ngày nay phải ln có ý thức tự
rèn thái độ sống đúng đắn, ý chí, nghị lực vươn lên, vượt khó sáng tạo. Bối cảnh

hiện nay địi hỏi mỗi thanh niên phải luôn làm giàu cho bản thân tri thức, sức
khỏe, kỹ năng, phải ln có khát vọng vươn tới những tầm cao, nếu thỏa mãn,
thanh niên sẽ sớm bị tụt hậu.

Tiếp theo là tinh thần tự học, học tập suốt đời. Trong hành trình đi tìm
đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã đi đến khắp năm
châu. Đến đâu, Người cũng học, tìm mọi cách để học, tìm hiểu phong tục tập
quán ở những nơi mình đi qua để nâng cao tri thức; học nghề để kiếm sống,
kiếm sống để hoạt động cách mạng.

Cuộc đời của Bác là một tấm gương sáng ngời về tinh thần tự học tập, học
tập suốt đời, vừa học tập vừa hoạt động cách mạng. Học tập để hoạt động cách
mạng, đạt được mục đích, lý tưởng của mình; qua hoạt động cách mạng, khơng
ngừng học tập, hồn thiện tri thức và nhân cách của bản thân. Với thế hệ trẻ
ngày nay, nhất là đối với sinh viên chúng ta, phải không ngừng tự học tập, tự
rèn luyện để nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt và coi tự học là nhu cầu,
thói quen, hành vi hằng ngày, là một tiêu chuẩn, một giá trị tự thân cần đạt.
Ngoài ra, cái riêng trong con đường cứu nước của Bác cũng là một tấm gương
sáng để thế hệ thanh niên học tập và noi theo.

Thứ tư là phải biết kết hợp tiến bộ của nhân loại với những giá trị truyền
thống cốt lõi của dân tộc. Bài học của Bác tiếp tục truyền cảm hứng cho thanh
niên ngày nay phải luôn nỗ lực học tập, tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo những trào
lưu, các tiến bộ, cái tinh hoa của nhân loại vào thực tiễn xây dựng và phát triển
đất nước Việt Nam. Bối cảnh hội nhập, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
ngày nay giúp thanh niên có điều kiện để học những tinh hoa và phù hợp của các
trào lưu trên thế giới nhưng không được phụ thuộc, khơng được dựa dẫm vào
người khác, phải tiếp thu có chọn lọc trên nền tảng các giá trị truyền thống cốt
lõi của dân tộc, tiếp thu những giá trị mới để làm giàu bản sắc dân tộc, để tạo
thành những “ cái đơn nhất “ cho văn hoá Việt Nam.


Cuối cùng cần phải tìm hướng đi mới, đột phá và khác biệt. Với trí tuệ
thiên tài của mình, Người đã tiếp nhận những giá trị chung và mới của nhân loại

11

Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

để tìm ra con đường cứu nước, cứu dân thích hợp với hồn cảnh cụ thể của nước
nhà và tương thích với sự vận động, xu thế phát triển mới trong quá trình tiến
hóa của lồi người.

Ngày nay, học tập tinh thần đó, mỗi thanh niên phải thực sự chủ động và
sáng tạo trong các hoạt động của mình để tìm ra được cái độc đáo, cái đơn nhất
từ những cái chung và trong cái riêng. Mục tiêu tầm nhìn 2030, khát vọng 2045
của dân tộc địi hỏi mỗi thanh niên hơm nay phải ln có tinh thần đổi mới sáng
tạo, ln trăn trở tìm hướng đi mới, cách tiếp cận mới đối với mỗi vấn đề mà
thực tiễn cuộc sống đặt ra, dấn thân vào những nhiệm vụ mới đầy khó khăn
hơn.

Nhớ Bác, học Bác để mỗi bạn trẻ ngày càng nỗ lực hơn trong tự rèn luyện,
không ngừng sáng tạo, phấn đấu vì một Việt Nam hùng cường như tâm nguyện
và khát vọng cháy bỏng của Người.

III. Liên hệ
Nghiên cứu, học tập các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy

vật với những người sinh viên, cụ thể hơn là việc khắc sâu mối quan hệ biện

chứng giữa cái riêng và cái chung, để hiểu đúng, rõ vấn đề là vô cùng quan
trọng. Bởi lẽ, trong cuộc sống thường nhật sẽ có vơ vàn những sự vật, hiện
tượng cùng các q trình khác nhau. Khi đó, nếu nắm rõ kiến thức về cặp phạm
trù “cái riêng và cái chung” thì chúng ta sẽ dễ dàng nhận thức, vận dụng và đánh
giá đúng, thấy được những điểm chung giữa những cái riêng, thấy được cái đơn
nhất, điểm độc đáo khác biệt, từ đây hệ thống hóa được vấn đề rút ra được bản
chất, đặc trưng của sự vật, hiện tượng. Do vậy, mà sinh viên có thể tiếp thu kiến
thức một cách hiệu quả, đầy đủ nhất. Ví dụ như khi học môn Lý luận chung về
Nhà nước và Pháp luật, chúng ta có hai khái niệm là “pháp luật” và “đạo đức”,
đây là hai cái riêng, những quy tắc xử sự chung mang đặc điểm của quy phạm
xã hội là cái chung và trong những cái riêng đó cịn có những cái đơn nhất, đó là
điểm khác biệt mà chỉ mình pháp luật có hoặc chỉ có ở đạo đức.

Hơn nữa, nếu đánh giá, nhìn nhận sự vật, hiện tượng hay quá trình theo
hướng của cặp phạm trù ‘cái riêng và cái chung” thì sẽ giúp sinh viên loại bỏ
những lối tư duy chủ quan, thiếu tính sáng tạo, lệ thuộc và dễ gây nhầm lẫn.
Việc nhìn nhận theo hướng cặp phạm trù này, tức đánh giá một cái riêng thông
qua cái chung và cái đơn nhất. Khi đó sự vật hiện tượng sẽ được đánh giá dựa
trên những đặc điểm chung với những sự vật hiện tượng khác và dựa trên những
điểm sáng tạo, riêng có. Việc nhìn nhận đánh giá vấn đề như vậy sẽ trở nên
khách quan; không dập khuôn, máy móc. Tuy nhiên địi hỏi ở sinh viên bên cạnh
những kiến thức tiếp thu từ giảng đường thì cần có sự tìm tịi, rèn luyện, trau dồi
thêm nhiều kiến thức… để có một cái nhìn khách quan, đa chiều; giúp sinh viên
dễ dàng áp dụng với thực tiễn cuộc sống mà không dừng lại là những lý thuyết.

Tóm lại, trong cuộc sống, nếu nhìn nhận đánh giá đúng cái riêng và cái
chung sẽ đem lại rất nhiều lợi ích, hiệu quả. Vận dụng mối quan hệ biện chứng
giữa cái riêng và cái chung là đặc biệt cần thiết với sinh viên thời đại mới.

12


Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

KẾT LUẬN
Tựu chung, cặp phạm trù “cái riêng và cái chung” đã đem đến cái nhìn bao
qt, tồn diện với nhiều khía cạnh khác nhau. Cái riêng phong phú, đa dạng; cái
chung sâu sắc, cụ thể. Mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng là chìa khóa giải
quyết nhiều mặt của cuộc sống và con người. “Cái riêng và cái chung” của phép
biện chứng duy vật đã góp phần khẳng định triết học Mác - Lênin có khả năng
đúng đắn về tự nhiên, xã hội và tư duy.
Lịch sử phát triển của dân tộc, từ cặp phạm trù “cái riêng và cái chung”, quá
trình ra đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nhìn nhận, đánh
giá đúng đắn. Con đường cứu nước của Người là một quá trình độc lập, riêng biệt
và đầy độc đáo. Người đã đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới, hướng
tới độc lập, tự do và hạnh phúc.
Với sinh viên, mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung đã giúp
sinh viên nhìn nhận và đánh giá khách quan về quá trình học tập và làm việc của
bản thân, từ đó định hướng kế hoạch học tập và làm việc một cách hiệu quả hơn.

13

Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

DANH MỤC THAM KHẢO

* Giáo trình:


1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị
quốc gia Sự thật 2021.

2. GS. TS. Phạm Văn Đức, Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Giáo Dục
2019

* Báo:

1. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.


2. Báo điện tử Báo Quân đội Nhân dân


* Sách:
1. Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, H.2006, Tập

1
2. Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, H.2000, Tập 1

CHÚ THÍCH

[1]
- Phan Bội Châu:

Phan Bội Châu vốn tên là Phan Văn San, sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867
tại làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ơng sinh
trưởng trong một gia đình nhà Nho, tại làng Đan Nhiễm, Nam Hồ, Nam Đàn,
Nghệ An. Ơng là một người yêu nước và một nhà cách mạng “vị anh hùng, vị

thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập”. Là một người yêu nước và cách mạng, lãnh
đạo phong trào Đông Du và xuất dương sang Nhật; năm 1925, ông bị thực dân
Pháp bắt và đưa ông về quản thúc (giam lỏng) tại Huế. Ông mất ở đây năm
1940.

Con đường cứu nước của Phan Bội Châu theo khung hướng bạo động vũ
trang. Với nhiệm vụ Đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục lại chế độ phong kiến
(Thành lập Duy Tân Hội, tổ chức phong trào Đông du…) và chủ trương là vận

14

Downloaded by nhung nhung ()

lOMoARcPSD|11424851

động quần chúng tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngoài ( Nhật bản), tổ chức bạo
động đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập dân tộc. Xây dựng chế độ chính trị
Quân chủ lập hiến. Con đường cứu nước của Phan Bội Châu mặc dù được phần
đông quần chúng nhân dân ủng hộ nhưng kết quả cuối cùng là đi đến sự thất bại.
Nguyên nhân chủ yếu ở đây là sai lầm trong chủ trương của cụ.

Điểm mạnh ở đây chính là cụ đã biết tiếp thu những kết quả trong công
cuộc đổi mới của Nhật Bản nhưng cũng chính vì lẽ này mà cụ đã xác định sai
con đường cứu của mình, cụ chủ trương dựa vào Nhật Bản để đánh đuổi thực
dân Pháp. Nhưng thực tế cho thấy một điều khá rõ ràng rằng, Đế quốc Nhật Bản
là một nước đi theo “chủ nghĩa đế quốc quân phiệt”, cũng tích cực bành trướng
thuộc địa như thực dân châu Âu. Đến thời điểm đó, Nhật Bản đã xâm chiếm và
đô hộ Triều Tiên, và chuẩn bị xâm chiếm Trung Quốc.

Do vậy, chủ trương của Phan Bội Châu là rất khó thành cơng, và dù có

thành cơng thì Việt Nam sẽ lại phải đối diện với mối nguy mới từ Nhật Bản. Vì
lẽ ấy, Nguyễn Ái Quốc dù khâm phục lòng yêu nước của Phan Bội Châu nhưng
nhận xét đường lối của ông giống như “Đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.

- Phan Châu Trinh:
Phan Châu Trinh tự là Tử Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã, sinh ngày 9-

9-1872 (năm Tự Đức thứ 23 - Nhâm Thân), quê quán làng Tây Lộc, huyện Hà
Đông, phủ Tam Kỳ, nay là thôn Tây Lộc, xã Tam Lộc, thành phố Tam Kỳ, tỉnh
Quảng Nam.

Con đường cứu nước mà Phan Châu Trinh đã chọn là “cứu dân để cứu
nước” theo khuynh hướng cải cách dân chủ. Với nhiệm vụ Đánh đổ phong kiến,
thực hiện cải cách xã hội “ Khai thơng dân trí, mở mang dân quyền” và Chủ
trương là Giương cao ngọn cờ dân chủ, cải cách xã hội, chủ trương cứu nước
bằng phương pháp nâng cao dân trí, dân quyền. Vạch trần chế độ vua quan
phong kiến thối nát, địi Pháp sửa đổi chính sách cai trị thuộc địa, mở mang
công thương nghiệp và tự cường. Phong trào cứu nước của Phan Châu Trinh
cũng góp phần cổ vũ tinh thần tự lập, tự cường, tư tưởng giáo dục, tư tưởng
chống lạc hậu của nhân dân ta. Tuy vậy, khơng thể khơng nói đến ngun nhân
chủ yếu làm khuynh hướng này cuối cùng cũng đi vào con đường của sự thất bại
như phong trào của cụ Phan Bội Châu chính là sự ảo tưởng trong mục đích
muốn ơn hịa và u cầu Pháp có thể thay đổi phương thức bóc lột nhân dân ta
mà sau này Nguyễn Ái Quốc đã có câu nhận xét như sau: “Cụ Phan Châu Trinh
chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương, đó là sai lầm chẳng khác gì đến xin
giặc rủ lòng thương”.

15

Downloaded by nhung nhung ()


lOMoARcPSD|11424851

16

Downloaded by nhung nhung ()


×