Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận môn triết học quy luật lượng – chất và ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật này đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.34 KB, 24 trang )

TIỂU LUẬN

MÔN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN

TÊN TIỂU LUẬN:
QUY LUẬT LƯỢNG - CHẤT VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC
NGHIÊN CỨU QUY LUẬT NÀY ĐỐI VỚI NHẬN THỨC

VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TIẾN.

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài...................................................................1
3. Phạm vi nghiên cứu................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài.....................................................2
5. Đóng góp của đề tài................................................................................2
6. Kết cấu của đề tài...................................................................................2

NỘI DUNG.......................................................................................................3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.....................................................................3

1.1. Một số khái niệm cơ bản....................................................................3
1.1.1. Khái niệm về chất..............................................................................3
1.1.2. Khái niệm về lượng...........................................................................4

1.2. Nội dung quy luật................................................................................5
1.3.1. “Độ”..................................................................................................6
1.3.2. “Điểm nút”........................................................................................7
1.3.3. “Bước nhảy”......................................................................................7



1.4. Ý nghĩa phương pháp luận.................................................................8
CHƯƠNG 2. VÍ DỤ LIÊN HỆ THỰC TIỄN.............................................10

2.1. Quy luật lượng chất trong khoa học tự nhiên........................................10
2.2. Quy luật lượng chất trong quá trình học tập và rèn luyện phát triển năng
lực nhà giáo để thực hiện tốt chương trình giáo dục phổ thơng mới............11

2.2.1. Thực trạng năng lực của đội ngũ giáo viên phổ thông hiện nay trước
yêu cầu đổi mới giáo dục..........................................................................12
2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo viên..............................................16
KẾT LUẬN....................................................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................20

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong cuộc sống hằng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn màu muôn
vẻ, con người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp
lại của sự vật hiện tượng, từ đó hình thành khái niệm “quy luật”. Với tư cách
là phạm trù của lý luận nhận thức, khái niệm “quy luật” là sản phẩm của tư
duy khoa học phản ánh sự liên hệ của các sự vật, hiện tượng và tính chỉnh thể
của chúng.

Các quy luật của tự nhiên, xã hội cũng như của tư duy con người đều
mang tính khách quan. Con người khơng thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật
mà chỉ có thể nhận thức và vận dụng vào thực tế.


Quy luật “chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự
thay đổi về chất và ngược lại” là một trong ba quy luật của phép biện chứng
duy vật, nó cho biết phương thức của sự vận động và phát triển. Việc nhận
thức quy luật này có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn khi chúng ta xem xét các
sự vật, hiện tượng. Nếu nhận thức không đúng quy luật này dễ dẫn đến hiện
tượng “tả khuynh” hoặc “hữu khuynh”. “Tả khuynh” có thể hiểu là tư tưởng
chủ quan nóng vội, muốn sớm có sự thay đổi về lượng nhưng lại khơng tính
đến việc tích lũy về chất. “Hữu khuynh” là tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không
dám thực hiện “bước nhảy” (sự thay đổi về chất) khi đã có sự tích lũy đủ về
lượng.

Để nghiên cứu, tìm hiểu, em chọn đề tài: “Quy luật lượng – chất và ý
nghĩa của việc nghiên cứu quy luật này đối với nhận thức và hoạt động thực
tiễn” làm đề tài tiểu luận.

2. Mục đích nghiên cứu đề tài

Trên cơ sở nghiên cứu quy luật lượng và chất, làm rõ những khái niệm
của lượng chất cũng như làm rõ sự vận dụng quy luật này vào thực tiễn.

3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của tiểu luận, đề tài chỉ nghiên cứu một số nột dung chủ

yếu về quy luật lượng và chất và thực tiễn trong cuộc sống.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp luận: phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên các

nguyên lý, chính sách, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
đồng thời tuân thủ các nguyên tắc lý luận vào việc nghiên cứu, làm sáng tỏ

vấn đề.

Phương pháp chung: phương pháp logic – lịch sử, quy nạp diễn dịch,
phân tích lịch sử, …

Phương pháp cụ thể: ngoài những phương pháp trên, bài tiểu luận còn
sử dụng những phương pháp khác như tổng hợp, nghiên cứu tài liệu, phân tích
tài liệu, sắp xếp, tổng kết, … để đánh giá vấn đề.

5. Đóng góp của đề tài
Góp phần làm hiểu sâu và rõ hơn về quy luật lượng - chất và vận dụng

thực tiễn hiện nay. tạo cái nhìn tổng quan về quy luật. Bên cạnh đó giúp em
hiểu rõ hơn việc vận dụng chúng trong thực tiễn hiện nay.

6. Kết cấu của đề tài
Bài tiểu luận ngoài phần mở đầu, nội dung và danh mục tài liệu tham

khảo, được chia thành các nội dung chi tiết sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận
Chương 2. Ví dụ liên hệ thực tiễn

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Khái niệm về chất
Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự


vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân
biệt nó với sự vật hiện tượng. Mọi sự vật hiện tượng đều được cấu thành bởi
các thuộc tính khách quan vốn có của nó, là căn cứ để ta phân biệt sự vật, hiện
tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Chẳng hạn cái bàn có những thuộc
tính riêng giúp ta phân biệt nó với cái ghế.

Tuy nhiên không thể đồng nhất khái niệm chất với khái niệm thuộc
tính. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có thuộc tính cơ bản và khơng cơ bản. Chỉ
những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Phụ thuộc
vào những mối quan hệ cụ thể mà thuộc tính cơ bản và khơng cơ bản mới
được phân biệt rõ ràng.

Chất của sự vật, hiện tượng không chỉ được quyết định bởi thành phần
cấu tạo mà còn bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng.

Ví dụ 1: với C, H, O thì ta khi chúng liên kết ắt hẳn ta sẽ có chất khác
so với khi các nguyên tố P, O khi chúng liên kết. Ngoài ra, với 3 chất C, H, O
nếu chúng liên kết theo nhiều kiểu khác nhau ta lại được các chất khác nhau
như CH3–CH2–COOH và CH3-COO-CH3, …

Ví dụ 2: Khi ta nói đến muối ăn là nói đến chất của muối (NaCl) và
thuộc tính của muối là: Thể kết tinh, tan trong nước, có vị mặn… Thể kết
tinh, tan trong nước, vị mặn là những tính chất (thuộc tính) quy định vốn có
của sự vật (muối) khơng lệ thuộc ý muốn của con người do vậy mang tính
khách quan.

Một sự vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính thể hiện một
chất như vậy một sự vật, hiện tượng có thể có rất nhiều chất. Giữa sự vật, hiện
tượng và các chất của nó là ln gắn liền với nhau, không thể tách rời chúng.


Ví dụ 3: Khi ta nói đến Đường ăn là nói đến chất của Đường
(C6H12O6) và thuộc tính của đường là: Thể kết tinh, màu trắng, tan trong
nước, có vị ngọt…

Ví dụ 4: Học viên trường TCKT Xe-Máy là nói đến chất của người học
viên trường TCKT Xe-Máy, chất đó được thể hiện qua các bộ phận: Học viên
TCKT ôtô; học viên lái xe các hạng C, D, E; học viên trung cấp trạm nguồn
điện, …. và mỗi bộ phận học viên TCKT ô tô; bộ phận học viên lái xe các
hạng C, D, E; bộ phận học viên trạm nguồn điện cũng có thể coi là một chất.

Như những gì phân tích ở trên, việc phân biệt giữa chất và thuộc tính
cũng chỉ mang tính chất tương đối.
1.1.2. Khái niệm về lượng

Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng về số lượng, yếu tố cấu thành, quy mô, tốc độ, nhịp điệu của
quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Lượng của sự vật không
phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người.

Nói đến lượng là nói đến chiều dài, ngắn; quy mơ lớn,nhỏ; trình độ cao
thấp,… của sự vật, hiện tượng. Lượng thường được đo bởi các đơn vị đo cụ
thể (cao 166cm, vận tốc là 1m/s, …) nhưng cũng có thể được hiểu một cách
trừu tượng hóa (trình độ văn hóa cao hay thấp, ….).

Ví dụ 1: Khi ta nói đến lượng nguyên tố hóa học trong một phân tử
nước là H20 nghĩa là gồm hai nguyên tử hidrô và một nguyên tử ôxi.

Ví dụ 2: Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác như trọng
lượng của cơ thể hay chiều cao của một con người...


Ví dụ 3: Trong mối quan hệ của một lớp học có học viên là đảng viên và
học viên là đồn viên là nói đến lượng của một lớp học. Nhưng trong mối quan
hệ lãnh đạo thì học viên là đảng viên và học viên là đoàn viên khác nhau về chất.

Ví dụ 4: Trong mối quan hệ giữa người học viên năm thứ nhất với người
học viên năm thứ hai là nói đến chất của người học viên năm thứ nhất với năm
thứ hai. Trong mối quan hệ với cả khố học thì năm thứ nhất với năm thứ hai lại
là lượng.

Ví dụ 5: Số lượng người trong một lớp học, vận tốc của ánh sáng....
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ mang tính chất tương đối: có cái
trong mối quan hệ này là chất nhưng trong mối quan hệ kia lại là lượng.
1.2. Nội dung quy luật

Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội cũng như
sự phát triển nhận thức trong tư duy con người đều đi từ sự thay đổi dần về
lượng khi vượt qua giới hạn về độ tới điểm nút thì gây ra sự thay đổi cơ bản về
chất, làm cho sự vật, hiện tượng phát triển cao hơn hoặc thay thế bằng sự vật,
hiện tượng khác.

Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt thống nhất hữu cơ nhưng
cũng mang trong mình tính mâu thuẫn vốn có trong sự vật. Lượng thì thường
xun biến đổi cịn chất có xu thế ổn định. Do đó, lượng phát triển tới một
mức nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ, u cầu tất yếu là phải thay đổi chất
cũ, mở ra một độ mới cho sự phát triển của lượng. Sự chuyển hóa từ những sự
thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất, diễn ra một cách phổ
biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

Quy luật này còn diễn ra theo chiều ngược lại, tức là không chỉ thay đổi
về lượng dẫn đến thay đổi về chất mà sau khi chất mới ra đời, do sự biến đổi

về lượng trước đó gây nên thì nó lại quay trở lại, tác động đến sự biến đổi của
lượng mới. Ảnh hưởng của chất mới đến lượng thể hiện ở quy mô, mức độ,
nhịp điệu phát triển mới.

Nội dung của quy luật được phát biểu như sau: Mọi sự vật đều là sự
thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng trong khuôn
khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chât của sự vật thông qua

bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Q
trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển,
biến đổi.

1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và sự thay
đổi về chất theo quy luật lượng – chất

Để nắm được mối quan hệ này, ta cần nắm được định nghĩa về “độ”,
“điểm nút” và “bước nhảy”.
1.3.1. “Độ”

Định nghĩa: “Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất
giữa lượng và chất, nó là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng
chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật”.

Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Khi sự vật vận động
và phát triển, chất và lượng của nó cũng vận động, biến đổi, thay đổi. Sự thay
đổi của lượng và của chất không diễn ra độc lập với nhau mà có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ngay lập
tức làm thay đổi căn bản chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong
giới hạn nhất định mà khơng làm thay đổi căn bản chất của sự vật đó. Giới hạn
đó chính là “độ”.


Ví dụ về “độ”: Người sống lâu nhất thế giới từng được biết đến có tuổi
thọ 146 tuổi. Nên với dữ kiện này, ta có thể thấy giới hạn từ 0 – 146 năm là
“độ” của con người xét về mặt tuổi. Diễn đạt một cách chính xác hơn: Sự
thống nhất giữa trạng thái còn sống và số tuổi từ 0 – 146 là “độ tồn tại” của
con người. (Thuật ngữ “độ tuổi” mà chúng ta hay dùng cũng ít nhiều liên
quan ở đây).

Từ 0 đến dưới 100 độ C, nước vẫn ở thể lỏng. Trong khoảng 0 < t <
100 độ C, sự thống nhất giữa trạng thái nước lỏng và nhiệt độ C tương ứng là
“độ” tồn tại của nước lỏng. (Ở đây cần phân biệt “độ C” và “độ tồn tại” là hai
khái niệm khác nhau). Nếu quá 100 độ C, nước sẽ chuyển thành hơi nước.
Nếu ở dưới 0 độ C, nước sẽ ở thể rắn.

1.3.2. “Điểm nút”
Định nghĩa: “Những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ

làm thay đổi về chất của sự vật gọi là điểm nút”. Ví dụ: Ở những ví dụ đã nêu
trên, 0 độ C, 100 độ C, 146 tuổi là những điểm nút.

Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất
mới. Sự thống nhất giữa lượng mới và chất mới tạo thành một độ mới với
điểm nút mới.
1.3.3. “Bước nhảy”

Định nghĩa: “Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn
chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra”.

Ví dụ 1: Sự chuyển hóa từ nước lỏng thành hơi nước là một bước nhảy.
Có bước nhảy này là do nước lỏng có sự thay đổi về nhiệt độ và đạt đến 100

độ C.

Ví dụ 2: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ví dụ 3: Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa theo nghĩa rộng.
Ví dụ 4: Những kỳ thi học phần trong chương trình học thạc sĩ.
Trong lịch sử triết học, do tuyệt đối hóa tính dần dần, tính tiệm tiến của
sự thay đổi về lượng nên các nhà triết học siêu hình đã phủ nhận sự tồn tại của
“bước nhảy”. Triết học Mác – Lênin cho rằng phải có “bước nhảy” thì mới
giải thích được sự vận động, phát triển của thực tế.
Các hình thức của bước nhảy có thể phân loại như sau:
Bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần: Sự phân chia này dự trên
thời gian và tính chất của sự thay đổi về chất của sự vật. Những bước nhảy
gọi là đột biến khi chất của sự vật biến đổi một cách nhanh chóng ở tất cả các
bộ phận cơ bản cấu thành nó. Những bước nhảy dần dần xuất hiện khi quá
trình thay đổi về chất diễn ra bằng con đường tích lũy dần dần, lâu dài những
nhân tố của chất mới và mất đi dần những nhân tốc của chất cũ.

Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ: Sự phân chia này dựa trên sự
xuất hiện của bước nhảy ở số lượng bộ phận cấu thành của sự vật. Nếu bước
nhảy làm thay đổi về chất của tất cả các mặt, bộ phận, yếu tố cấu thành sự
vật…, thì đó là bước nhảy tồn bộ. Cịn bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm
thay đổi một số mặt, bộ phận… cấu thành sự vật.

Khi xem xét sự thay đổi về bản chất của xã hội, ta có thể chia sự thay
đổi ra thành thay đổi cách mạng và thay đổi có tính chất tiến hóa. Cách mạng
là sự thay đổi mà trong q trình đó diễn ra sự cải tạo căn bản về chất của sự
vật, khơng phụ thuộc vào sự cải tạo đó được diễn ra như thế nào. Tiến hóa là
sự thay đổi về lượng cũng với những biến đổi nhất định về chất, nhưng là chất
không căn bản của sự vật.
1.4. Ý nghĩa phương pháp luận


Với bất kì sự vật, hiện tượng nào đều có 2 phần chất và lượng. Chúng
quy định, tác động, chuyển hóa lẫn nhau, do đó, trong nhận thức và thực tiễn
phải coi trọng cả 2 loại lượng và chất.

Vì lượng và chất có khả năng tác động lẫn nhau nên trên thực tế, ta phải
dựa vào mối quan hệ của sự vật, hiện tượng đó với bên ngồi để thực hiện sự
thay đổi dần về lượng hoặc phát huy tác dụng của chất mới làm thay đổi
lượng của sự vật, hiện tượng.

Chất chỉ được biến đổi khi lượng đạt tới một mức độ nhất định, tức
phải vượt qua khoảng độ của nó, khoảng độ này tùy vào sự vật, hiện tượng
mà dài hay ngắn do vậy trong thực tiễn cần tránh tư tưởng nơn nóng tả
khuynh. Khi vượt qua điểm nút thì ta có thể tác động được đến chất của sự
vật, hiện tượng nên cũng cần khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu huynh.

Cần vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với
tình hoàn cảnh cụ thể. Đặc biệt trong xã hội quá trình phát triển khơng chỉ phụ
thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của

con người. Do đó cần phải nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để
thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách hiệu quả nhất.

Mỗi một quy luật trong đời sống đều đem đến những ý nghĩa nhất định,
phương pháp luận của quy luật lượng chất cũng vậy.

Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng chất đem đến hai ý
nghĩa cơ bản sau đây.

Ý nghĩa trong nhận thức: Nhờ có phương pháp luận lượng chất mà

chung ta hiểu rằng bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng đều vận động và phát
triển. Sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn tại hai mặt: Lượng và Chất. Do đó
khi nhận thức, chúng ta cần nhận thức về cả hai mặt lượng và chất để có có
cái nhìn phong phú hơn về những sự vật, hiện tượng tồn tại xung quanh chúng
ta. Cần phải làm rõ quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng bằng cách xác
định giới hạn độ, điểm nút, bước nhảy.

Ý nghĩa trong thực tiễn: Muốn có sự biến đổi về chất thì cần kiên trì để
biến đổi về lượng (bao gồm độ và điểm nút). Cần tránh hai khuynh hướng
sau:

Thứ nhất, nơn nóng tả khuynh: Đây là việc mà một cá nhân khơng kiên
trì và nỗ lực để có sự thay đổi về lượng nhưng lại muốn có sự thay đổi về
chất;

Thứ hai, bảo thủ hữu khuynh: Lượng đã được tích lũy đến mức điểm
nút nhưng khơng muốn thực hiện bước nhảy để có sự thay đổi về chất.

Nếu không muốn có sự thay đổi về chất thì cần biết cách kiểm soát
lượng trong giới hạn độ.

Bước nhảy là một giai đoạn hết sức đa dạng nên việc thực hiện bước
nhảy phải được thực hiện một cách cẩn thận.

Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn điểm nút và
thực hiện bước nhảy một cách phù hợp với từng thời điểm, điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể để tránh được những hậu quả khơng đáng có như khơng đạt được

sự thay đổi về chất, dẫn đến việc phải thực hiện sự thay đổi về lượng lại từ
đầu.


CHƯƠNG 2. VÍ DỤ LIÊN HỆ THỰC TIỄN

2.1. Quy luật lượng chất trong khoa học tự nhiên.
Ví dụ 1:
Như chúng ta đã biết, quy luật về sự thay đổi của lượng dẫn đến sự thay

đổi về chât và ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản chủa chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Nội dung của nó khơng chỉ giới hạn trong một hay một số
lĩnh vực cụ thể mà bao trùm lên mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội
và tư duy con người.

Trước hết, ta hãy xét ví dụ về sự chuyển hóa thành các dạng tồn tại
khác nhau của nước. Nước (ở đây chỉ xét nước tinh khiết) xét trên phương
diện cấu tạo hóa học là một hợp chất được cấu tạo nên bởi hai nguyên tố là
hiđro và oxi. Nước có cơng thức cấu tạo hóa học là H2O. Ở điều kiện bình
thường nước tồn tại ở dạng lỏng nhưng ở những điều kiện đặc biệt, nước cịn
có thể tồn tại ở những dạng khác như rắn, khí hay plasma. Quy luật lượng
chất thể hiện rõ nhất trong q trình chuyển hóa giữa những dạng tồn tại khác
nhau của nước. Trước hết, ta hãy xét sơ đồ sau:

Thể plasma H2O ở thể khí H2O ở thể lỏng H2O ở thể rắn

(- 273oC) (0oC) (100oC) (550oC )

(Sơ đồ: các trạng thái tồn tại của nước)

Ở ví dụ này, trong mối quan hệ giữa các trạng thái tồn tại của nước ta

có thể thấy rằng chất của nước chính là trạng thái tồn tại (rắn, lỏng, khí hay


plasma) cịn lượng chính là nhiệt độ nước, vận tốc của các phân tử nước. Có

thể nhận thấy rõ rằng, trạng thái của nước luôn tương ứng với nhiệt độ của nó.
Khi nhiệt độ của nước ở -273oC thì nước ở thể rắn, nhiệt độ có tăng thêm tới -
270oC, 250oC hay thậm chí lên tới -10oC thì nước vẫn ở thể rắn mà thơi. Cũng
trong khoảng nhiệt độ này, vận tốc của các phân tử nước cũng tăng dần theo
nhiệt độ của nước nhưng chưa đủ để tạo nên sự thay đổi trong trạng thái tồn
tại của nước, tức là mặc dù lượng của nước đã thay đổi nhưng về cơ bản thì
chất của nó vẫn được giữ ổn định.

Tuy nhiên, khi nhiệt độ của nước tăng lên đến 0oC và cao hơn nữa thì
trạng thái của nước bắt đầu có sự thay đổi, chuyển từ thể rắn sang thể lỏng,
tức là về cơ bản, chất của nước đã thay đổi. Q trình chuyển hóa giữa các
dạng của nước cũng diễn ra tương tự ở những nhiệt độ khác nhau. Như vậy,
có thể thấy rằng, Khoảng nhiệt độ từ -273oC đến 0oC chính là độ của nước.
Đây là khoảng giới hạn mà lượng của nước đựơc tích lũy nhưng không làm
thay đổi chất căn bản của nước. Đến 0oC thì sự thay đổi về chất diễn ra, như
vậy, 0oC chính là điểm nút mà ở đó, sự tích lũy về lượng của nước đã đủ để
làm nó có sự thay đổi về chất. Từ 0oC, nước khơng cịn ở thể rắn nữa mà
chuyển hồn tồn sang thể lỏng, vì vậy, đây chính là bước nhảy của nước
trong quá trình chuển từ thể rắn sang thể lỏng.

Chất mới được sinh ra lại tiếp tục quay trở lại tác động đến lượng mới,
điều này thể hiện ở vận tốc của các phân tử nước ở trạng thái lỏng được tăng
lên đáng kể so với trạng thái rắn khi mà nhiệt độ của nước tiếp tục được nâng
lên… Tương tự như sự phân tích trên, căn cứ vào sơ đồ ta sẽ có được những
độ, những điểm nút (100oC, 550 oC) và những chất mới. Quy luật này của
nước được thể hiện rõ ràng nhất ở vịng tuần hồn của nước trong tự nhiên.


Ví dụ về nước chỉ là một trong vơ vàn ví dụ về quy luật lượng chất
trong tự nhiên. Việc nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất to lớn,
trước hết, nó giúp con người có được nhận thức đúng đắn và đầy đủ về thế
giới tự nhiên và từ đó đem những gì nhận thức được quay trở lại, cải tạo tự
nhiên, phục vụ cho cuộc sống của con người.

Ví dụ 2: Uranium 235 được tăng tới hạn (1kg) thì ngay lập sẽ xảy ra vụ
nổ nguyên tử.
2.2. Quy luật lượng chất trong quá trình học tập và rèn luyện phát triển
năng lực nhà giáo để thực hiện tốt chương trình giáo dục phổ thông mới

Trong bối cảnh ngành giáo dục đang tích cực chuẩn bị cho đổi mới
chương trình giáo dục phổ thơng từ năm 2020 thì việc phát triển năng lực đội
ngũ nhà giáo để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới căn bản, tồn diện
giáo dục và đào tạo có ý nghĩa then chốt, quyết định thành công của sự nghiệp
đổi mới.

Để khắc phục những yếu kém đang tồn tại ở bậc giáo dục phổ thông; để
theo kịp, hội nhập với xu hướng phát triển chung của thế giới thì giáo dục phổ
thơng phải không ngừng cải cách, đổi mới. Cả nước đang quyết liệt thực hiện
chủ trương đổi mới căn bản và tồn diện nền giáo dục, xem đó chính là điểm
hội tụ của những đổi mới trên tất cả các lĩnh vực, là điều tất yếu khách quan,
là chìa khóa để phát triển xã hội. Công việc chuẩn bị cho công tác triển khai
chương trình giáo dục phổ thơng mới và thay sách giáo khoa đang được gấp
rút thực hiện trong tồn ngành giáo dục. Tuy nhiên chương trình giáo dục phổ
thơng mới có đi vào cuộc sống một cách hiệu quả nhất hay không phụ thuộc
rất lớn vào năng lực của đội ngũ nhà giáo – những người được xem là linh
hồn của ngành giáo dục.
2.2.1. Thực trạng năng lực của đội ngũ giáo viên phổ thông hiện nay trước
yêu cầu đổi mới giáo dục.


Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, về cơ bản, đội ngũ giáo viên
và cán bộ quản lý giáo dục ở tất cả các cấp học đã đạt chuẩn và trên chuẩn
trình độ đào tạo, cụ thể: cấp mầm non là 96,6%, cấp tiểu học là 99,7%, cấp
trung học cơ sở là 99,0%, cấp trung học phổ thông là 99,6% và đại học là
82,7%. Đây là kết quả đáng khích lệ mà ngành giáo dục đã đạt được. Hầu hết
cán bộ quản lý, giáo viên có lịng u nghề, có phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp tốt, có tinh thần trách nhiệm cao trong cơng việc, có ý chí vươn lên,

tích cực học tập, rèn luyện và bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn,
nghiệp vụ. Năng lực sư phạm của phần lớn nhà giáo được nâng lên, đáp ứng
yêu cầu đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục. Đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục tham mưu tích cực và hiệu quả cho cấp ủy đảng và chính quyền các
cấp trong việc xây dựng các chính sách cán bộ, giáo viên, học sinh phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội của bộ, ngành, địa phương. Đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục đã tăng mạnh về số lượng, chất lượng và ngày càng
đồng bộ về cơ cấu, từng bước đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục của
đất nước.

Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi học sinh đều phải tích lũy đủ
khối lượng kiến thức và vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm nút
quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất và lượng mà học sinh nào
cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì thi tốt nghiệp cấp 3 đã
là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại học lại cịn là
điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có
sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát
triển mới của lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, thì thực trạng đội ngũ giáo viên
vẫn còn tồn tại một số những hạn chế cần được khắc phục. Trên thực tế vẫn

còn một bộ giáo viên thiếu tâm huyết với nghề, không tuân thủ những quy
chuẩn của đạo đức nghề nghiệp, làm suy thoái danh dự, lương tâm nhà giáo.
Trong cơng tác chun mơn, khơng ít giáo viên có biểu hiện sa sút về ý chí,
sức chiến đấu, chưa thực sự công tâm, chưa đánh giá đúng thực chất kết quả
học tập của học sinh; còn nhiều tiêu cực, bệnh thành tích, làm giảm uy tín,
ảnh hưởng đến niềm tin của học sinh, phụ huynh và cộng đồng xã hội đối với
đội ngũ nhà giáo. “Một bộ phận không nhỏ thiếu động lực tự học và đổi mới,
chưa bắt kịp yêu cầu về đổi mới quản lý, chương trình, phương pháp giáo dục,
sử dụng công nghệ thông tin và ngoại ngữ”. Năng lực của đội ngũ giáo viên

hiện nay cũng là một trong những lo ngại cả về lượng và chất trước yêu cầu
đổi mới giáo dục

Tình trạng thừa thiếu giáo viên cục bộ vẫn còn tồn tại, chủ yếu là thừa
giáo viên trung học cơ sở, trong khi đó, thiếu giáo viên mầm non, tiểu học,
đặc biệt là giáo viên dạy các môn Tin học, Ngoại ngữ, Nhạc, Mỹ thuật.

Thực tế trên đặt ra yêu cầu là phải đổi mới từ đội ngũ giáo viên hiện
nay của chúng ta thông qua con đường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn để nâng
cao năng lực cho giáo viên. Đứng trước yêu cầu của việc thực hiện chương
trình giáo dục phổ thơng mới, cần phát triển năng lực nghề nghiệp cho giáo
viên ở những nội dung quan trọng sau:

Thứ nhất, nâng cao năng lực giảng dạy, truyền thụ kiến thức cho học
sinh.

Đối với mỗi giáo viên, quan trọng nhất là năng lực giảng dạy, truyền thụ
kiến thức. Từ trường mầm non các bé bước vào bậc phổ thông là bắt đầu hành
trình học con chữ, học cộng trừ nhân chia, học tiếng nước ngoài, lớn hơn các
em được học về địa lý, lịch sử, tin học….Các em có nắm được tất cả các kiến

thức, các kỹ năng phổ thông hay không phụ thuộc trực tiếp vào năng lực giảng
dạy của giáo viên. Muốn trở thành một giáo viên có năng lực dạy học thì thầy,
cơ chắc chắn phải nắm vững kiến thức, kỹ năng về môn học được phân công
dạy; biết lập các loại kế hoạch dạy học; biết sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học,
đặc biệt trong thời đại bùng nổ cách mạng 4.0 thì cơng nghệ thơng tin và truyền
thơng chính là cơng cụ hỗ trợ đắc lực để giáo viên có những bài giảng lý thú,
cuốn hút; biết vận dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học hợp lý
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, phát triển kỹ năng cho
học sinh.

Một trong những điểm mới của các mơn học trong chương trình giáo
dục phổ thơng tổng thể là việc tích hợp liên mơn để giúp học sinh giảm tải. Vì
vậy khi thực hiện sách giáo khoa phổ thơng mới địi hỏi giáo viên phải có
năng lực hiểu sâu và rộng mọi lĩnh vực, phải huy động tối đa nguồn tri thức

xã hội của bản thân, vận dụng vào trong bài giảng mới có thể trở thành người
“khai sáng” cho học sinh, đáp ứng yêu cầu của chương trình mới.

Thứ hai, bồi dưỡng năng lực tổ chức kiểm tra, đánh giá học sinh.
Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh là thước đo giúp xác
định thành tích học tập, mức độ chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng của các em. Từ
đó giáo viên sẽ điều chỉnh quá trình dạy học của mình theo hướng phát triển
năng lực và các kỹ năng cho học sinh. Nếu giáo viên biết đánh giá một cách
chính xác, khách quan thì sẽ khích lệ, động viên những em giỏi càng phấn đấu
vươn lên để đạt thành tích cao hơn, những em yếu kém sẽ tìm cách nổ lực để
cải thiện vị trí.
Đối với chương trình mới, để đánh giá chính xác về học sinh, giáo viên
cần có kỹ năng thiết kế các công cụ đánh giá kết quả giáo dục thể hiện ở mức
độ đạt được các năng lực cần hình thành và phát triển ở học sinh; cần biết sử
dụng các phần mềm hỗ trợ đánh giá; cần có kiến thức, kỹ năng về kiểm tra,

đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Thứ ba, rèn luyện năng lực thấu cảm học sinh.
Thấu cảm là khả năng hiểu được cảm xúc, tâm trạng, đặc điểm, mong
muốn, hoàn cảnh…của mỗi học sinh, đó chính là chìa khóa để đi được vào
lòng học sinh, để học sinh dễ dàng mở lịng với giáo viên, có như vậy sự hợp
tác giữa thầy và trị mới sn sẽ, chất lượng giáo dục mới nâng cao.
Trong một lớp học thường sẽ có nhiều đối tượng học sinh khác nhau: có
em rất giỏi nhưng cũng có em rất yếu. Có lẽ bất cứ thầy cơ giáo nào cũng đều
có chung mong muốn rằng khơng học sinh nào cảm thấy bị “bỏ rơi” trong lớp
học. Người thầy thấu cảm là người nổ lực để biên soạn, chuẩn bị bộ tài liệu tự
học cho học sinh với nội dung ở nhiều cấp độ từ dễ đến khó. Với những học
sinh yếu, chỉ đặt ra yêu cầu ở mức độ vừa phải với khả năng của học sinh đó.
Với những học sinh học tốt, yêu cầu học sinh hoàn thành các mức độ cơ bản,
sau đó, chủ động dành thời gian để tiếp cận các yêu cầu ở mức độ khó hơn.
Người thầy thấu cảm sẽ phân chia thời gian trong giờ học dành cho từng đối

tượng một cách hợp lý. Đặc biệt, sẵn sàng dành thời gian ngoài giờ để hỗ trợ,
phụ đạo thêm cho những học sinh có lực học chưa cao. Người thầy thấu cảm sẽ
hiểu từng hoàn cảnh, đặc điểm tâm sinh lý của từng em học sinh để trở thành
“chiếc la bàn” điều chỉnh, dẫn lối cho các em học sinh để khơng bao giờ các
em vấp ngã hoặc có vấp ngã cũng sẽ biết cách đứng lên.
2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo viên

Người giáo viên là người cần rất nhiều kỹ năng nhưng thiết nghĩ
những kỹ năng trên là vô cùng quan trọng đối với đội ngũ giáo viên khi
thực hiện chương trình giáo dục phổ thơng mới. Để năng lực đội ngũ nhà
giáo ngày càng tiếp tục phát triển cần tập trung thực hiện tốt một số giải
pháp sau:

Thứ nhất, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.

Đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo là nhiệm vụ chiến lược trong việc nâng
cao chất lượng đội ngũ, bù đắp những thiếu hụt khi chuyển sang thực hiện
chương trình, sách giáo khoa mới. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng cơng
nghiệp 4.0, vai trị và u cầu về năng lực của đội ngũ nhà giáo càng được
nâng cao thì cơng tác đào tạo, bồi dưỡng càng nâng tầm quan trọng.
Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, trước hết phải đổi mới cơng tác
tuyển sinh để thí sinh vào sư phạm thực sự là những người xuất sắc, có năng
lực dạy học tốt. Một người thầy kém sẽ làm hỏng tương lai nhiều thế hệ học
sinh, ảnh hưởng đến sự phát triển đất nước nên việc lựa chọn người sẽ trở
thành giáo viên không thể chọn đại trà, dễ dãi được. Khi đã lựa chọn được
những sinh viên giỏi thì bắt đầu tiến hành đào tạo, bồi dưỡng.
Để đào tạo, bồi dưỡng đạt kết quả cao cần quy hoạch lại mạng lưới các
trường đào tạo ngành sư phạm, khoa sư phạm và các cơ sở đào tạo bồi dưỡng
nhà giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Tăng cường liên kết, phối hợp
đào tạo giữa các trường sư phạm, các khoa sư phạm và các cơ sở đào tạo bồi
dưỡng nhà giáo với các đơn vị, tổ chức trong và ngoài nhà nước nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo.
Xây dựng mơ hình bồi dưỡng và đào tạo lại nghề nghiệp cho giáo viên
độc lập với trường sư phạm. Có kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên, định kì

theo hình thức tập trung, tại chức…; cần kết hợp đào tạo bồi dưỡng những
kiến thức mang tính hàn lâm với tham quan học tập các mơ hình, học tập kinh
nghiệm ở các địa phương trong nước và quốc tế để tăng cường kiến thức thực
tiễn và kỹ năng dạy học; có chính sách hỗ trợ cho nhà giáo được đào tạo nâng
cao trình độ chun mơn, học vấn, trình độ chính trị.

Thứ hai, tự đào tạo là yếu tố đặc biệt quan trọng để phát triển năng lực
giáo viên.

Trong quá trình dạy học thì việc tự bồi dưỡng là điều kiện tốt nhất để

nâng cao phẩm chất, năng lực, trình độ chun mơn và nghiệp vụ tương
xứng với vị trí việc làm, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Mỗi người giáo
viên trong quá trình dạy sẽ biết rõ nhất mình có những ưu thế gì, cịn những
hạn chế gì; biết điểm mạnh và yếu của bản thân; biết chất lượng giảng dạy
của mình đến đâu từ đó sẽ có cách tự bồi dưỡng để hồn thiện mình. Tự bồi
dưỡng là con đường tích lũy kiến thức, gọt sắc tư duy, là sự trăn trở, thử
nghiệm để tìm ra những hình thức, biện pháp thích hợp truyền đạt tri thức
tới người học. Trong thời buổi bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay
việc tự đào tạo, bồi dưỡng quả là gặp rất nhiều thuận lợi. Chỉ cần thầy cơ
của chúng ta cầu tồn, nổ lực, nghiêm khắc với bản thân và có phương
pháp học tập thì việc nâng cao năng lực của bản thân khơng phải là việc
q khó. Có rất nhiều tấm gương về dạy giỏi; có rất nhiều cách làm hay,
sáng tạo mà thầy cô ở nơi này, nơi khác đã áp dụng và mang lại kết quả
đáng ghi nhận; có những chương trình ý nghĩa như “thầy cơ chúng ta đã
thay đổi” để thầy cơ có thể tham gia, có thể học hỏi…để tự hồn thiện
mình.

Thứ ba, đổi mới công tác tự đánh giá, đánh giá đội ngũ nhà giáo.
Đánh giá khơng đúng, khơng chính xác sẽ làm cho giáo viên không biết
được chất lượng giảng dạy của mình như thế nào, mình cần phát huy gì và cần
khắc phục điều gì ở bản thân. Đánh giá khơng đúng, khơng chính xác sẽ làm
mất đi động lực phấn đấu của từng cá nhân, có khi làm xáo trộn tâm lí của cả
một tập thể, gây nên sự trầm lắng, trì trệ trong cơng việc.

Đối với ngành Giáo dục thực hiện đánh giá giáo viên theo Thông tư
20/2018/TT-BGDĐT ngày 22/8/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông. Đây là cơ sở
vững chắc để soi vào đó, đưa ra được sự đánh giá tương đối khách quan và
chính xác đối với năng lực của giáo viên, tạo ra động lực để giáo viên cống
hiến sức lực, tâm trí hồn thành tốt nhiệm vụ được giao. Ngoài ra cần xây

dựng khung năng lực nhà giáo tương lai theo chuẩn nghề nghiệp trong giai
đoạn tới để làm thước đo cho các nhà giáo nỗ lực vươn lên.

Thứ tư, cải thiện các chính sách cho đội ngũ giáo viên.
Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục công lập hiện nay
được hưởng chế độ theo các quy định về chế độ tiền lương đối với cán bộ,
công chức, viên chức và lực lượng vũ trang tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP
ngày 14/12/2004 của Chính phủ. Ngồi lương được hưởng theo quy định trên,
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cịn được hưởng thêm 2 loại phụ cấp, đó
là: phụ cấp ưu đãi (với các mức từ 25% đến 70%); phụ cấp thâm niên (được
tính gia tăng theo thời gian công tác). Tùy theo điều kiện cụ thể, ở các địa
phương khác nhau cũng có chính sách riêng đối với nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn,
biên giới, hải đảo.
Tuy nhiên, với mức lương như hiện nay vẫn khiến họ chưa yên tâm
công hiến và tâm huyết ngành. Bên cạnh đó, chính sách tiền lương cịn nhiều
bất cập dẫn đến khó duy trì nghiêm được tính kỷ luật, thứ bậc và khơng tạo
được tính cạnh tranh trong đội ngũ cán bộ, nhà giáo.
Việc đãi ngộ về tiền lương, về các quyền lợi vật chất là điều rất quan
trọng và cần thiết nhưng chưa đủ để đội ngũ nhà giáo phát triển hết khả năng
đóng góp của họ. Cần tạo điều kiện để ghi nhận thành tích của họ; lắng nghe
và sử dụng những ý kiến đóng góp, xây dựng một mơi trường làm việc đầy
cảm hứng, khích lệ sự đóng góp của họ vào cơng việc phục vụ nhà trường,
phục vụ cộng đồng chính là động lực giúp đội ngũ giáo viên phát triển tình
cảm nghề nghiệp, củng cố mối hệ gắn bó giữa giáo viên với học sinh, với
đồng nghiệp và nhà trường. Và như thế, khi môi trường sư phạm mẫu mực


×