Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận triết học vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc xây dựng nền kinh tế nước nhà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.49 KB, 17 trang )

TIỂU LUẬN

MÔN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

TÊN TIỂU LUẬN:
VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ NƯỚC NHÀ

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
1. VẬT CHẤT:.................................................................................................1
1.1. Định nghĩa vật chất:.................................................................................1
1.2. Các đặc tính của vật chất:.......................................................................2
1.2.1. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu
của vật chất:......................................................................................................2
1.2.2. Khơng gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất:.....4
1.2.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới:..................................................4
2.Ý THỨC:.......................................................................................................5
2.1. Kết cấu của ý thức:...................................................................................5
2.2. Nguồn gốc của ý thức:..............................................................................6
2.2.1. Nguồn gốc tự nhiên:..............................................................................6
2.2.2 Nguồn gốc xã hội:...................................................................................7
2.2.3 Bản chất của ý thức:...............................................................................7
3. MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC:................................8
4. VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ NƯỚC NHÀ......................10

1


LỜI MỞ ĐẦU

1. VẬT CHẤT:
1.1. Định nghĩa vật chất:
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau
về nó. Nhưng theo Lênin định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác”.
Lênin chỉ ra rằng, không thể định nghĩa vật chất theo cách thơng
thườngvì khái niệm vật chất là rộng nhất. Để định nghĩa vật chất, Lênin đã đối
lập vật chất với ý thức, hiểu vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, vật chất tồn tại độc lập với cảm giác, ý thức, còn
cảm giác, ý thức phụ thuộc vào vật chất và được phản ánh khách quan.
Định nghĩa: “Vật chất là phạm trù triết học”, Lênin một mặt muốn chỉ rõ
vật chất là khái niệm rộng nhất, muốn phân biệt tư cách là phạm trù triết học,
là kết quả của sự khái quát và trừu tượng với những dạng vật chất cụ thể, với
những “hạt nhân cảm tính”. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học,
khơng có thuộc tính cụ thể nào có thể phân biệt được. Định nghĩa này về vật
chất vượt qua những quan niệm siêu hình của chủ nghĩa duy vật, vốn xác định
vật chất bằng hình thức biểu hiện cụ thể của nó.
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có, khơng thể phá hủy được, tồn tại
bên ngồi và không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con người, vật chất là một
thực tại khách quan. Đối lập với quan niệm ý niệm tuyệt đối của chủ nghĩa
duy tâm khách quan, “thượng đế của tôn giáo”… Vật chất không phải là lực
lượng siêu tự nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó, trái lại phạm trù vật chất là kết
quả của sự khái quát sự vật, hiện tượng cụ thể, do đó các đối tượng vật chất
có thật, hiện thực đó có khả năng tác động vào giác quan để gây ra cảm giác,
và nhờ đó mà ta có thể nhận biết, hiểu và nắm bắt sự vật này. Định nghĩa của


Lênin đã khẳng định được câu trả lời cho cả hai mặt của vấn đề cơ bản của
triết học.

Hơn thế nữa Lênin còn khẳng định, cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh
vật chất, nhưng vật chất tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Với nhận định
như vậy, Lênin muốn một mặt nhấn mạnh tính nguyên sơ của vật chất, tác
dụng quyết định của nó với ý thức, mặt khác người khẳng định phương pháp
và khả năng nhận thức thế giới khách quan của con người. Điều này không
chỉ phân biệt chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, với thuyết không thể
biết mà còn phân biệt chủ nghĩa duy vật với nhị nguyên luận.

Vì vậy, chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là một định
nghĩa tồn diện và triệt để, nó giải đáp được cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết
học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phân biệt về nguyên
tắc với chủ nghĩa duy tâm, bất khả trị luận, nhị nguyên luận. Đồng thời nó
cũng khắc phục thiếu sót, siêu hình, hẹp hịi trong quan niệm về vật chất của
chủ nghĩa duy vật cũ.

Định nghĩa vật chất của Lênin cũng giúp chúng ta nhân tố vật chất trong
đời sống xã hội, đó là tồn tại xã hội, và nó cũng có ý nghĩa trực tiếp định
hướng trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, giúp khoa học tự nhiên ngày càng
đi sâu vào nghiên cứu dạng cụ thể của vật chất trong giới vĩ mơ. Nó cũng giúp
chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan trong suy nghĩ và hành động.

1.2. Các đặc tính của vật chất:
1.2.1. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố
hữu của vật chất:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là sự biến
đổi nói chung chứ khơng phải là sự chuyển dịch trong không gian, Ăngghen
cho rằng vận động là một phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố

hữu của vật chất, bao gồm tất cả mọi sự thay đổi trong mọi quá trình diễn ra
trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy. Vận động có
nhiều hình thức trong đó có 5 hình thức vận động cơ bản: Thứ nhất vận động

3

cơ học (Di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian); thứ hai vận động
vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá
trình điện nhiệt...); thứ ba vận động hóa học (vận động của các ngun tử, các
q trình hóa hợp và phân giải các chất); thứ tư vận động sinh học (trao đổi
chất giữa cơ thể sống và môi trường); thứ năm vận động xã hội (sự biến đổi
thay thế của các hình thái kinh tế xã hội). Các hình thức vận động đều có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Một hình thức vận động nào đó được thực hiện là
do sự tác động qua lại với những hình thức vận động khác, trong đó những
hình thức vận động cao bao giờ cũng bao hàm những hình thức vận động thấp
hơn, nhưng cũng khơng thể coi hình thức vận động cao là tổng số đơn giản
các hình thức vận động thấp.

Thế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại không ngừng khơng thể có vật
chất khơng vận động, tức vật chất tồn tại. Vật chất thông qua vận động mà
biểu hiện sự tồn tại của mình. Ăngghen nhận định rằng các hình thức và các
dạng khác nhau của vật chất, chỉ có thể nhận thức được thơng qua vận động
mới có thể thấy được thuộc tính của nó. Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ
bản trong vi mô trong hệ thống hành tinh khổng lồ.

Mọi dạng vật chất đều là một thể thống nhất có cấu trúc xác định gồm
các bộ phận, nhân tố khác nhau cùng tồn tại, tác động lẫn nhau gây ra nhiều
biến đổi. Nguồn gốc vận động do những nguyên nhân bên trong, vận động vật
chất là tự thân vận động.


Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, khơng thể có vận động bên
ngồi vật chất. Nó khơng do ai sáng tạo ra và khơng thể tiêu diệt được do đó
nó được bảo toàn cả số lượng lẫn chất lượng. Khoa học đã chứng minh rằng
nếu một hình thức vận động nào đó của sự vật mất đi thì tất yếu nó nảy sinh
một hình thức vận động khác thay thế. Các hình thức vận động chuyển hóa
lẫn nhau cịn vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại.

Mặc dù vận động luôn ở trong q trình khơng ngừng, mà cịn bao hàm
cả hiện tượng đứng im tương đối, nhưng nếu khơng có nó thì khơng có sự

phân hóa thế giới vật chất thành các sự vật, hiện tượng phong phú và đa dạng.
Ăngghen khẳng định rằng khả năng đứng im tương đối của các vật thể, khả
năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự phân hóa vật chất.
Nếu vận động là biến đổi của các sự vật hiện tượng thì đứng im là sự ổn định,
là sự bảo tồn tính quy định sự vật hiện tượng. Đứng im chỉ một trạng thái
vận động, vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Trạng thái
đứng im còn được biểu hiện như là một quá trình vận động trong phạm vị sự
vật ổn định, chưa biến đổi, chỉ là tạm thời vì nó chỉ xảy ra trong một thời gian
nhất định. Vận động riêng biệt có xu hướng phá hoại sự cân bằng cịn vận
động tồn thể lại phá hoại sự cân bằng riêng biệt làm cho sự vật luôn biến đổi,
chuyển hóa nhau.

1.2.2. Khơng gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật
chất:

Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí, có
hình thức kết cấu, có độ dài ngắn khác nhau. Không gian thể hiện sự tồn tại
và ngắn cách của các sự vật với nhau, thể hiện qua tính chất và trật tự của
chúng. Cịn thời gian phản ánh thuộc tính của các q trình vật chất diễn ra
nhanh hay chậm, kế tiếp nhau theo một trình tự nhất định. Thời gian biểu thị

trình độ tốc độ của q trình vật chất, tính tách biệt giữa các giai đoạn khác
nhau của q trình đó, trình tự xuất hiện và mất đi các sự vật hiện tượng.

Không gian và thời gian là những hình thức cơ bản của vật chất đang vận
động, Lênin đã chỉ ra rằng trên thế giới khơng có gì ngồi vật chất đang vận
động. Khơng gian và thời gian tồn tại một cách khách quan, chúng không bất
biến, không thể nằm ngồi vật chất, khơng có khoảng khơng gian trống mà
chúng thay đổi phụ theo vật chất vận động.

1.2.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới:
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức và tinh thần có trước, quyết định vật
chất, cịn duy vật thì ngược lại. Triết học Mác – Lênin khẳng định rằng chỉ có
một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, đồng thời còn khẳng định rằng thế

5

giới đều là những dạng cụ thể của vật chất, có liên hệ vật chất thống nhất với
nhau như liên hệ về cơ cấu tổ chức, lịch sử phát triển và đều phải tuân thủ
theo quy luật khách quan của thế giới vật chất, do đó nó tồn tại vĩnh cửu,
không do ai sinh ra và cũng không mất đi trong thế giới.

2.Ý THỨC:
2.1. Kết cấu của ý thức:
Cũng như vật chất có rất nhiều quan niệm về ý thức theo các trường phái
khác nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định
rằng ý thức là đặc tính và là sản phẩm của vật chất, là sự phản ánh khách quan
vào bộ óc con người thơng qua lao động và ngôn ngữ. Mác nhấn mạnh rằng
tinh thần ý thức là chẳng qua chỉ là cái vật chất được di chuyển vào bộ óc con
người và được cải biến. Trong đó, ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có
kết cấu phức tạp gồm ý thức tri thức, tình cảm, ý chí trong đó tri thức là quan

trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức, vì sự hình thành và phát triển
của ý thức có liên quan mật thiết với q trình con người nhận thức và cải
biến giới tự nhiên. Tri thức càng được tích lũy con người càng đi sâu vào bản
chất của sự vật và cải tạo sự vật hiệu quả hơn, tính năng động của ý thức nhờ
đó mà tăng hơn. Việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản quan trọng có ý
nghĩa chống quan điểm đơn giản coi ý thức là tình cảm, niềm tin... Quan điểm
đó chính là bệnh chủ quan duy ý chí của niềm tin mù quáng. Tuy nhiên việc
nhấn mạnh yếu tố tri thức cũng không đồng nghĩa với việc phủ nhận coi nhẹ
yếu tố vai trị tình cảm ý chí.
Tự ý thức cũng là một yếu tố quan trọng mà chủ nghĩa duy tâm coi nó là
mơt thực thể độc lập có sẵn trong cá nhân, biểu hiện xu hướng về bản thân
mình, tự khẳng định cái tôi riêng biệt tách rời xã hội. Trái lahu chủ nghĩa duy
vật biện chứng tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình thơng
qua quan hệ với thế giới bên ngoài. Khi phản ánh thế giới khách quan con
người tự phân biện mình, đối lập mình với thế giới đó là sự nhận thức mình
như là một thực thể vận động, có cảm giác, tư duy có các hành vi đạo đức và

vị trí xã hội. Mặt khác sự giao tiếp xã hội và hoạt động thực tiễn xã hội đòi
hỏi con người nhận rõ bản thân mình và tự điều chỉnh theo các quy tắc tiêu
chuẩn mà xã hội đề ra. Ngồi ra văn hóa cũng đóng vai trị cái gương soi giúp
cho con người tự ý thức bản thân.

Vô thức là một hiện tượng tâm lý, nhưng có liên quan đến hoạt động xảy
ra ở ngồi phạm vi của ý thức. Có 2 loại vô thức: loại thứ nhất liên quan đến
các hành vi chưa được con người ý thức, loại thứ hai liên quan đến các hành
vi trước kia đã được ý thức nhưng do lặp lại nên trở thành thói quen, có thể
diễn ra tự động bên ngoại sự chỉ đạo của ý thức. Vô thức ảnh hưởng đến
nhiều phạm vi hoạt động của con người. Trong những hồn cảnh đó nó có thể
giúp con người giảm bớt sự căng thẳng trong hoạt động. Việc tăng cường rèn
luyện để biến thành hành vi tích cực thành thói quen, có vai trị quan trọng

trong đời sống.

2.2. Nguồn gốc của ý thức:
2.2.1. Nguồn gốc tự nhiên:
Ý thức ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của giới tự nhiên
đến khi xuất hiện con người và bộ não. Khoa học cho thấy rằng thế giới vật
chất nói chung và trái đất nói riêng đã có từ rất lâu đời. Trước khi con người
xuất hiện, hoạt động có ý thức này của con người diễn ra dựa trên hoạt động
sinh lý thần kinh của bộ não con người. Không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ
não vì ý thức là chức năng bộ não, bộ não là khí quản của ý thức. Sự phụ
thuộc ý thức vào hoạt động của não cho thấy nếu não bị tổn thương thì hoạt
động có ý thức sẽ bị rối loạn. Tuy nhiên, nhận thức không thể đơn giản là một
quá trình sinh lý, vì não bộ chỉ là cơ quan phản ánh. Sự xuất hiện của ý thức
gắn liền với sự phát triển của đặc điểm phản ánh phát triển cùng với sự phát
triển của tự nhiên, sự xuất hiện của xã hội loài người kéo theo hình thức phản
ánh cao nhất là phản ánh có ý thức ln đi kèm với sự thích nghi của tự nhiên.
trước nhu cầu phát triển của xã hội.

7

2.2.2 Nguồn gốc xã hội:
Sự ra đời của ý thức gắn liền hình thành với sự phát triển của bộ óc con
người dưới ảnh hưởng của lao động và giao tiếp quan hệ xã hội. Lao động của
con người là nguồn gốc vật chất có tính xã hội nhằm cải tạo tự nhiên, thỏa
mãn nhu cầu và phục vụ mục đích bản thân con người. Nhờ nó mà con người
và xã hội lồi người mới hình thức và phát triển.
Lao động là phương thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con người, đồng
thời ngay từ đầu đã liên kết con người với nhau trong mối quan hệ khách
quan, tất yếu; mối quan hệ này đến lượt nó nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh
nghiệm và tổ chức lao động, nhu cầu “cần phải nói với nhau một cái gì”. Và

kết quả là ngôn ngữ ra đời. Ngôn ngữ được coi là cái vỏ vật chất của tư duy,
với sự xuất hiện của ngơn ngữ, tư tưởng con người có khả năng biểu hiện
thành hiện thực trực tiếp, trở thành tín hiệu vật chất tác động tới giác quan của
con người và gây ra cảm giác. Nhờ có nó mà con người có thể giao tiếp, trao
đổi, truyền đạt kinh nghiệm cho nhau, thơng qua đó mà ý thức cá nhân trở
thành ý thức xã hội và ngược lại. Chính nhờ trừu tượng hóa và khái qt hóa
tức là q trình hình thành thực hiện ý thức, chính nhờ nó mà con người có
thể đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng đồng thời tổng kết hoạt động
của mình trong tồn bộ q trình phát triển lịch sử.
2.2.3 Bản chất của ý thức:
Từ việc xem xét nguồn gốc của ý thức, có thể thấy rõ ý thức có bản tính
phản ánh, sáng tạo và bản tính xã hội.
Bản tính phản ánh thể hiện về thế giới thơng tin bên ngồi, là biểu thị nội
dung được từ vật gây tác động và được truyền đi trong q trình phản ánh.
Bản tính của nó quy định mặt khách quan của ý thức, tức là phải lấy khách
quan làm tiền đề, bị nó quy định nội dung phản ánh là thế giới khách quan.
Ý thức ngay từ đầu đã gắn liền với lao động, trong hoạt động sáng tạo
cải biến và thống trị tự nhiên của con người và đã trở thành mặt khơng thể
thiếu của hoạt động đó. Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ nó khơng

chụp lại một cách thụ động nguyên xi mà gắn liền với cải biến, q trình thu
nhập thơng tin gắn liền với q trình xử lý thơng tin. Tính sáng tạo của ý thức
còn thể hiện ở khả năng gián tiếp khái quát thế giới khách quan ở quá trình
chủ động, tác động vào thế giới đó.

Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với nhau, khơng thể tách rời,
khơng có phản ánh thì khơng có sáng tạo vì phản ánh là điểm xuất phát là cơ
sở của sáng tạo. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa thu nhận xử lý thông tin,
là sự thống nhất mặt khách quan chủ quan của ý thức.


Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, hoạt động cải tạo thế giới của
con người. Hoạt động đó khơng thể là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã
hội. Ý thức trước hết là thức của con người về xã hội và hồn cảnh và những
gì đang diễn ra ở thế giới khách quan về mối liên hệ giữa người và người
trong quan hệ xã hội. Do đó ý thức xã hội hình thành và bị chi phối bởi tồn tại
xã hội và các quy luật của tồn tại xã hội đó ... ý thức của mỗi cá nhân mang
trong lịng nó ý thức xã hội. Bản tính xã hội của ý thức cũng thống nhất với
bản tính phản ánh trong sáng tạo. Sự thống nhất đó thể hiện ở tính năng động
chủ quan của ý thức, ở quan hệ giữa nhân tố vật chất và nhân tố ý thức trong
hoạt động cải tạo thế giới quan của con người.

3. MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC:
Lênin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa
tuyệt đối trong phạm vị hạn chế: trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn
đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước, cái gì là cái có
sau. Ngồi giới hạn đó thì khơng cịn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó chỉ là
tương đối. Như vậy để phân ranh giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm, để xác định bản tính và sự thống nhất của thế giới cần có sự đối lập
tuyệt đối giữa vật chất và ý thức trong khi trả lời cái nào có trước cái nào
quyết định. Không như vậy sẽ lẫn lộn hai đường lối cơ bản trong triết học, lẫn
giữa vật chất và ý thức và cuối cùng sẽ xa rời quan điểm duy vật. Song sự đối
lập giữa vật chất và ý thức chỉ là sự tương đối như là những nhân tố những

9

mặt không thể thiếu được trong hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt
động thực tiễn con người, ý thức có thể cải biến được tự nhiên, thâm nhập vào
sự vật, khơng có khả năng tự biến thành hiện thực, nhưng thông qua hoạt
động thực tiễn của con người, ý thức có thể cải tiến được, thâm nhập vào sự
vật, hiện thực hóa những mục đích mà nó đề ra cho hoạt động của mình. Điều

này bắt nguồn từ chính ngay bản tính phản ánh, sáng tạo và xã hội của ý thức
và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con người có ý thức mới có khả năng cải
biến và thống trị tự nhiên, bắt nó phục vụ con người. Như vậy tính tương đối
trong sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện ở tính độc lập tương đối, tính
năng động của ý thức. Mặt khác đời sống con người là sự thống nhất không
thể tách rời giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Trong đó những nhu
cầu tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng và những nhu cầu vật chất
cũng bị tinh thần hóa. Khẳng định tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất
và ý thức khơng có nghĩa là khẳng định cả hai yếu tố có vai trị như nhau
trong đời sống và hoạt động của con người. Trái lại, Triết học Mác – Lênin
khẳng định rằng, trong hoạt động của con người những nhân tố vật chất và ý
thức có tác động qua lại, song sự tác động đó diễn ra trên cơ sở tính thứ nhất
của nhân tố vật chất so với tính thứ hai của ý thức.

Trong hoạt động của con người, nhu cầu vật chất suy cho cùng ln
đóng vai trị quyết định, là yếu tố quyết định và quyết định mục đích hoạt
động của con người, bởi vì yếu tố vật chất quyết định chức năng của yếu tố
tinh thần, chúng có thể tham gia vào hoạt động của con người, tạo điều kiện
cho các yếu tố tinh thần hoặc các yếu tố khác. Yếu tố tinh thần trở thành hiện
thực và do đó xác định mục đích và biện pháp mà con người đề ra cho hoạt
động của mình bằng cách lựa chọn, chọn lọc, bổ sung, cụ thể hố mục đích
tán thành của biện pháp này.

Hoạt động nhận thức của con người bao giờ cũng hướng đến mục tiêu
cải biến tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu sống. Hơn nữa, cuộc sống tinh thần
của con người xét đến cùng bị chi phối và phụ thuộc vào việc thỏa mãn nhu

cầu vật chất và vào những điều kiện vật chất hiện có, khẳng định vai trị cơ
sở, quyết định trực tiếp nhân tố vật chất, triết học Mác – Lênin đồng thời cũng
khơng coi nhẹ vai trị của nhân tố tinh thần, tính năng động chủ quan. Nhân tố

ý thức có tác động trở lại quan trọng đối với nhân tố vật chất.

4. VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ NƯỚC NHÀ

Tình hình nền kinh tế nước ta trước đổi mới và sau đổi mới
* Trước đổi mới:
- Kinh tế(vật chất):
“Cơ sở vật chất yếu kém, cơ cấu kinh tế nhiều mặt mất cân đối, năng
xuất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống, sản xuất nông
nghiệp chưa cung cấp đủ thực phẩm cho nhân dân, ngun liệu cơng nghiệp
hàng hóa cho xuất khẩu”1.
Chính trị (ý thức):
Chúng ta chưa tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân đích thực của sự
trì trên trong nền kinh tế của nước ta và cũng chưa đề ra các chủ trương chính
sách tồn diện về đổi mới. Nhất là về kinh tế, chúng ta chưa kiên quyết khắc
phục chủ quan, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và
quản lý nền kinh tế và những sai lầm trong lĩnh vực phân phối lưu thông.
* Sau đổi mới:
Chính trị:
Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu phân tích tình hình, lấy ý kiến
rộng rãi của cơ sở, của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm lớn, trong đó:
phải ln xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan. Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây
dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Và đến Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
VII, ta đã đánh giá tình hình chính trị xã hội Việt Nam sau hơn bốn năm thực

1 />nay/, truy cập ngày 6 -11- 2021


11

hiện đường lối đổi mới: công cuộc đổi mới bước đầu đã đạt được những thành
tựu rất quan trọng, tình hình chính trị của đất nước ổ định.

Kinh tế:
“Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn,
đời sống vật chất tinh thần của một bộ phân nhân dân có phần được cải thiện.
Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy.
Đảng chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu
tiên phát triển lực lượng sản xuất, phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng
trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
và cải thiện môi trường; kết hợp phát trển kinh tế xã hội với tăng cường quốc
phòng an ninh.”2
“Cùng với q trình vận dụng của Đảng trong cơng cuộc đổi mới kinh tế
đất nước thì phát triển giáo dục và đào tạo khoa học công nghệ, xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân téc. Về giáo dục đào tạo tiếp tục nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện đổi mới nội dung phương pháp va hệ thống
quản lý giáo dục…Về khoa học công nghệ khoa học xã hội và nhân văn
hướng vào giải đáp các vấn đề lý luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát
triển , cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối chủ trương
cuả Đảng …
“Tăng cường quốc phòng và an ninh bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa là
bảo vệ vững chắc độc lập tự chủ, an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, kết

hợp chặt chẽ kinh tế quốc phòng và an ninh và kinh tế trong các chiến lược.

2 truy
cập ngày 6-11-2021

Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó
chủ động hội nhập kinh tê quốc tế và khu vực. Phát huy sức manh đại đoàn
kết toàn dân.

Không chỉ vậy kinh tế nước Việt Nam ta đã trải qua 35 năm phát triển
nền kinh tế thị trường hội nhập theo hướng xã hội chủ nghĩa xã hội và dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam đến nay vẫn áp dụng chủ nghĩa Mác-
Lênin để phát triển kinh tế nhưng ẫn có một số hạn chế như:

Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc
vận hành của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự
thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán và những bất cập trong q trình hồn thiện thể
chế kinh tế thị trường; do vậy, chưa huy động được tối đa tiềm lực để phát
triển kinh tế. Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội chưa được xử
lý phù hợp, rõ ràng, minh bạch.

Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức
tiềm năng, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao
động thấp, khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao.

Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí,
chưa cơng bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất
bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và
tinh thần của một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu,

vùng xa chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng
chung của nền kinh tế. Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức
có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ
nghĩa vị kỷ, cá nhân, coi trọng đồng tiền, xem thường truyền thống đạo lý, tác
động xấu tới đời sống xã hội.”3

Vận dụng:

3 />qua-bai-viet-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-589199.html, truy cập ngày 7-11-2021

13

- “Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật” trong đánh giá tình hình,
“Tơn trọng quy luật khách quan” trong quá trình đổi mới.

+ “ Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để
hoạch định chiến lược, sách lược phát triển đất nước.

+ Biết tìm kiếm, khai thác, tổ chức, sử dụng những lực lượng vật chất (cá
nhân-cộng đồng, kinh tế-quân sự, trong nước-ngoài nước, quá khứ-tương
lai…) để phục vụ cho sự nghiệp Đổi mới.

+ Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đoàn kết toàn dân
tộc là động lực chủ yếu phát triển đất nước.

+ Biết kết hợp hài hòa các dạng lợi ích khác nhau (kinh tế, chính trị, tinh
thần: cá nhân, tập thể, xã hội…) thành động lực thúc đẩy Đổi mới.”4

+ “Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn
trọng quy luật khách quan”


- “Khơi dậy và phát huy tối đa sức mạnh tinh thần, truyền thống tốt đẹp
của dân tộc

+ Coi sự thống nhất nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học là động
lực tinh thần thúc đẩy công cuộc Đổi mới

+ Bồi dưỡng nhiệt tình phẩm chất cách mạng, khơi dậy lòng yêu nước
nồng nàn, ý chí quật cường, tài trí người Việt Nam

+ Coi trọng và đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng (chủ nghĩa Mác –
Lê nin và tư tưởng HCM…), nâng cao và đổi mới tư duy lý luận (về CNXH
và con đường đi lên CNXH…)

+Phổ biến tri thức khoa học – công nghệ cho cán bộ, nhân dân
- Khắc phục chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, đầu óc bảo thủ, trì trệ trong
quá trình Đổi mới
+ Kiên quyết ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan duy ý chí; lối suy nghĩ,
hành động giản đơn; nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng, bất
chấp quy luật hiện thực khách quan”5

4 truy cập ngày 6-11-2021
5 truy cập ngày 6-11-2021

+ Phê phán Chống lại thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ, thói thờ ơ
lãnh đạm…

+ Phê bình tính vơ trách nhiệm trong cong việc, thiếu trách nhiệm khơng
nhận về bản thân và khơng có tinh thần trách nhiệm, thói quen hay đổi lõi co
người khác, do hoàn cảnh khi dẫn đến thất bại trong công việc hay cuộc

sống…

+ “Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước nghiên cứu,
tìm tịi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội
chủ nghĩa.

+ Những người cán bộ kinh tế nhà nước học được cách quán triệt sâu sắc
và tận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong
làm việc, trước hết là phương pháp luận toàn diện và phép biện chứng duy vật
vào việc nghiên cứu, áp dụng các chủ trương chính sách về kinh tế, các
phương pháp, cơ chế quản lý kinh tế tài chính theo tinh thần đổi mới để thúc
đẩy nền kinh tế nước ta vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển,
tránh khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực
và nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.”6

- Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế và phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa

+ Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa.

+ “Hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng và thực thi pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia.

+ Về phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, thực hiện


6 Tapchicongsan.vn, truy cập ngày 7-11-2021

15
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước sử
dụng như một công cụ, phương tiện, một động lực để xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Cơ chế vận hành của kinh tế thị trường là một cơ chế mở, bị điều tiết bởi
các quy luật kinh tế cơ bản: giá trị, cạnh tranh, cung cầu nên kinh tế thị trường
tạo ra khả năng kết nối hình thành chuỗi giá trị cho nền sản xuất toàn cầu.”7

7 />qua-bai-viet-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-589199.html, truy cập ngày 7-11-2021


×