Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

1 THỎA THUẬN BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI ƯỚC TÍNH TRONG PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.76 KB, 16 trang )

THỎA THUẬN BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI ƯỚC TÍNH TRONG PHÁP LUẬT
MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
TS. Nguyễn Minh Đức1

Tóm tắt:
Trong thương mại quốc tế ngày nay, các thương nhân cũng như cơ quan giải
quyết tranh chấp đã nhận thấy sự xuất hiện của một điều khoản mà các bên có xu

hướng sử dụng, đó là điều khoản thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính (Liquidated
Damages - LDs) trong hợp đồng thương mại. Đây là một loại điều khoản đặc biệt mà

pháp luật thương mại Việt Nam khơng có quy định, cũng như thực tiễn giao kết hợp
đồng trong kinh doanh ở Việt Nam không được thương nhân thỏa thuận lựa chọn áp
dụng. Do đó, bài viết trình bày kinh nghiệm pháp lý quy định về thỏa thuận bồi thường
thiệt hại ước tính trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.

Từ khóa: Bồi thường thiệt hại ước tính, hợp đồng thương mại, kinh nghiệm
Nội dung
1. Khái quát quy định về thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính trong
pháp luật một số quốc gia trên thế giới và điều ước quốc tế
1.1. Pháp luật Mỹ
Là một quốc gia theo truyền thống Common law, quy định về điều khoản thỏa
thuận bồi thường thiệt hại ước tính ở Mỹ cũng có nhiều điểm khác biệt, đặc biệt là về
nơi chứa đựng quy định pháp luật cũng như quan điểm về điều khoản này. Theo đó
trong lịch sử lập pháp ở Mỹ, điều khoản về LDs ngoài việc được thể hiện thơng qua
các quy định trong án lệ cịn được quy định ở các văn bản như Bộ pháp điển hóa về
Hợp đồng và Bộ Luật thương mại thống nhất (Uniform Commercial Code).
Trong lịch sử và cho đến hiện nay, Tòa án Mỹ không thừa nhận việc phạt hợp
đồng (penal bonds) trong giao dịch dân sự cũng như kinh doanh thương mại với
nguyên nhân bên bị vi phạm được lợi bất chính từ hành vi vi phạm của bên cịn lại. Do
đó, Tịa án Mỹ không cho thi hành bất cứ một dạng thỏa thuận nào với mục đích trừng


phạt, răn đe bên vi phạm khỏi việc vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật Mỹ vẫn
thừa nhận quyền của các bên trong việc ấn định một khoản tiền bồi thường trước khi
thực hiện hợp đồng nhằm đề phòng cho trường thiệt hại khó tính tốn nếu có hành vi
vi phạm. Do đó đã phát sinh nhu cầu cần thiết cho Pháp luật Mỹ tạo ra cách phân biệt
điều khoản LDs với điều khoản phạt vi phạm2.

1 Trưởng bộ môn Luật, Khoa Kế tốn – Tài chính, Trường Đại học Văn Hiến
2 Susan V. Ferris (1982), tlđd, tr. 863.

1

Trước khi có án lệ và quy định cụ thể về LDs, thỏa thuận này của các bên ở Mỹ
bị chi phối bởi mối quan hệ phức tạp giữa hai vấn đề lớn là nguyên tắc tự do thỏa
thuận của các bên trong hợp đồng (Freedom of contract) và luật cơng bình (Equitable
rule) trong xét xử. Một mặt, thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính của các bên
khơng chỉ là toan tính của các bên trong kinh doanh thương mại để đạt được lợi nhuận
cao nhất mà còn là mong muốn của các bên trong việc tiết kiệm thời gian và chi phí,
khơng phải chứng minh thiệt hại thực tế khi xảy ra tranh chấp. Việc Tịa án khơng cho
thi hành thỏa thuận bồi thường ước tính của các bên trong trường hợp khơng có thiệt
hại thực tế đã làm vi phạm đến nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên trong hợp
đồng thương mại. Mặt khác, trong trường hợp việc vi phạm hợp đồng gây ra thiệt hại
thực tế rất bé hoặc khơng có thiệt hại thực tế thì Tịa án Mỹ lại có xu hướng viện dẫn
đến ngun tắc công bằng để không cho thi hành điều khoản LDs trong hợp đồng.
Theo ngun tắc cơng bình, việc một hành vi vi phạm khơng để lại thiệt hại thì về lý
bên bị vi phạm sẽ không được bồi thường hay nhận bất cứ một khoản tiền nào một
cách không chính đáng vì sẽ dẫn đến việc làm lợi bất chính (unjust enrichment).

Năm 1933, Bộ Pháp điển hóa về hợp đồng xuất bản lần thứ nhất đã đưa ra quy
định đầu tiên của Mỹ về điều khoản LDs, theo đó, khoản 1 Điều 339 quy định: “Thỏa
thuận của các bên về một khoản tiền thiệt hại ước tính trước khi xảy ra hành vi vi

phạm sẽ không được thi hành cũng như không ảnh hưởng đến việc bồi thường thiệt hại
thực tế trừ khi (a) khoản tiền được ấn định trước là sự tính tốn hợp lý chỉ vì mục đích
bồi thường thiệt hại gây ra bởi hành vi vi phạm và (b) thiệt hại gây ra bởi hành vi vi
phạm không thể hoặc khó có thể xác định một cách chính xác”. Quy định này chỉ ra
rằng để điều khoản LDs được thi hành cần thiết phải thỏa mãn điều kiện về mục đích
của các bên khi thỏa thuận điều khoản và điều kiện về tính khó xác định của thiệt hại.

Mặc dù quy định tại Bộ Pháp điển hóa về hợp đồng xuất bản lần một, đã bước
đầu tạo hành lang pháp lý cho điều khoản LDs, nhưng vẫn chưa giải quyết được mối
quan hệ phức tạp giữa nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên và luật cơng bình.
Khơng những vậy, việc áp dụng pháp luật trên thực tế cũng không đạt được hiệu quả
mong muốn do mỗi thẩm phán đều có cách giải thích pháp luật khác nhau cho mỗi vụ
tranh chấp.

Năm 1952, Bộ Luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ (American Uniform
Commercial Code – U.C.C.) đem đến một cái nhìn và cách giải quyết điều khoản thỏa
thuận bồi thường thiệt hại ước tính của các bên trong hợp đồng. Theo đó, khoản 1
Điều 2-718 của Bộ luật này quy định: “Khoản tiền bồi thường thiệt hại gây ra bởi
hành vi vi phạm do bất cứ bên nào gây ra đều có thể được thỏa thuận ấn định trước
trong hợp đồng nhưng phải được thỏa thuận một cách tương xứng với thiệt hại dự

2

đoán sẽ xảy ra hoặc thiệt hại thực tế xảy ra, trong hồn cảnh khó chứng minh thiệt hại
cũng như sử dụng các biện pháp cần thiết khác. Điều khoản sẽ bị coi là vô hiệu với tư
cách là phạt vi phạm nếu khoản tiền được thỏa thuận cao quá mức một cách vô lý”3.

Trước hết, có thể thấy U.C.C. đã loại bỏ hoàn toàn quy định liên quan đến ý
định, mục đích của các bên khi thỏa thuận điều khoản này với nguyên nhân là gây ra
sự không áp dụng thống nhất được pháp luật trên thực tế. Đồng thời, điểm mới so với

quy định của Bộ pháp điển hóa về hợp đồng xuất bản lần thứ nhất là quy định của
U.C.C. đã bao gồm thêm sự cân nhắc của yếu tố thiệt hại thực tế trong việc cho thi
hành điều khoản LDs.

Năm 1981, Bộ Pháp điển hóa về hợp đồng xuất bản lần thứ hai đã đưa ra quy
định hiện hành cho điều khoản LDs tại Điều 356 như sau: “Khoản tiền bồi thường
thiệt hại gây ra bởi hành vi vi phạm do bất cứ bên nào gây ra đều có thể được thỏa
thuận ấn định trước trong hợp đồng nhưng phải được thỏa thuận một cách tương xứng
với thiệt hại dự đoán sẽ xảy ra hoặc thiệt hại thực tế xảy ra trong hồn cảnh khó
chứng minh thiệt hại. Điều khoản sẽ bị coi là không thể được thi hành với tư cách là
phạt vi phạm vì trái với chính sách công nếu khoản tiền được thỏa thuận cao quá mức
một cách vơ lý”4. Có thể thấy, quy định về LDs trong Bộ Pháp điển hóa về hợp đồng
xuất bản lần thứ hai tương đồng phần lớn với quy định trong U.C.C. với một vài điểm
khác biệt.

Bộ pháp điển hóa lần thứ hai vẫn giữ nguyên hai yếu tố tiên quyết để thi hành
điều khoản LDs là sự hợp lý của thiệt hại dự đốn hoặc tính tương xứng với thiệt hại
thực tế và tính khó xác định của thiệt hại. Tuy nhiên, Bộ pháp điển hóa lần hai đã loại
bỏ đi phần “các biện pháp cần thiết khác” bởi vì các biện pháp này cũng chỉ là cách
nói khác của việc gặp khó khăn trong việc chứng minh thiệt hại đồng thời Tòa án cũng
chưa bao giờ căn cứ vào phần này của quy định trên thực tế.

Đồng thời, Bộ Pháp điển hóa lần hai cũng đã bổ sung thêm “chính sách cơng”
(public policy) là nguyên nhân khiến cho điều khoản LDs khi bị coi là phạt vi phạm
(do cao quá mức so với thiệt hại thực tế). Theo Viện thông tin pháp luật của Trường
Đại học Luật Cornell Hoa Kỳ5 thì chính sách cơng theo nghĩa pháp lý chính là cơ sở để
làm vô hiệu hợp đồng hoặc các giao dịch khác nếu như hợp đồng hoặc giao dịch khác
đó làm ảnh hưởng đến lợi ích cơng cộng. Quy định này trùng với quan điểm của các
nước theo truyền thống Common law vì phạt vi phạm ảnh hưởng đến địa vị của các


3 Article 2-718(1) U.C.C. truy cập 17/11/2023
4 Section 356 of The Restatement (Second) of Contracts.
/>ifficulties%20of%20proof%20of%20loss. Truy cập 17/11/2023
5 truy cập ngày 17/11/2023.

3

bên trong hợp đồng, làm lợi bất chính cho một bên và sâu xa hơn nữa là ảnh hưởng
đến nền kinh tế của quốc gia.

Như vậy, trên thực tế cả ba văn bản đều có hiệu lực và các thẩm phán hay trọng
tài khác nhau vẫn tùy nghi lựa chọn giữa ba văn bản này để giải quyết các vụ tranh
chấp liên quan đến điều khoản thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính trong hợp đồng
thương mại ở Mỹ.

Có thể thấy, pháp luật Mỹ đã đưa ra những quy định rõ ràng và có ích trực tiếp
cho khâu giải quyết tranh chấp của thẩm phán. Các tiêu chí như khoản tiền thiệt hại
phải phù hợp vì mục đích bồi thường cũng như thiệt hại thực tế phải khó chứng minh
đều có tính chất định hướng cho thẩm phán giúp dễ dàng áp dụng trên thực tế. Khơng
những vậy, ta cũng có thể thấy quy định về LDs theo pháp luật Mỹ linh hoạt rất nhiều
so với các quy định tại các nước theo truyền thống thơng luật bởi thẩm phán có quyền
tự do giải thích quy định về LDs sao cho phù hợp với vụ tranh chấp và lợi ích của các
bên (trong khi các nước dân luật thường đặt ra một mức giới hạn trên về khoản tiền bồi
thường mà các bên được phép thỏa thuận).

Tuy nhiên, việc có ba văn bản pháp luật mà thẩm phán có thể lựa chọn viện
dẫn, đã gây ra sự không đồng nhất trong khâu áp dụng pháp luật trên thực tế, dẫn đến
có nhiều vụ kiện tụng kéo dài và gây nhiều tốn kém cho các bên. Không những vậy,
ngôn ngữ trong quy định của Bộ Pháp điển hóa về hợp đồng cũng như Bộ Luật thương
mại thống nhất vẫn còn nhiều lỗ hổng để thẩm phán phải tự mình giải thích như: thời

điểm xem xét tính khó chứng minh của thiệt hại và mục đích của các bên khi thỏa
thuận điều khoản LDs. Bên cạnh đó, việc một số Tòa xác định thời điểm xem xét tính
khó chứng minh của thiệt hại tại thời điểm xét xử mà không phải là tại thời điểm các
bên giao kết hợp đồng cũng vơ hình trung xâm phạm đến nguyên tắc tự do thỏa thuận
của các bên, đồng thời cũng trái với tinh thần của quy định tại U.C.C..

1.2. Pháp luật Cộng hòa Pháp
Điều khoản về thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính ở Pháp được quy định
chủ yếu tại Bộ Luật Dân sự của Napoleon (Luật thương mại Pháp không quy định về
vấn đề này). Trải qua hơn 2 thế kỷ và 10 bản Hiến pháp, người dân của Pháp vẫn sử
dụng Bộ Luật Dân sự của Napoleon từ năm 1804 cho đến nay. Trong số đó, các điều
luật quy định trực tiếp liên quan điều khoản thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính
bao gồm Điều 1152 và các Điều từ 1226 đến 1233.
Tuy nhiên, quy định về điều khoản thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính
khơng thực sự rõ ràng vì pháp luật quốc gia này khơng đặt ra ranh giới rõ ràng giữa

4

phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại ước tính6. Cụ thể, điều khoản về phạt vi phạm ở
Pháp (clause pénale) là một điều khoản hết sức đặc biệt bởi vì điều khoản này có sự
“lưỡng tính” trong việc đáp ứng hai mục đích khác nhau7. Một mặt, quy định của Bộ
Luật Dân sự Pháp cho phép điều khoản này đóng vai trị là một biện pháp bảo đảm
thực hiện hợp đồng dưới dạng phạt vi phạm bằng việc răn đe đối phương khởi việc vi
phạm, mặt khác lại đóng vai trị như một điều khoản ước tính một số tiền phải trả trong
trường hợp có hành vi vi phạm hợp đồng. Các nhà nghiên cứu ở Pháp cũng như trên
thế giới chỉ ra rằng quy định của Pháp về điều khoản này vừa là phạt vi phạm vừa là
bồi thường thiệt hại ước tính8.

Trước hết, Điều 1226 Bộ Luật Dân sự Pháp quy định: “Phạt vi phạm là điều
khoản mà một bên chấp nhận chịu trả một khoản tiền phạt trong trường hợp vi phạm

hợp đồng nhằm đảm bảo nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện đúng theo thỏa
thuận”9. Quy định này có thể hiểu rằng điều khoản này là một cơng cụ để ép buộc bên
có nghĩa vụ phải thực hiện đúng theo thỏa thuận, hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận.
Có thể thấy mục đích này trùng khớp với quan niệm của phần lớn các quốc gia về vấn
đề phạt vi phạm. Hơn nữa, đi kèm theo quy định này, các Điều từ 1227 đến 1233 của
Bộ Luật Dân sự Pháp quy định về các vấn đề như: tính độc lập của điều khoản phạt vi
phạm đối với hợp đồng; nghĩa vụ thông báo phạt vi phạm; mối quan hệ giữa chế tài
phạt vi phạm và các biện pháp, chế tài khác; việc thực hiện điều khoản phạt vi phạm
trong một số trường hợp đặc biệt… Những quy định này tương đối phổ biến ở các
quốc gia thừa nhận phạt vi phạm để đảm bảo cho chế tài này hoạt động hợp pháp trên
thực tế.

Tuy nhiên, đoạn một Điều 1229 của Bộ Luật Dân sự Pháp quy định: “Điều
khoản phạt vi phạm là sự bồi thường cho thiệt hại mà bên bị vi phạm phải chịu cho
việc vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng […]10”. Như vậy, Bộ Luật Dân sự cũng
cho phép các bên thỏa thuận điều khoản phạt vi phạm với mục đích bồi thường thiệt
hại trong trường hợp có hành vi vi phạm gây thiệt hại. Thêm vào đó, Điều 1152 của
Bộ Luật Dân sự Pháp có quy định: “Trong trường hợp các bên có thỏa thuận bên vi
phạm phải trả một khoản tiền với tư cách tiền bồi thường thiệt hại, bên bị vi phạm sẽ
được nhận một khoản tiền không lớn hơn hoặc bé hơn so với khoản tiền đã thỏa

6 Michel Cannarsa (2015), Contractual Penalties in French Law, European Review of Private Law 3, 2015, tr.
297
7 Lucinda Miller (2004), Penalty Clauses in England and France: A Comparative Study, Cambridge University
Press, 2004, tr. 85
8 Lucinda Miller (2004), tlđd, tr. 85.
9 Article 1226 of the French Civil Code: “A penalty is a clause by which a person, in order to ensure
performance of an agreement, binds himself to something in case of non-performance”.
10 Article 1229 of the French Civil Code: “A penalty clause is a compensation for damages which the creditor
suffers from the non-performance of the principal obligation”


5

thuận” và đã vơ hình trung biến điều khoản phạt vi phạm của quốc gia này thành điều
khoản thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính.

Do đó, quy định về thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính ở Pháp có tồn tại,
tuy nhiên lại được quy định dưới cái tên là phạt vi phạm và có đầy đủ đặc tính của phạt
vi phạm. Bởi vậy, các nhà nghiên cứu cho rằng điều khoản thỏa thuận bồi thường thiệt
hại ước tính ở Pháp có tính “lưỡng tính” (Hybrid) vừa phục vụ mục đích bồi thường
thiệt hại nhưng cũng vừa có tính răn đe, phòng ngừa vi phạm.

Số lượng hợp đồng có sử dụng điều khoản phạt vi phạm/bồi thường thiệt hại
ước tính này ở Pháp là rất nhiều như (hợp đồng mua bán, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng
xây dựng, hợp đồng tín dụng, hợp đồng vận chuyện…) và phần lớn các trường hợp áp
dụng điều khoản này thiệt hại thực tế đều rất khó xác định và rõ ràng để các bên có thể
chứng minh11. Trên thực tế khi các bên thỏa thuận về điều khoản bồi thường thiệt hại
ước tính, Tịa án sẽ có xu hướng áp dụng Điều 1152 về một khoản tiền phải trả theo
thỏa thuận nếu có vi phạm hợp đồng thay vì các Điều 1226 đến Điều 1233 về phạt vi
phạm. Mặc dù về mặt lý luận điều khoản phạt vi phạm cũng vừa có chức năng bồi
thường thiệt hại ước tính, Tịa án Pháp vẫn đặt nặng việc phân loại điều khoản của các
bên trong hợp đồng là phạt vi phạm hay là LDs. Nguyên nhân nằm ở chỗ Tịa án sẽ có
xu hướng điều chỉnh khoản tiền được theo thỏa thuận nhiều hơn nếu điều khoản đó là
phạt vi phạm so với việc điều khoản đó là thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính.

Việc cho phép thẩm phán được quyền điều chỉnh khoản tiền mà các bên đã thỏa
thuận trong hợp đồng được các học giả cho là đi ngược lại nguyên tắc tôn trọng thỏa
thuận của các bên trong giao dịch dân sự cũng như hợp đồng thương mại.

Như vậy, từ áp dụng pháp luật của cơ quan giải quyết tranh chấp có thẩm quyền

đến sử dụng pháp luật của các bên trong hợp đồng thương mại, việc các bên thỏa thuận
về một khoản tiền bồi thường thiệt hại ước tính thì vơ hình trung pháp luật điều chỉnh
ở Pháp trong trường hợp này sẽ là các quy định pháp luật về phạt vi phạm như đã trình
bày và phân tích ở trên. Nói cách khác, tùy theo mục đích của các bên, phạt vi phạm ở
Pháp cũng là thỏa thuận về bồi thường thiệt hại ước tính trong hợp đồng thương mại.

Về ưu điểm, pháp luật Pháp đã có căn cứ pháp lý để hợp pháp hóa điều khoản
thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính trước trong hợp đồng thương mại đồng thời
cũng quy định đầy đủ các vấn đề kéo theo như căn cứ áp dụng, hậu quả pháp lý và mối
quan hệ với các chế tài khác.

Không những vậy, Bộ Luật Dân sự Pháp cũng quy định tỉ mỉ và cụ thể vai trò
của Thẩm phán hay cơ quan xét xử trong việc tăng hoặc giảm điều khoản thiệt hại ước
tính để đảm bảo cho tính cơng bằng trong khi vẫn đảm bảo được lợi ích của các bên.

11 Michel Cannarsa (2015), tlđd, tr.301

6

Đồng thời, Pháp cũng đã đặt ra nguyên tắc rõ ràng để phân biệt giữa điều khoản LDs
và điều khoản phạt vi phạm phần nào thuận lợi cho khâu áp dụng pháp luật giải quyết
tranh chấp cũng như giúp các bên nắm được đặc điểm của điều khoản này để thỏa
thuận trong bối cảnh giao dịch thương mại.

Tuy nhiên, pháp luật Pháp không tách riêng quy định pháp luật về phạt vi phạm
và thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính gây ra nhiều vấn đề trong khâu áp dụng
pháp luật của cơ quan nhà nước và sử dụng pháp luật của các chủ thể trong kinh doanh
thương mại. Mặc dù đặc điểm của các quốc gia theo truyền thống Civil law là có xu
hướng nhập chung hai khái niệm phạt vi phạm và LDs, việc quy định chung cả hai
điều khoản vào trong cùng một điều luật sẽ dẫn đến các cách giải thích pháp luật khác

nhau dẫn đến sự khơng đồng nhất trong việc áp dụng pháp luật trên thực tế.

1.3. Pháp luật Trung Quốc
Pháp luật về thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính trong hợp đồng nói chung
và hợp đồng thương mại nói riêng ở Trung Quốc được quy định tại Bộ Luật Dân sự
Trung Quốc. Bộ Luật này sau khi trải qua bốn lần trì hỗn kể từ năm 1954 thì vào
ngày 28 tháng 05 năm 2020, Quốc hội Trung Hoa đã thơng qua và bắt đầu có hiệu lực
kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021. Đây là thành quả của q trình pháp điển hóa và kết
hợp tất cả các quy định của các văn bản luật khác như Luật Hôn nhân, Luật Thừa kế,
Luật Hợp đồng, Luật tài sản, Luật Bảo đảm, Luật Vi phạm… thành một Bộ Luật Dân
sự đồ sộ với 1260 Điều. Trong đó, quy định về điều khoản LDs được ghi nhận tại Điều
585 của Bộ Luật Dân sự Trung Quốc 2021 (trước khi pháp điển hóa là Điều 114 Luật
Hợp đồng) như sau:

“Các bên trong hợp đồng có thể thỏa thuận với nhau trong trường hợp một bên
vi phạm, bên đó sẽ phải trả một khoản tiền thiệt hại ước tính cho bên bị thiệt hại dựa
trên bối cảnh của sự vi phạm, hoặc các bên cũng có thể thỏa thuận với nhau về cách
thức tính tốn khoản tiền bồi thường thiệt hại gây ra do hành vi vi phạm.

Trong trường hợp khoản tiền bồi thường thiệt hại ước tính thấp hơn với thiệt
hại gây ra, Tịa án nhân dân hoặc cơ quan trọng tài được phép tăng khoản tiền đó lên
theo yêu cầu của các bên. Trong trường hợp khoản tiền bồi thường thiệt hại ước tính
cao q mức so với thiệt hại gây ra, Tịa án nhân dân hoặc cơ quan trọng tài có quyền
giảm một cách hợp lý khoản tiền đó theo yêu cầu của các bên.

Trong trường hợp các bên có thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính cho việc
chậm thực hiện nghĩa vụ, bên vi phạm vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ sau khi đã
trả khoản tiền thiệt hại ước tính”12.

12 Article 585 – Chinese Civil Code 2021. />Code_Eng_July-2021-version.pdf truy cập 17/11/2023


7

Có thể nhận thấy rằng Trung Quốc có quy định cụ thể và rõ ràng về điều khoản
này, sử dụng cụ thể cụm từ “Wéiyuē jīn” (liquidated damages) để mô tả điều khoản
này. Khác với Pháp, Trung Quốc không quy định điều khoản LDs trùng với điều
khoản phạt vi phạm mà có quy định riêng cho điều khoản này. Nguyên nhân có thể
nằm ở chỗ Bộ Luật Dân sự Trung Quốc mới được ban hành năm 2021, vốn dĩ đã bắt
kịp được xu hướng thỏa thuận điều khoản thiệt hại ước tính trước trong bối cảnh
thương mại. Tuy nhiên, điều khoản LDs ở Trung Quốc cũng được coi là một biện pháp
nhằm trừng phạt bên vi phạm hợp đồng13.

Theo đó, Trung Quốc có thừa nhận cho phép các bên thỏa thuận về một khoản
tiền bồi thường thiệt hại ước tính. Khi giải quyết tranh chấp, cơ quan xét xử sẽ so sánh
khoản tiền ước tính với “thiệt hại thực tế gây ra” (the loss caused) căn cứ trên phạm vi
bồi thường thiệt hại (scope of loss) được quy định tại Điều 584 Bộ Luật Dân sự Trung
Quốc14. Cụ thể, thiệt hại thực tế gây ra phải bao gồm thiệt hại thực tế trực tiếp tạo ra
bởi hành vi vi phạm hợp đồng và lợi ích kèm theo nếu như hợp đồng được thực hiện
đúng (lợi ích trong tương lai)15. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng lợi ích trong tương lai đến
từ việc hợp đồng được thực hiện đúng chỉ giới hạn ở trong khả năng nhận thức của các
bên tại thời điểm giao kết hợp đồng. Nói cách khác, các bên cần phải thấy được hoặc
có nghĩa vụ phải thấy được lợi ích trong tương lai gây ra bởi hành vi thiệt hại thì Tịa
án mới coi đó là cơ sở để thiệt hại đó được bồi thường. Sau khi xác định được khoản
“thiệt hại thực tế gây ra”, cơ quan giải quyết tranh chấp sẽ tiến hành so sánh với khoản
tiền thiệt hại ước tính trong trường hợp các bên u cầu Tịa án tăng hoặc giảm khoản
tiền này.

Bên cạnh đó, Điều 28 của “Nguyên tắc giải thích pháp luật hợp đồng phần II”16
do Tịa án nhân dân tối cao ban hành quy định trong trường hợp các bên yêu cầu tăng
khoản tiền bồi thường thiệt hại ước tính thì khoản tiền đó cũng khơng được vượt quá

thiệt hại thực tế. Đồng thời, bên bị vi phạm khi đã yêu cầu bên vi phạm thanh tốn
khoản tiền thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính thì mất quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hại thực tế. Tuy nhiên cũng có trường hợp Tịa án coi u cầu tăng khoản tiền bồi
thường thiệt hại của các bên là yêu cầu Tòa án buộc bên vi phạm phải bồi thường thiệt
hại thực tế dẫn đến tình trạng áp dụng cả việc bồi thường thiệt hại ước tính theo thỏa
thuận về chế tài bồi thường thiệt hại theo hợp đồng.

13 Truy cập ngày 17/11/2023
14 Biên bản Hội nghị cơng tác tồn quốc về qn triệt thi hành Bộ Luật Dân sự của Tòa án, ban hành bởi Tòa án
nhân dân tối cao Trung Hoa tháng 4/2021.
15 Article 584 – Chinese Civil Code 2021. />Code_Eng_July-2021-version.pdf truy cập 17/11/2023
16 Judicial Interpretation of the Contract Law (II)".

8

Về ưu điểm, Trung Quốc đã có quy định cụ thể điều chỉnh về điều khoản LDs
cho phép các bên trong giao dịch thương mại có hành lang pháp lý cần thiết để phân
bổ rủi ro, đưa ra một khoản tiền phù hợp trong trường hợp có bên vi phạm hợp đồng.
Đồng thời, pháp luật Trung Quốc cũng không nhập chung khái niệm phạt vi phạm vào
với thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính như pháp luật Pháp giúp tránh phức tạp
hóa khâu áp dụng pháp luật. Khơng những vậy, Bộ Luật Dân sự Trung Quốc cũng quy
định rõ về cách thức mà các bên có thể thỏa thuận khoản tiền này nhằm tạo cơ sở cho
cơ quan giải quyết tranh chấp có thể sử dụng để phân xử tính hợp lý của khoản tiền
được ước tính. Bên cạnh đó, thơng qua hướng dẫn của Tòa án tối cao, pháp luật Trung
Quốc cũng đã điều chỉnh về vấn đề khoản tiền ước tính như thế nào thì bị coi là cao
“q mức” bằng cách đưa ra các yếu tố về chất (bối cảnh thực hiện hợp đồng, lẽ công
bằng cũng như thiện chí của các bên) và yếu tố về lượng (không được vượt quá 30%
so với thiệt hại thực tế) để cơ quan xét xử cũng như các bên nắm rõ được tinh thần của
điều khoản LDs, tránh gây ra những phiền hà trong khâu xác định việc có hay không
cho thi hành điều khoản này.


Tuy nhiên, pháp luật Trung Quốc về điều khoản bồi thường thiệt hại ước tính
vẫn yêu cầu phải có khâu tính tốn thiệt hại thực tế để có thể thi hành được điều khoản
này. Trên thực tế, sở dĩ các bên lựa chọn thỏa thuận điều khoản LDs vì đặc điểm thiệt
hại xảy ra do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên rất khó xác định và chứng minh
để làm cơ sở cho chế tài bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, khi có yêu cầu về việc tăng
hoặc giảm khoản tiền thiệt hại ước tính của các bên, cơ quan xét xử vẫn phải xác định
cụ thể thiệt hại thực tế xảy ra để so sánh gây mất thời gian và tốn kém chi phí. Bên
cạnh đó, pháp luật Trung Quốc cũng chưa đặt nặng vấn đề cơng thức tính tốn của các
bên trong việc ước tính thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra mặc dù có quy định rằng
các bên có thể thỏa thuận thơng qua cơng thức tính tốn rõ ràng.

1.4. Một số điều ước quốc tế
Trong phạm vi quốc tế, các điều ước quốc tế đa phương được đàm phán và kí
kết bởi các quốc gia thành viên cũng quy định các vấn đề liên quan đến bồi thường
thiệt hại ước tính trong bối cảnh thương mại quốc tế. Các điều ước quốc tế này thường
quy định cơ bản, nền tảng và chung nhất về điều khoản này để tránh xung đột với pháp
luật quốc gia. Ví dụ như Cơng ước Viên (CISG) 1980 đã khơng bao gồm điều khoản
LDs vì nhận thấy pháp luật các quốc gia về vấn đề bồi thường thiệt hại ước tính trong
mua bán hàng hóa quốc tế rất đa dạng và tương đối khác biệt17.

17 UNCITRAL, Digest of Case Law on the United Nations Convention on Contracts for the International Sale of
Goods, 2016, tr. 25

9

Đối với Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế UNIDROIT (PICC) 2016 và
Bộ nguyên tắc của Luật hợp đồng châu Âu PECL, các điều ước quốc tế này cũng
không quy định cụ thể về LDs mà lồng ghép nó trong một chế tài cho việc không thực
hiện hợp đồng thương mại quốc tế18 và theo đó bên khơng thực hiện hợp đồng phải trả

cho bên bị vi phạm một khoản tiền theo thỏa thuận trong hợp đồng mà khơng cần tính
đến thiệt hại xảy ra trên thực tế.

Khi giải quyết tranh chấp, tòa án, trọng tài, hòa giải viên cũng như các bên phải
căn cứ vào điều khoản bồi thường thiệt hại ấn định trước được các bên thỏa thuận
trong hợp đồng. Chỉ khi điều khoản LDs đó trái với nguyên tắc chung, quy định của
pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế thì cơ quan giải quyết tranh chấp có thẩm
quyền mới xem xét đến tính có hiệu lực của điều khoản này. Tùy từng tranh chấp, LDs
có thể bị Tịa án các quốc gia cho vơ hiệu vì những lý do khác nhau. Chẳng hạn như ở
Mỹ, nếu như LDs bị coi là phạt vi phạm thì sẽ bị vơ hiệu, hoặc như ở Việt Nam cũng
không thừa nhận LDs vì nguyên tắc bồi thường thiệt hại thực tế. Đồng thời, LDs cũng
có hiệu lực bình thường gắn liền với hợp đồng, do đó nếu hợp đồng bị vơ hiệu do các
lý do bị lừa dối, cưỡng ép, nhầm lẫn, khơng có năng lực hành vi thì điều khoản LDs
cũng vô hiệu. Do quan điểm của các nhà lập pháp giữa các quốc gia là khác nhau nên
việc điều khoản bồi thường thiệt hại ước tính trong thương mại quốc tế thường xuyên
xảy ra tranh chấp.

2. Tổng kết về thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính trong hợp đồng
thương mại

Qua việc nghiên cứu pháp luật một số quốc gia trên thế giới, có thể thấy thỏa
thuận bồi thường thiệt hại ước tính là một điều khoản trong hợp đồng do các bên thỏa
thuận như một biện pháp nhằm bảo vệ cho bên bị vi phạm trong hợp đồng trong
trường hợp thiệt hại trên thực tế khó chứng minh. Đồng thời, việc xem xét hiệu lực thi
hành của điều khoản này được đặt trong mối tương quan với điều khoản phạt vi phạm
trong hợp đồng, vốn là một đặc điểm quan trọng đối với các nước theo truyền thống
Common law.

Theo từ điển luật học Black’s Law Dictionary, thỏa thuận bồi thường thiệt hại
ước tính được định nghĩa là: “Là một loại bồi thường thiệt hại bằng tiền cho bên bị vi

phạm được thỏa thuận trong hợp đồng giữa các bên trong trường hợp có vi phạm hợp
đồng. Điều khoản phải chỉ rõ hành động nào hoặc việc không hành động nào cấu
thành một vi phạm hợp đồng. Để điều khoản có thể được ràng buộc thi hành, khoản

18ARTICLE 7.4.13 (Agreed payment for non-performance) (PICC).
truy cập 14/11/2023
ARTICLE 9:509: (Agreed Payment for Non-Performance) (PECL)
/>truy cập 13/11/2023

10

tiền bồi thường phải hợp lý và khó xác định được trên thực tế. Nếu khơng, Tịa án có
thể coi khoản tiền phải trả đó là phạt vi phạm dưới dạng chế tài tài chính trong hợp
đồng để buộc thực hiện nghĩa vụ chứ không phải biện pháp bồi thường thiệt hại”19.

Cụ thể, ở các nước theo hệ thống commom law, điều khoản phạt vi phạm khơng
được Tịa án cho phép ràng buộc thi hành và bị coi như là vô hiệu. Do đó, điều khoản
bồi thường thiệt hại ước tính trong hợp đồng nếu không muốn bị vô hiệu cần phải thỏa
mãn một số các điều kiện để không bị xác định như một hình phạt dành cho bên vi
phạm. Trong khi đó, theo quan điểm của một số nước theo truyền thống Civil law, điển
hình như Pháp, điều khoản bồi thường thiệt hại ước tính lại khơng có sự phân biệt rõ
ràng với điều khoản phạt vi phạm20.

Ở Việt Nam, định nghĩa của thỏa thuận bồi thường thiệt hại ấn định trước chưa
được các nhà nghiên cứu thống nhất. Đồng thời pháp luật Việt Nam cũng không đưa ra
định nghĩa cho điều khoản này do nhiều lý do khác nhau. Pháp luật Việt Nam chỉ quy
định cụ thể về chế tài bồi thường thiệt hại đối với những thiệt hại thực tế. Điều 13 Bộ
luật dân sự năm 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm
được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật
có quy định khác”. Điều 360 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về trách nhiệm bồi

thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ: “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường tồn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Quy định này được hiểu: Bên vi phạm nghĩa
vụ, mà hành vi vi phạm gây thiệt hại cho bên kia, thì phải có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại. Trừ khi các bên có thỏa thuận khác, hoặc luật có quy định khác. Điều 302
Luật Thương mại năm 2005 quy định về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
thương mại, theo đó Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn
thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt
hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi
phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu khơng
có hành vi vi phạm. Như vậy, lý do chủ yếu nằm ở việc pháp luật Việt Nam chỉ thừa
nhận thiệt hại thực tế và bồi thường dựa theo đó.

Tóm lại, thỏa thuận về bồi thường thiệt hại ước tính được hiểu là “Sự dàn xếp
của các bên về một khoản tiền cố định được thỏa thuận trước bởi các bên trong hợp
đồng được trả cho bên bị vi phạm bởi bên vi phạm hợp đồng”. Đồng thời, các tên gọi
như thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính, điều khoản bồi thường thiệt hại ước tính,

19 Truy cập ngày 12/11/2023
20 />europe# Truy cập ngày 13/11/2023

11

bồi thường thiệt hại ấn định trước, điều khoản LDs (liquidated damages) đều được sử
dụng để chỉ thỏa thuận này.

Thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính có một số đặc điểm pháp lý sau, để
thấy rõ sự khác biệt so với các loại chế tài khác trong hợp đồng thương mại.

(i) Thỏa thuận về bồi thường thiệt hại ước tính trong hợp đồng thương mại là

chế tài gắn liền với tiền

Bồi thường thiệt hại ấn định trước có thể được coi là một chế tài bằng tiền trong
hợp đồng thương mại giống như phạt vi phạm, phạt cọc hoặc bồi thường thiệt hại.
Khác với chế tài không gắn liền với tiền như buộc thực hiện đúng hợp đồng hoặc hủy
bỏ hợp đồng, LDs luôn gắn liền với một khoản tiền thiệt hại và theo pháp luật các
nước cần thiết phải có sự tính tốn và tiên liệu kỹ càng để khoản tiền này tương ứng
với mức thiệt hại thực tế nếu có vi phạm hợp đồng. Tại các nước theo truyền thống
pháp luật Common Law, sự tính tốn và tiên liệu kỹ càng khoản tiền bồi thường thiệt
hại ấn định trước thường được thể hiện qua các cơng thức tính tốn gắn liền với thời
gian và các nghĩa vụ cụ thể trong hợp đồng. Chẳng hạn như: “Trong trường hợp có sự
chậm trễ trong việc hồn thành dự án cơng trình X, bên thi cơng xây dựng phải trả
một khoản tiền bồi thường đã được ấn định bằng [a] đô la hoặc [b] phần trăm giá trị
hợp đồng cho mỗi ngày chậm trễ. Các bên thừa nhận rằng khoản tiền thiệt hại được
thỏa thuận trong hợp đồng này hồn tồn nhằm mục đích ước tính thiệt hại có thể xảy
ra đối với chủ sở hữu cơng trình và nhằm đền bù cho số ngày chậm trễ. Việc chậm trễ
do nguyên nhân là sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi của chủ sở hữu sẽ khơng được
tính vào số ngày chậm trễ để tính khoản tiền bồi thường thiệt hại ước tính”21

(ii) Thỏa thuận về bồi thường thiệt hại ước tính trong hợp đồng thương mại có
mục đích bù đắp, đền bù tổn thất cho bên bị vi phạm trong hợp đồng

LDs được thỏa thuận nhằm đền bù cho bên bị vi phạm, đưa bên bị vi phạm trở
lại vị trí ban đầu như trường hợp bên vi phạm thực hiện đúng theo hợp đồng. Việc xem
xét yếu tố mục đích của điều khoản LDs trong hợp đồng quan trọng đến mức mà pháp
luật của các nước theo truyền thống Common law đặt lên hàng đầu khi giải quyết tranh
chấp về điều khoản này. Ví dụ như Điều 339(1)(a) của Bộ pháp điển hóa về hợp
đồng xuất bản lần thứ nhất (Restatement of (first) Contract) của Mỹ kiểm tra “ý
định của các bên” (intent of the parties), yêu cầu khoản tiền thiệt hại phải là “dự đoán
hợp lý chỉ nhằm để bồi thường cho thiệt hại do hành vi vi phạm”. Ở Anh, để xem xét

mục đích của các bên khi thỏa thuận LDs là bồi thường hay để trừng phạt bên vi phạm,
Thẩm phán Dunedin đã tạo ra bài kiểm tra gồm bốn bước mang tên Dunlop Test.

21 Truy cập ngày
14/11/2023.

12

Trong quá trình giải quyết tranh chấp liên quan đến điều khoản LDs ở các nước này,
việc xác định yếu tố mục đích ln ln được đặt ra bởi Thẩm phán xét xử phiên tòa22.

Trong khi đó đối với các nước theo truyền thống Civil law thì yếu tố mục đích
lại khơng được đặt lên hàng đầu vì các quốc gia này có xu hướng gộp chung điều
khoản bồi thường thiệt hại ấn định trước với phạt vi phạm thành cùng một điều luật.
Tuy nhiên, trong quá trình lập pháp cũng như trên các diễn đàn thảo luận pháp luật của
các quốc gia này thường xuyên bàn luận về vấn đề nên coi LDs là bồi thường thiệt hại
hay phạt vi phạm23. Cụ thể hơn nữa, vấn đề mục đích của điều khoản là yếu tố được
cân nhắc nhiều nhất để phân loại điều khoản này trong hệ thống các chế tài trong hợp
đồng thương mại.

Mặc dù tên điều khoản là bồi thường thiệt hại ước tính nhưng trên thực tế có rất
nhiều trường hợp mục đích thực sự của các bên trong hợp đồng lại là nhằm phòng
ngừa, răn đe một bên khỏi việc vi phạm hợp đồng. Không những vậy, điều khoản này
cũng có thể được sử dụng như một biện pháp trừng phạt bên vi phạm nếu như một bên
trong hợp đồng có ưu thế hơn so với bên cịn lại (về mặt kinh tế, địa vị pháp lý, nắm
giữ bí mật kinh doanh…). Do đó, điều khoản thiệt hại ước tính mà khơng có mục đích
đơn thuần là bồi thường cho tổn thất gây ra bởi hành vi vi phạm thì sẽ được coi là phạt
vi phạm. Bởi vậy, các nước theo truyền thống Common law sẽ ngay lập tức cho vơ
hiệu điều khoản này vì phạt vi phạm là một điều khoản không được cho phép thi hành.
Trong khi đó, đối với các nước Civil law, đa số pháp luật các nước này sẽ cho phép

thẩm phán điều chỉnh khoản tiền bồi thường theo thỏa thuận tương xứng với thiệt hại
thực tế để đảm bảo được mục đích ban đầu khi các bên đàm phán điều khoản này.

(iii) Thỏa thuận về bồi thường thiệt hại ước tính khơng dựa trên thiệt hại thực tế
mà được các bên thỏa thuận khi thiệt hại thực tế khó chứng minh và khó xác định

Điều khoản bồi thường thiệt hại ước tính khơng căn cứ trên thiệt hại thực tế mà
dựa hồn tồn trên sự ước tính và dự đốn của các bên trong q trình giao kết hợp
đồng. Việc ước tính này có thể dựa trên kinh nghiệm của các bên trong ngành, nghề,
lĩnh vực kinh doanh, quy định của pháp luật, giá trị của thiệt hại gây ra do hành vi vi
phạm… Thông thường, khoản tiền bồi thường được các bên thỏa thuận sẽ được tính
dựa trên một cơng thức cụ thể và lơ-gíc để trong trường hợp xảy ra tranh chấp thì cơ
quan có thẩm quyền có thể căn cứ vào cơng thức đó để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của bên bị vi phạm. Tùy thuộc vào nội dung và mục đích của hợp đồng mà cơng thức
để tính tốn khoản tiền này cũng khác nhau.

22 Susan V. Ferris, Liquidated Damages Recovery Under the Restatement (Second) of Contracts, Cornell Law
Review, 1982, tr. 867
23 />damages.html. Truy cập ngày 13/11/2023

13

Không những vậy, điều khoản thiệt hại ước tính cũng là một điều khoản được
các bên sử dụng trong trường hợp hành vi vi phạm hợp đồng sẽ gây ra thiệt hại thực tế
khó xác định. Theo Luật sư Trương Nhật Quang, thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước
tính rất thơng dụng trong các hợp đồng thương mại có tác dụng phân bố rủi ro trong
một số sự kiện cụ thể24. Các sự kiện đó theo luật sư có thể kể đến như: việc cam kết
không thực hiện một công việc nào đó (chống cạnh tranh, khơng lơi kéo, khơng để lộ
bí mật kinh doanh…); việc bảo đảm một sự vật, hiện tượng, hoạt động, hành vi nào đó
là đúng sự thật (điều lệ công ty đúng theo pháp luật, công ty đã nộp thuế đầy đủ…);

phân bổ rủi ro trong trường hợp có sự kiện nằm ngồi sự điều khiển của các bên (chi
phí cho th mặt bằng tăng, có thuế áp dụng, pháp luật thay đổi…). Các rủi ro nêu trên
nếu một trong các bên vi phạm đều có một đặc điểm chung là rất khó xác định và nếu
thiệt hại thực sự xảy ra sẽ rất khó có thể quy trách nhiệm cho bên vi phạm.

Với đặc điểm điều khoản LDs khơng dựa trên thiệt hại thực tế, điều khoản này
hồn tồn có thể được các bên sử dụng trong trường hợp thiệt hại xảy ra bởi hành vi vi
phạm khó xác định. Dựa trên một công thức hợp lý và nguyên tắc tự do thỏa thuận
giữa các bên, điều khoản LDs sẽ giúp cho các bên tiết kiệm thời gian cũng như chi phí
xác định thiệt hại, đồng thời giúp cho bên bị vi phạm không phải thực hiện công việc
chứng minh thiệt hại vốn là một công việc rất nan giải trong những trường hợp buộc
phải sử dụng LDs.

Kết luận
Trong khuôn khổ bài nghiên cứu, tác giả trình bày pháp luật các quốc gia trong
hệ thống pháp luật Common law và Civil law về điều khoản/thỏa thuân bồi thường
thiệt hại ước tính. Đồng thời là cách xử lý mang tính hài hịa, nhiều lựa chọn về điều
khoản này trong một số điều ước quốc tế.
Do vậy, với quan điểm về điều khoản bồi thường thiệt hại ước tính khác biệt
giữa các quốc gia trên thế giới, với bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
trong mơi trường tồn cầu hóa thương mại quốc tế, pháp luật Việt Nam cần phải có
giải pháp ra sao để hài hòa quyền lợi của các bên trong hợp đồng thương mại quốc tế?
Trong bài nghiên cứu sau, tác giả đề xuất một số giải pháp xây dựng pháp luật về vấn
đề trên./.

24 Trương Nhật Quang (2021), Hiệu lực của thỏa thuận bồi thường thiệt hại ước tính, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 05.

14


Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Mạnh Dũng & Đặng Vũ Minh Hà, Thiệt hại ước tính – Liquidated
Damages. Truy cập ngày 12/11/2023
2. Lucinda Miller (2004), Penalty Clauses in England and France: A
Comparative Study, Cambridge University Press
3. Michel Cannarsa (2015), Contractual Penalties in French Law, European
Review of Private Law 3
4. Tòa án nhân dân tối cao Trung Hoa (2021), Biên bản Hội nghị cơng tác tồn
quốc về qn triệt thi hành Bộ Luật Dân sự của Tòa án, Trung Hoa, 4/2021.
5. Trương Nhật Quang (2020), Pháp luật Hợp đồng - Các vấn đề pháp lý cơ
bản, NXB Dân trí.
6. Trương Nhật Quang (2021), Hiệu lực của thỏa thuận bồi thường thiệt hại
ước tính, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 05.
7. Susan V. Ferris (1982), Liquidated Damages Recovery Under the
Restatement (Second) of Contracts, Cornell Law Review.
8. UNCITRAL, Digest of Case Law on the United Nations Convention on
Contracts for the International Sale of Goods, 2016, tr. 25
9. Truy cập ngày 25/01/2024
10. />motor-company-ltd-hl-1-jul-1914/ Truy cập 25/01/2024
11. />over-liquidated-damages-clauses-europe# Truy cập ngày 26/01/2024
12. />part-2-module-4-of-6 Truy cập ngày 26/01/2024
13. />international-legal-position-liquidated-damages.html. Truy cập ngày 27/01/2024
14. truy cập 27/01/2024
15. />0Restatement%20of%20Contracts,difficulties%20of%20proof%20of%20loss. Truy
cập 25/01/2024
16. truy cập ngày 25/01/2024
17. />2021-version.pdf truy cập 25/01/2024

15


18. />8212 Truy cập ngày 26/01/2024

19. />es2016-e.pdf truy cập 27/01/2024

20. />documents/Principles-of-European-Contract-Law.pdf truy cập 25/01/2024

16


×