Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

luận văn thực trạng lao động nông thôn ở các làng nghề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.14 KB, 33 trang )


Luận văn
Thực trạng lao động
nông thôn ở các làng
nghề
Lời nói đầu
Trước xu thế phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, của toàn cầu
hoá, đặc biệt là sự nổi lên của nền kinh tế tri thức và các nguồn lực ngày càng trở
nên khan hiếm hơn. Thì ngày nay con người được xem xét là yếu tố cơ bản, yếu tố
năng động cho sự phát triển bền vững. Chính vì vậy con người được đặt vào vị trí
trung tâm, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã
hội, tốc độ phát triển kinh tế của một quốc gia là do con người quyết định.
Việt nam là quốc gia có truyền thống nông nghiệp lâu đời, nông thôn hiện
đang chiếm hơn 70% lao động xã hội và đây là một nguồn lực lao động dồi dào,
đầy tiềm năng cho sự phát triển kinh tế xã hội, góp phần thực hiện thành công quá
trình CNH - HĐH (công nghiệp hoá hiện đại hoá) đất nước. Nhưng đây cũng là
thách thức lớn cho vấn đề sử dụng lao động ở nông thôn, khi mà tình trạng thất
nghiệp thiếu việc làm đang còn rất lớn và có nguy cơ ngày càng gia tăng làm kìm
hảm sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy mà em chọn đề tài ‘Thực trạng lao
động nông thôn ở các làng nghề’ để có thể góp một phần ý kiến của mình vào
việc giải quyết việc làm ở nông thôn nước ta hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Quỳnh Hoa đã giúp đỡ em hoàn
thành đề tài này. Tuy nhiên hiểu biết của em về vấn đề còn hạn chế nên em hy
vọng cụ có thể cho em ý kiến để lần sau em có thể hoàn thiện đề tài hơn. Em xin
chân thành cảm ơn.
SV: Nguyễn Phương Hiếu
Phần I
Cơ sở lý luận về nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động nông thôn ở
các làng nghề
I. Các khái niệm cơ bản về nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động ở
nông thôn


1. Các khái niệm cơ bản:
a. Khái niệm chung về lao động.
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm biến đổi các vật
chất tự nhiên thành của cải vật chất cần thiết cho đời sống của mình. Trong
quá trình sản xuất, con người sử dụng công cụ lao động tác động lên đối
tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ cho lợi ích của con người.
Lao động là điều kiện chủ yếu cho tồn tại của xã hội loài người, là cơ sở của
sự tiến bộ về kinh tế, văn hoá và xã hội. Nó là nhân tố quyết định của bất cứ
quá trình sản xuất nào. Như vậy động lực của quá trình triến kinh tế, xã hội
quy tụ lại là ở con người. Con người với lao động sáng tạo của họ đang là
vấn đề trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, phải thực
sự giải phóng sức sản xuất, khai thác có hiệu quả các tiềm năng thiên nhiên,
trước hết giải phóng người lao động, phát triển kiến thức và những khả năng
sáng tạo của con người. Vai trò của người lao động đối với phát triển nền
kinh tế đất nước nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng là rất quan trọng.
Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định
của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao động và
những người ngoài độ tủôi lao động (trên độ tủôi lao động) đang làm việc
trong các ngành kinh tế quốc dân .
Nguồn lao động về mặt số lượng bao gồm :
- Dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm.
- Và dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang thất
nghiệp, đang học, đang làm côg việc nội trợ trong gia đình, nhưng có nhu
cầu việc làm và những người thuộc tình trạng khác (bao gồm cả những người
nghỉ hưu trước tuổi quy định).
Nguồn lao động xét về mặt chất lượng, cơ bản được đánh giá ở trình độ
chuyên môn, tay nghề (trí lực ) và sức khoẻ (thể lực)của người lao động.
Lực lượng lao động theo quan niệm của tổ chức lao động Quốc tế (ILO-
International Labour Organization ) là bộ phận dân số trong độ tuổi lao
động. Theo quy định thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp

b) Khái niệm nguồn lao động ở nông thôn.
- Khái niệm về nguồn lao động nông thôn.
Nguồn lao động nông thôn là một bộ phận dân số sinh sống và làm việc ở
nông thôn trong độ tuổi lao động theo qui định của pháp luật (nam từ 16 đến 60
tuổi, nữ từ 16 đến 55 tuổi) có khả năng lao động.
Lực lượng lao động ở nông thôn là bộ phận của nguồn lao động ở nông thôn
bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, đang có việc
làm và những người thất nghiệp nhưng có nhu cầu tìm việc làm.
Tuy nhiên do đặc điểm, tính chất, mùa vụ của công việc ở nông thôn mà lực
lượng tham gia sản xuất nông nghiệp không chỉ có những người trong độ tuổi lao
động mà còn có những người trên hoặc dưới độ tuổi lao động tham gia sản xuất
với những công việc phù hợp với mình.Từ khái niệm nguồn lao động ở nông thôn
mà ta thấy lao động ở nông thôn rất dồi dào, nhưng đây cũng chính là thách thức
trong việc giải quyết việc làm ở nông thôn.
- Khái niệm sử dụng nguồn lao động.
Là hình thức phân công người lao động vào công việc mỗi công việc có
đặc tính khác nhau về chuyên môn, hình thái. Sử dụng có hiệu quả nguồn lao động
thực chất là việc phân bố nguồn lao động một cách hợp lý sao cho việc sử dụng
lao động này đạt được mục đích là tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.
Phân bố nguồn lao động chính là việc phân phối, bố trí hình thành nguồn
lao động theo quy luật, xu hướng tiến bộ vào các lĩnh vực hoạt động, các ngành
kinh tế, các vùng lãnh thổ.
Xét về bản chất thì đó là sự đổi mới tình trạng phân công lao động ngày
càng tiến bộ hơn và đạt trình độ ngày càng cao hơn.
Phân bố nguồn lao động hợp lý phải phối hợp kết hợp hài hoà nhiều biện
pháp phân bổ theo từng lĩnh vực sản xuất, từng ngành, từng nội bộ ngành kinh tế,
từng vùng lãnh thổ trong phạm vi quốc gia. Một xu hướng có tính quy luật là lực
lượng lao động được phân bổ và lĩnh vực sản xuất vật chất ngày càng giảm và khi
nền kinh tế phát triển thì nhu cầu về hưởng thụ văn hoá tinh thần ngày càng cao và
đây là nhu cầu vô hạn.

Đào tạo lao động, nâng cao trình độ lành nghề, trình độ chuyên môn kỹ
thuật, chăm sóc sức khoẻ cho người lao động, nâng cao năng lực quản lý, chỉ đạo
và tổ chức sản xuât. Trong lĩnh vực không sản xuất vật chất phân bổ tỷ trọng lớn
lao động vào các ngành nghiên cứu khoa học, y tế giáo dục, văn hoá thể thao,
giảm lao động trong quản lý hành chính, lao động quản lý.Trong lĩnh vực sản xuất
vật chất tăng tỷ trọng lao động, giảm tỷ trong lao động trong ngành nông nghiệp,
bởi vì tăng năng suất lao động trong các ngành trên là thuận lợi hơn nó tác động
trở lại ngành nông nghiệp.
2. Vai trò của nguồn lao động nông thôn
Lao động là một trong ba nhân tố của bất cứ một quá trình sản xuất nào và
trong thời đại ngày nay khi mà các nguồn lực trở nên khan hiếm thì nó được xem
xét là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất, vai trò của nguồn lao động nói
chung và nguồn lao động nông thôn nói riêng là rất quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nước ta đang
thực hiện CNH - HĐH đất nước trong đó CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn
được đặc biệt quan tâm. Vì vậy lao động nông thôn có vai trò hết sức quan trọng
nó được thể hiện qua các mặt sau:
a. Nguồn lao động nông thôn tham gia vào quá trình phát triển các ngành
trong nền kinh tế quốc dân.
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, nguồn lực trong nông
nghiệp có số lượng lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lao động xã hội. Song,
cùng với sự phát triển của quá trình công nghiệp hoá, nguồn nhân lực trong nông
nghiệp vận động theo xu hướng giảm xuống cả tương đối và tuyệt đối. Quá trình
biến đổi đó diễn ra theo hai giai đoạn sau:
- Giai đoạn đầu: diễn ra khi đất nước bắt đầu công nghiệp hoá, nông nghiệp
chuyển sang sản xuất hàng hoá, năng suất lao động nông nghiệp được giải phóng
trở nên dư thừa và được các ngành khác thu hút, sử dụng vào hoạt động sản xuất-
dịch vụ. Nhưng do tốc độ tăng tự nhiên của lao động trong khu vực công nghiệp
còn lớn hơn tốc độ thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp, do đó ở thời kỳ này tỷ
trọng lao động nông nghiệp mới giảm tương đối, số lượng lao động tuyệt đối còn

tăng lên. Giai đoạn này dài hay ngắn là tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của nền
kinh tế của đất nước quyết định. Chúng ta có thể nhìn thấy hiện tượng này ở Việt
Nam hiện nay đó là hiện tượng có nhiều nông dân bỏ ruộng và đi làm các việc phi
nông nghiệp khác hoặc đi làm thuê với thu nhập cao hơn là làm nông nghiệp.
- Giai đoạn thứ hai: nền kinh tế đã phát triển ở trình độ cao, năng suất lao
động nông nghiệp tăng nhanh và năng suất lao động xã hội đạt trình độ cao. Số lao
động dôi ra do nông nghiệp giải phóng đã được ngành khác thu hút hết. Vì thế giai
đoạn này số lượng lao động ở nông thôn giảm cả tương đối và tuyệt đối.
b. Nguồn lao động nông thôn tham gia vào sản xuất lương thực thực phẩm.
Nước ta là một nước có truyền thống nông nghiệp lâu đời dân số sông chủ
yếu bằng nghề nông. Vì vậy, nguồn lao động nông thôn tham gia vào sản xuất
nông nghiệp là rất đông đảo. Cùng với sự đi lên của nền kinh tế và sự gia tăng về
dân số thì nhu cầu về lương thực thực phẩm ngày càng gia tăng.
Việc sản xuất lương thực thực phẩm chỉ có thể đạt được trong ngành nông
nghiệp và sức lao động để tạo ra lương thực, thực phẩm là do nguồn lao động
nông thôn cung cấp.
Nền kinh tế phát triển gắn với sự phát triển của quá trình đô thị hoá, thu
nhập của người dân tăng lên đòi hỏi khối lượng lương thực, thực phẩm ngày càng
lớn và yêu cầu về chất lượng cũng ngày càng cao. Để có thể đáp ứng đủ về số
lượng và đáp ứng yêu cầu về chất lượng thì nguồn lao động nông thôn phải được
nâng cao về trình độ tay nghề và kinh nghiệm sản xuất
c. Nguồn lao động nông thôn tham gia vào quá trình sản xuất nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến Nông - Lâm - Thuỷ sản .
Công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản với các yếu tố đầu vào là các sản
phẩm mà người lao động nông thôn làm ra. Trong thời kỳ CNH - HĐH thì phát
triển công nghiệp chế biến là rất quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của sản
phẩm nông nghiệp.
d. Lao động nông thôn là thị trường tiêu thụ sản phẩm của các ngành khác.
Lao động nông thôn là thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn của các ngành
khác và của chính bản thân ngành nông nghiệp, có thể nói nông thôn là một thị

trường tiêu thụ rộng lớn cần phải được khai thác triệt để.
3. Đặc điểm chung của lực lượng lao động nông thôn trong các làng nghề
Đặc điểm chung của lực lượng lao động trong các làng nghề là tận dụng
triệt để lao động trong và ngoài độ tuổi, phân công theo hướng chuyên môn
hoá từng khâu, từng công đoạn của quá trỡnh sản xuất. Hàng loạt cỏc hệ thống
dịch vụ được phát triển đồng bộ như thu gom, vận chuyển nguyên liệu. Bên
cạnh đó, cũn cỏc lực lượng lao động hoạt động trong khâu bán hàng hoặc
trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ phục vụ nhu cầu sản xuất và đời sống ngày
càng cao ở các làng nghề

Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp có đặc điểm khác với đặc điểm của
các ngành khác. Vì vậy, lao động nông thôn trong các làng nghề cũng có những
đặc điểm khác với lao động ở các ngành kinh tế khác, cụ thể nó ở các mặt sau:
a.Lao động nông thôn mang tính thời vụ.
Cuộc sống của cư dân nông nghiệp gắn liền với cơ chế sản xuất
mùa vụ, làng nghề ở nông thôn gắn liền với các địa danh nông nghiệp
cận vùng thị tứ, thương nghiệp và người nông dân làm nghề thủ công để
giải quyết hợp lý sức lao động dư thừa được cơ cấu theo đặc trưng nông
nghiệp là mùa vụ
Đây là đặc điểm dặc thù không thể xoá bỏ được của lao động nông thôn.
Nguyên nhân của nét đặc thù trên là do: đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây
trồng vật nuôi chúng là những cơ thể sống trong đó quá trình tái sản xuất tự nhiên
và tái sản xuất kinh tế đan xen nhau.
Cùng một loại cây trồng vật nuôi ở những vùng khác nhau có điều kiện tự
nhiên khác nhau chúng cũng có quá trình sinh trưởng và phát triển khác nhau.
Tính thời vụ trong nông nghiệp là vĩnh cửu không thể xáo bỏ được trong quá trình
sản xuất chúng ta chỉ có thể tìm cách làm giảm tính thời vụ của sản xuất nông
nghiệp. Từ đó đặt ra vấ đề cho việc sử dụng các yếu tố đầu vào của qúa trình sản
xuất, đặc biệt là vấn đề sử dụng lao động nông thôn một cách hợp lý có ý nghĩa rất
quan trọng.

b. Nguồn lao động nông thôn tăng về số lượng.
Dân số được coi là yếu tố cơ bản quyết định số lượng lao động: qui mô và
cơ cấu của dân số có ý nghĩa quyết định đến qui mô cơ cấu của nguồn lao động.
Theo số liệu tổng điều tra dân số năm 2009. 70% dân số nước ta đang
sống ở khu vực nông thôn, lao động nông thôn hiện chiếm 75% tổng lực lượng
lao động cả nước và chủ yếu tập trung sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp
c. Chất lượng nguồn lao động nông thôn chưa cao.
Chất lượng của người lao động được đánh gía qua trình độ học vấn,
chuyên môn kỹ thuật và sức khoẻ.
- Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật: nguồn lao động của nước ta
đông về số lượng nhưng sự phát triển của nguồn nhân lực nước ta còn nhiều hạn
chế, nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu khắt khe trong bối cảnh đất nước đang
hội nhập kinh tế quốc tế trong đó nông nghiệp được xem là một trong những thế
mạnh.
Riêng lao động nông thôn chiếm hơn 3/4 lao động của cả nước. Tuy vậy
nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn chưa phát huy hết tiềm năng do trình độ
chuyên môn của lao động thấp kỹ thuật lạc hậu. Do đó, để có một nguồn lao động
với trình độ chuyên môn kỹ thuật cao thì nhà nước cần phải có chính sách đào tạo
bồi dưỡng để có nguồn nhân lực đủ trình độ để phát triển đất nước.
- Về sức khoẻ.
Sức khoẻ của người lao động nó liên quan đến lượng calo tối thiểu cung
cấp cho cơ thể mỗi ngày, môi trướng sống, môi trường làm việc,vv Nhìn chung
lao động nước ta do thu nhập thấp nên dẫn đến các nhu cầu thiết yếu hàng ngày
chưa đáp ứng được một cách đầy đủ. Vì vậy, sức khẻo của nguồn lao động cả
nước nói chung và của nông thôn nói riêng là chưa tốt.
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn lao động ở nông thôn
1. Các nhân tố ảnh hưởng đến số lượng lao động
a. Dân số
Dân số được coi là yếu tố cơ bản quyết định số lượng lao động : qui mô và
cơ cấu của dân số có ý nghĩa quyết định đến qui mô và cơ cấu của nguồn lao động.

Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sự biến động của dân số là: phong tục, tập quán
của từng nước, trình độ phát triển kinh tế, mức độ chăm sóc y tế và chính sách của
từng nước đối với vấn đề khuyến khích hoặc hạn chế sinh đẻ. Từ đó nó ảnh hưởng
đến qui mô của dân số, đến nguồn lao động
b.Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là phần trăm của dân số trong độ tuổi lao
động tham gia lực lượng lao động trong tổng số nguồn nhân lực. Nhân tố cơ bản
tác động đến tỷ lệ tham gia lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động.
Nhưng do đặc điểm của lao động nông thôn bao gồm cả những người trên và dưới
độ tuổi lao động vẫn thích hợp với một số công việc và vẫn phát huy được khả
năng của họ.
c. Thất nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp.
Thất nghiệp là hiện tượng những người trong độ tuổi lao động có khả năng
lao động, đang không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm tại thời điểm
điều tra. Số người không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến số người làm việc và ảnh
hưởng đến kết quả hoạt động của nền kinh tế.Thất nghiệp là vấn đề trung tâm của
mọi quốc gia vì nó không chỉ tác động về mặt kinh tế mà nó còn ảnh hưởng đến
vấn đề xã hội.
Theo cách tính thông thường tỷ lệ thất nghiệp tính bằng tỷ lệ % giữa tổng
số người thất nghiệp với tổng số nguồn lao động. Nhưng đối với các nước đang
phát triển tỷ lệ thất nghiệp này chưa phản ánh đúng sự thực về nguồn lao động
chưa sử dụng hết. Trong thống kê thất nghiệp ở các nước đang phát triển, số người
nghèo thường chiếm tỷ lệ rất nhỏ và khi họ thất nghiệp thì họ cố gắng không để
thời gian kéo dài. Bởi vì họ không có các nguồn lực dự trữ, họ phải chấp nhận mọi
việc nếu có. Do đó ở các nước đang phát triển biểu hiện tình trạng chưa sử dụng
hết lao động người ta sử dụng khái niệm thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá
hình. Thất nghiệp trá hình bao gồm bán thất nghiệp và thất nghiệp vô hình. Tình
trạng này xảy ra phổ biến ở nông thôn của các nước đang phát triển cũng như ở
nông thôn Việt nam.
d. Dòng di chuyển nông thôn – thành thị.

Trước năm 1986 dòng di chuyển nông thôn - đô thị đặc biệt là đô thị lớn
được hạn chế tới mức tối đa và chủ yếu dưới dạng phân công công tác. Tuy nhiên,
cùng với sự thành công của chính sách khoán trong nông nghiệp, việc xoá bỏ chế
độ bao cấp trong phân phối, các chính sách cải cách trong khu vực nông nghịêp
nông thôn, sự đô thị hoá và sự nới lỏng của chế độ hộ khẩu đã tạo nên những dòng
di chuyển lao động từ nông thôn ra thành phố, thị xã, thị trấn làm thuê dài ngày
hoặc chỉ tìm việc làm trong những tháng nông nhàn để có thu nhập cao hơn.
Điều đó đã dẫn tới số lao động ở nông thôn bị giảm sút đồng thời lao động ở thành
thị tăng nhanh. Mặt khác, do không có trính độ chuyên môn kỹ thuật nên số lao
động này cũng chỉ làm những công việc nặng nhọc, bán hàng rong ở thành phố
nên thu nhập không cao nhưng cũng giải quyết được vấn đề việc làm trong lúc
nông nhàn. tuy nhiên việc lao động nông thôn ra thành phố đông nên đó cũng
chính là gánh nặng cho thành phố về các vấn đề như môi trường, an ninh trật tự.
Do đó vấn đề đặt ra là phải tạo việc làm cho người lao động nông thôn ngay trên
chính quê hương của họ, tạo việc làm để tăng thu nhập ngay trên chính quê hương
của họ bằng nhiều biện pháp như : Đa dạng hoá cây trồng vật nuôI, cho người
nghèo vay vốn với lãi suất ưu đãi vv…
e. Dòng di chuyển lao động ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Đây là hiện tượng những người lao động ở nông thôn đi xuất khẩu lao
động, đó là một trong những hướng đi của một số ít người chứ không phải là đa
số, bởi vì những người có khả năng xuất khẩu lao động ở nông thôn là rất ít và
những yêu cầu của nươc nhập khẩu lao động là khá cao nên dòng di chuyển này
rất ít ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động ở nông thôn.
Số lượng lao động mới phản ánh được một mặt sự đóng góp của lao động
vào phát triển kinh tế. Mặt khác, cần được xem xét đến chất lượng nguồn lao
động, đó là yếu tố làm cho lao động có năng suất cao hơn. Chất lượng lao động có
thể được nâng cao nhờ giáo dục, đào tạo, nhờ sức khỏe của người lao động, nhờ
bố trí điều kiện lao động tốt hơn.
- Giáo dục được coi là một dạng quan trọng nhất của sự phát triển tiềm

năng của con người theo nhiều nghĩa khác nhau. Yêu cầu chung đối với giáo dục
là rất lớn, nhất là đối với giáo dục phổ thông, con người ở mọi nơi đều tin rằng
giáo dục rất có ích cho bản thân mình và con cháu họ. Bằng trực giác, mọi người
có thể thấy mối quan hệ giữa giáo dục và mức thu nhập. Ví dụ như đã tốt nghiệp
hết cấp III có thu nhập cao hơn những người mới tốt nghiệp cấp I, nhưng đa số là
như vậy, và mức thu nhập của họ đều cao hơn nhiều. Nhưng để đạt được trình độ
giáo dục nhất định cần phải chi phí khá nhiều, kể cả chi phí gia đình và chi phí của
quốc gia. Đó chính là khoản đầu tư cho con người. ở các nước đang phát triển giáo
dục được thực hiện dưới nhiều hình thức nhằm không ngừng nâng cao trình độ
văn hoá và chuyên môn kỹ thuật cho mọi người. Kết quả giáo dục làm tăng lực
lượng lao động có trình độ tạo khả năng thúc đẩy đổi mới công nghệ. Vai trò của
giáo dục còn được đánh giá qua tác động của nó đối với việc tăng năng suất lao
động của mỗi cá nhân nhờ có nâng cao trình độ và tích luỹ kiến thức.
- Giống như giáo dục, sức khoẻ làm tăng chất lượng của nguồn nhân lực cả
hiện tại và tương lai, người lao động có sức khoẻ tốt có thể mang lại những lợi
nhuận trực tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung trong
khi đang làm việc.Việc nuôi dưỡng và chăm sóc sức khẻo tốt cho trẻ em sẽ là yếu
tố làm tăng năng suất lao động trong tương lai, giúp trẻ em phát triển thành những
người khỏe về thể chất, lành mạnh về tinh thần. Hơn nữa điều đó còn giúp trẻ em
nhanh chóng đạt được những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho sản xuất thông qua
giáo dục ở nhà trường. Những khoản chi cho sức khỏe còn làm tăng nguồn nhân
lực về mặt số lượng bằng việc kéo dài tuổi lao động.
Ngoài yếu tố giáo dục và sức khoẻ, nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao
động còn có động lực lao động. Đây là một nhân tố quan trọng trong việc nâng cao
năng suất lao động. Những người lao động ở nông thôn được xem là cần cù, chịu
thương, chịu khó do đó ý thức, trách nhiệm lao động của họ là rất tốt.
Phần II
Thực trạng lao động nông thôn ở c á c làng nghề của nước ta hiện nay
1. Sự chuyển dịch lao động nông thôn.
a. Sự chuyển dịch lao động nông thôn theo vùng.

BẢNG 1. Số người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên
Đơn vị: Nghìn người
Năm Tổng số Nông thôn
1996 34907,6 28444,0
1997 34716,4 27857,4
1998 36018,3 28795,9
1999 35731,1 27807,2
2000 36205,5 28019,6
2001 37677,4 28958,5
2002 39289,6 30094,1
2003 39585,0 30051,4
2004 40792,6 30651,9
Nguồn: Thực trạng lao động - việc làm 1996 đến 2004 tổng cục thống kê
Thời điểm 1996, lực lượng lao động từ đủ 15 tuổi trở lên của cả nước là
34.907.600 người. Trong đó khu vực nông thôn có 28.444.000 lao động chiếm
81,48% lực lượng lao động toàn quốc .
Đến năm 2004, lực lượng lao động ở khu vực nông thôn tăng thêm là
40.792.600 người. Lực lượng lao động nông thôn hiện nay chiếm tỷ trọng lớn
(75,14%). Do đó, để thực hiện tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn thì
việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo vùng theo ngành nghề tạo ra nhiều việc làm
để thu hút lao động ở nông thôn đang là vấn đề bức xúc cần được giải quyết.

Bảng 2. Dân số nông thôn trung bình phân theo địa phương

Đơn vị: Nghìn người
2000 2004 2005 2006 2007 Sơ
bộ.2008
Cả n−ớc - Whole country
58863,5 60294,5 60769,5 61344,2 61772,8 61977,5
Đồng bằng sông Hồng –

Red River Delta
14142,2 14036,8 14226,7 14350,5 14376,4 14284,5
Trung du miền núi phía
Bắc Northern midlands
and mountain areas
8771,9 9121,0 9201,8 9290,1 9389,4 9455,5
Bắc Trung Bộ duyên hải
miền Trung North
Central area and central
coastal area
14732,7 15151,8 15194,9 15254,8 15322,5 15343,2
Tây Nguyên – Central
Highlands

3101,7

3367,5

3424,7

3506,4

3558,6

3606,2
Đông Nam Bộ - South
East

4646,2


4996,3
5071,4
5218,5

5320,8

5391,6
Đồng bằng sông Cửu
Long - Mekong River
Delta

13468,8

13621,1

13650,0

13723,9

13805,2

13896,5

Nguồn: số liệu dân số và lao động
Sự phân bố lực lượng lao động ở khu vực nông thôn giữa các vùng trong cả
nước là không hợp lý so với tiềm năng của các vùng. Đồng bằng Sông Hồng và
vùng Đồng bằng Sông Cửu Long là hai vùng có tổng số lao động cao nhất cả
nước, nguồn lao động dồi dào và đó cũng là hai vùng sản xuất nông nghiệp lớn
nhất trong cả nước. Trong khi đó Tây bắc và Tây nguyên hai vùng có tỷ trọng lao
động thấp nhất so với các vùng trên nhưng lại có ưu thế về quy mô đất đai và các

điều kiện tự nhiên khác nhưng lại thiếu lao động đặc biệt là lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao. Do đó để tránh tình trạng lãng phí trong việc sử dụng
lao động thì cần phải có sự bố trí sắp xếp lại lao động giữa các vùng trong cả
nước. Vùng Đồng bằng Sông Hồng và vùng Đồng bằng Sông Cửu Long là hai
vùng có số lượng lao động đông đảo nhất, hai vùng này đã tạo ra hơn 2,5 triệu việc
làm mỗi năm. Các vùng khác như Đông Bắc và Tây nguyên chỉ chiếm dưới 5%
tổng số việc làm cả nước. Tuy nhiên ở các vùng phía bắc, tỷ lệ việc làm có phần
cao hơn tỷ lệ dân số. Ngoại trừ đồng bằng Sông Cửu Long, các vùng khu vực
miền trung và phía nam có tỷ lệ việc làm thấp hơn một chút so với tỷ lệ dân số.
Theo số liệu tổng điều tra dân số năm 2009, 70% dân số nước ta đang sống ở
khu vực nông thôn, lao động nông thôn hiện chiếm 75% tổng lực lượng lao động
cả nước và chủ yếu tập trung sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, năng suất lao
động thấp, phương thức sản xuất lạc hậu, hiệu quả sản xuất không cao. Giai đoạn
2000-2007, tốc độ tăng trưởng lao động của cả nước đạt 2,79%, trong đó tốc độ
tăng trưởng của lao động nông thôn là 2,18%. Năm 2007, lực lượng lao động nông
thôn của cả nước là 34,8 triệu người, chiếm 74,5% tổng lực lượng lao động, trong
đó số người nằm trong độ tuổi lao động là 32,73 triệu người. Lao động nông thôn
vùng đồng bằng sông Hồng chiếm 22,3%, vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm
21,5%, Tây Bắc chiếm 3,18% và Tây Nguyên chiếm 5,59% Lực lượng dồi dào
như vậy nhưng trỡnh độ chuyên môn của lao động nông thôn chưa cao. Hiện lao
động có việc làm và kỹ năng chuyên môn chỉ chiếm 16,8%, cũn lại 83,2% là lao
động chưa qua đào tạo, chưa có trỡnh độ kỹ thuật chuyên môn. Thêm vào đó, hầu
hết các thị trường lao động vẫn chỉ tập trung chủ yếu ở các tỉnh, thành phố có
nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất và ở ba vùng kinh tế trọng điểm. Ở vùng
nông thôn, vùng sâu vùng xa, thị trường lao động lại chưa phát triển nên dẫn đến
thực trạng là nơi thừa, nơi thiếu lao động. Đây cũng chính là hạn chế lớn nhất của
lao động nông thôn làm cho việc khai thác nguồn nhân lục ở đây vẫn còn yếu
kém
b. Sự chuyển dịch lao động theo ngành.
Cơ cấu lao động chuyển dịch còn chậm, lao động vẫn tập trung chủ yếu

trong nông nghiệp: lực lượng lao động làm trong các ngành nông nghiệp vẫn
chiếm khoảng 59,04% tổng lực lượng lao động cả nước, giảm 10,63% so với năm
2002. Lao động trong các làng nghề ít nhiều có sự biến động tăng giảm. Tuy nhiên
lực lượng lao động ở các làng nghề đều tập trung tại các hộ gia đình sử dụng thời
gian nhàn rỗi để tham gia sản xuất, ngoài ra việc sản xuất cũng bị ảnh hưởng của
các yếu tố như thời tiết, mùa vụ,…do đó tình hình biến động lao động tự nhiên là
thường xuyên và rất lớn. Nhìn chung tình hình tăng giảm lao động tham gia sản
xuất tại các làng nghề có phát sinh nhưng nếu nói là mất hẳn việc làm thì chưa rõ
ràng: Khi bị ảnh hưởng của thời tiết, mùa vụ thì người lao động xen kẽ làm nghề
khác như chạy xe ôm, mua bán nhỏ hoặc sản xuất nông nghiệp,…Khi việc sản
xuất tại làng nghề thuận lợi thì người lao động lại quay lại với công việc của làng
nghề. Đông Nam Bộ là vùng có sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng
CNH_HĐH nhất cả nước, tỷ lệ lao động hợp lý nhất cả nước: 29,23%- 29,99-
40,78 tiếp đó là đồng bằng Sông Hồng…vv
Bảng 3. Tỷ lệ % lao động làm việc trong các nhóm ngành kinh tế
Vùng địa lý kinh tế Nông-lâm-ngư
nghiệp
CN &XD DV
.B Sông hồng 56.13 20,27 23,60
Đông bắc 76,28 8,83 14,89
Tây bắc 86,81 3,53 9,66
Bắc Trung bộ 68,12 13,59 18,29
D hải Nam Trung bộ 54,74 18,49 26,77
Tây nguyên 73,18 7,59 19,23
Đông Nam bộ 29,99 29,23 40,78
Đ.b Sông Cửu long 61,28 12,69 26,03
Nguồn: Tổng cục thống kê
Do cách tổ chức sản xuất đa dạng và linh hoạt, nên các làng nghề thu hút
khoảng 11,5 triệu lao động nông thôn (trong đó có khoảng 3,5 triệu lao động
thường xuyên), bao gồm cả lao động bán thời vụ, học sinh sau khi học ở trường

về, thậm trí cả công trức địa phương sau giờ làm việc cũng cùng làm cùng các
thành viên khác trong gia đình
2. Quy mô nguồn lao động ở các làng nghề.
Hiện nay cả nước có 2.790 làng nghề, trong đó có 240 làng nghề truyền
thống. Hiện các làng nghề đang giải quyết việc làm cho khoảng 11 triệu lao động,
bao gồm cả lao động thường xuyên và lao động không thường xuyên.
trong năm 2009 đó cú trờn 50% lao động làng nghề (dưới 30 % lao động thời vụ
và trên 20% lao động thợ giỏi, thợ chuyên) phải mất việc, tương đương với
khoảng hơn 5 triệu lao động làng nghề phải mất việc làm. Và tỡnh trạng này nếu
kộo dài sẽ gõy nờn gỏnh nặng cho toàn xã hội. "Những làng nghề cú 70 đến
80% lao động phát triển thủ công làng nghề thì thường đời sống của người dân
làng đó sẽ rất nề nếp, văn minh cao nên thường ổn định về mặt văn hoá xã
hội. Bởi vì, thường làng nghề gắn liền với yếu tố văn hoá lịch sử và có tính nhân
văn cao khi nó tạo ra việc làm cho cả người già, trẻ em và cả người khuyết tật".
Giai đoạn 2000-2007, tốc độ tăng trưởng lao động của cả nước đạt 2,79%,
trong đó tốc độ tăng trưởng của lao động nông thôn là 2,18%. Năm 2007, lực
lượng lao động nông thôn của cả nước là 34,8 triệu người, chiếm 74,5% tổng lực
lượng lao động, trong đó số người nằm trong độ tuổi lao động là 32,73 triệu người.
Lực lượng dồi dào như vậy nhưng trinh độ chuyên môn của lao động nông thôn
chưa cao. Hiện lao động có việc làm và kỹ năng chuyên môn chỉ chiếm 16,8%,
cũn lại 83,2% là lao động chưa qua đào tạo, chưa có trình độ kỹ thuật chuyên môn.
Thêm vào đó, hầu hết các thị trường lao động vẫn chỉ tập trung chủ yếu ở các tỉnh,
thành phố có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất và ở ba vùng kinh tế trọng
điểm. Ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, thị trường lao động lại chưa phát triển
nên dẫn đến thực trạng là nơi thừa, nơi thiếu lao động. Đây cũng chính là hạn chế
lớn nhất của lao động nông thôn làm cho việc khai thác nguồn nhân lục ở đây vẫn
còn yếu kém.
3. Chất lượng nguồn lao động nông thôn
Chất lượng nguồn nhân lực trong các làng nghề cũng thấp. Theo
khảo sát của Hiệp hội làng nghề. 30% số chủ doanh nghiệp chưa qua đào

tạo chuyên môn ; 50% số lao động chưa tốt nghiệp PTTH họăc tiểu
học;80% số lao động chưa qua đào tạo nghề
Thiếu nhân lực trình độ cao trong các làng nghề là một trong 6 khó
khăn lớn nhất mà các làng nghề đang phải đối mặt .Đặc biệt, năng lực
quản lí của các chủ cơ sở sản xuất trong các làng nghề cũng rất yếu.số
đông các chủ cơ sở sản xuất không có chiến lược phát triển kinh doanh rừ
ràng; 90% không thể giao tiếp trực tiếp được với người nước ngoài; chỉ có
15% biết sử dụng e-mail trong các dao dịch Điều này đó hạn chế, thậm
chớ bỏ lỡ cơ hội kinh doanh với các đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó, có
tới 80% không được đào tạo về quản lý tài chính, không biết phân tích
một báo cáo tài chính; thiếu các kĩ năng marketing. Chính vì điều này mà
qua thống kê cho thấy, có đến 70% đến 75% số lượng hàng hóa sản xuất
trong các làng nghề phải xuất khẩu gián tiếp qua các công ty hoặc qua các
địa phương khác
Bảng4: Dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế thường xuyên chia theo
trình độ học vấn khu vực nông thôn năm 2002
Vùng kinh tế Tổng số
Chưa
biết chữ
Chưa tốt
nghiệp
tiểu học
Đã tốt
nghiệp
tiểu học
Đã tốt
nghiệp
PT cơ sở
Đã tốt
nghiệp PT

trung học
ĐB Sông
Hồng
7464749 59964 516398 1671468 3976089 1240830
Đông bắc 3984891 357729 594746 1295269 1325865 411282
Tây bắc 1063922 219141 252153 341757 151510 99361
Bắc trung bộ 4294568 148228 444781 1144683 1944342 612534
Duyên hải
miền trung
2502660 89250 530953 1089694 589655 203108
Tây nguyên 1586719 203085 334164 558219 324607 166644
Đông nam
bộ
2978863 100584 684624 1305317 542897 345441
Đồngbằng
sông Cửu
Long
7136327 250754 2271278 3172114 855315 586866
Nguồn: Niên giám thống kê lao động thương binh và xã hội 2002
Một nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững cần dựa vào ba yếu tố cơ
bản là: áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Quá trình phát triển nguồn nhân lực con người là quá
trình biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu để ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu
cầu của nền kinh tế. Trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, hiện nay chúng ta càng nhận thức rõ vai trò quyết định của
nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao vốn là yếu tố vật chất
quan trọng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất.
Là một quốc gia đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo song tình hình
sức khoẻ của người lao động nông thôn còn hạn chế nhất là về cân nặng và chiều
cao. Điều này chịu ảnh hưởng rất lớn của việc sinh hoạt ăn uống hàng ngày hay

nói đúng hơn là bị chi phối bởi mức thu nhập.
Do dân số và lao động tăng nhanh, năng suất lao động thấp kém vì vậy
mức thu nhập của dân cư nông thôn rất thấp. Cuộc điều tra mức sống tiến hành
năm 1992-1993 và số liệu thống kê cũng cho thấy mức thu nhập bình quân đầu
người một tháng ở nông thôn là 148,1 nghìn đồng (1994), có 20,6% số hộ thu
nhập không đủ thanh toán khẩu phần ăn duy trì cuộc sống, 21,55% số hộ thu nhập
dưới mức trung bình 18,13% số hộ có thu nhập khá và chỉ có 7,1% số hộ có thu
nhập cao. Như vậy, số hộ có thu nhập dưới mức trung bình và không đủ ăn chiếm
tới 42,15%, số nghèo ở vùng nông thôn là 57% gấp 2 lần số nghèo ở thành thị, cho
nên khoảng 90% số hộ nghèo thuộc về nông thôn, kết quả từ cuộc điều tra mức
sống dân cư năm 1997-1998 cho thấy tỷ lệ đói nghèo đã giảm từ 50% (1993)
xuống còn 30-35%.
Điều đáng chú ý là cơ cấu thu nhập của dân cư nông thôn cho đến nay vẫn
dựa chủ yếu vào nông nghiệp và lâm nghiệp (năm 1996 - 49,2%) và xu hướng này
ít thay đổi so với các năm trước (1993 - 51,57%)
Sức khoẻ và thể trạng của người Việt Nam nói chung là nhỏ bé, hạn chế
nhiều về thể lực, cho dù có bù lại ưu thế về sự chăm chỉ, siêng năng, dẻo dai thì
thể lực như vậy cũng khó trụ vững được trong những dây chuyền sản xuất đòi hỏi
cường độ làm việc cao.
4. Thực trạng sử dụng nguồn nhân lực và đào tạo nghề cho lao động trong các
làng nghề
a. Thực trạng sử dụng nguồn nhân lực
Trong những năm đổi mới vừa qua Việt nam đã đạt dược những thành tựu
kinh tế to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy vậy, nông thôn Việt
nam hiện đang chiếm hơn 70 % lao động xã hội và thách thức lớn nhất trong khu
vực này là tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm của người lao động đang rất lớn
và có thể tiếp tục gia tăng.
Cả nước có 2.790 làng nghề, trong đó có 240 làng nghề truyền thống. Hiện
các làng nghề đang giải quyết việc làm cho khoảng 11 triệu lao động, bao gồm cả
lao động thường xuyên và lao động không thường xuyên. Trong năm 2009 đó cú

trờn 50% lao động làng nghề (dưới 30 % lao động thời vụ và trên 20% lao động
thợ giỏi, thợ chuyên) phải mất việc, tương đương với khoảng hơn 5 triệu lao động
làng nghề phải mất việc làm. Và tình trạng này nếu kéo dài sẽ gây nên gánh nặng
cho toàn xã hội.
Nhiều làng nghề truyền thống hiện nay số nghệ nhân chỉ đếm trên đầu
ngón tay, những năm gần đây thanh niên trong các làng nghề không say mê với
nghề như ngày trước nữa. Nhiều người học việc tỏ ra có năng khiếu nhưng chỉ
được một thời gian lại chuyển sang nghề khác để có thu nhập cao hơn. Hiện tại,
nếu có khách hàng đến đặt hàng với số lượng lớn là cơ sở đành bó tay vì thợ có tay
nghề rất hiếm, nguyên nhân các thợ trẻ không gắn bó với nghề là do thu nhập
không ổn định, công việc nặng nhọc và đòi hỏi tính kiên nhẫn
Ở hầu hết các làng nghề đều xảy ra khá phổ biến tình trạng lao động trẻ đang
quay lưng lại với nghề truyền thống, ví dụ như ở làng gốm phần lớn công nhân
làm gốm tại các cơ sở hiện nay có độ tuổi từ 40 trở lờn, từ 30 tuổi trở xuống thì rất
ít. Cụng việc của một thợ gốm khá vất vả và thường xuyên lấm lem đất nhưng thu
nhập lại không cao, bình quân 1 người chỉ đạt khoảng 1,7 triệu đồng/tháng, là lý
do mà lao động trẻ không mấy mặn mà.Với đà giảm sút lao động như hiện nay,
sắp tới ngành gốm sẽ thiếu hụt nhân lực nghiêm trọng". Theo Sở Công thương,
năm 2006, ngành gốm có trên 4.300 người, nhưng đến nay giảm gần 1.000 lao
động.
BẢNG 5: Tỷ lệ thời gian làm việc sử dụng lao động trong độ tuổi ở khu vực
nông thôn
Đơn vị: %
Năm 2000 2003 2004 2005 2006 2007
Tỷ lệ thời gian làm việc
được sử dụng
74,16 75,42 77,65 79,10 80,65 81,79
Nguồn: Niên giám thống kê 2007- Tổng cục thống kê
Trong thời gian qua ở khu vực nông thôn mặc dù đó được đầu tư hỗ trợ
phát triển nhưng vẫn chưa phát huy hết tiềm năng và lợi thế, khu vực nông thôn

vẫn thiếu việc làm cho lao động, tỷ lệ sử dụng thời gian mới đạt khoảng 80%, dẫn
đến hiện tượng lao động nông thôn tràn ra thành thị tìm việc làm ngày càng nhiều.
Nguyên nhân thiếu việc làm ở khu vực này là do tỷ lệ sinh cao trong thời
kỳ trước nên hiện nay số người bước vào độ tuổi lao động là khá lớn đó làm tăng
thêm số lao động không có việc làm.
Tình trạng thất nghiệp ở nông thôn là do nhiều địa phương đang tiến hành
đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh, số lượng người không có việc làm tăng do
đất sản xuất nông nghiệp bị chuyển đổi mục đích sử dụng. Trong khi đó việc tổ
chức thực hiện hỗ trợ dạy nghề, chuyển đổi ngành nghề cho người dân nông thôn
lại chưa hiệu quả.
b.Thực trạng đào tạo nghề cho lao động trong các làng nghề
Về đào tạo nguồn nhân lực, các hoạt động đào tạo, truyền nghề tại các
làng nghề đó cú truyền thống từ xa xưa với những hỡnh thức khỏ đa dạng và
truyền nghề là hình thức phổ biến nhất hiện nay.Nếu trước đây, việc truyền nghề
(nhất là những nghề gia truyền) chỉ truyền cho con cháu trong gia đỡnh, trong
dũng họ thỡ ngày nay việc truyền nghề đó “mở” hơn, người dân trong làng cũng
có thể được truyền nghề. Kiểu truyền nghề tại chỗ có ưu điểm là đối tượng học
nghề đa dạng, cả người già và trẻ em đều có thể theo học được. Việc hoc nghề
theo kiểu truyền nghề chủ yếu tập chung vào kĩ năng, ki xảo và người học được
thực tập ngay trên sản phẩm, ngay trên thiết bị ản xuất của cơ sở sản xuất, nên vừa
học vừa có thể tao ra sản phẩm ngay được. Giáo viên, người dạy trong các lớp học
truyền nghề chủ yếu là những nghệ nhân, những thợ giỏi có kinh nghiệm của làng
nghề. Ngoài ra, để tăng chất lượng, mẫu mó sản phẩm, hiện nay cỏc làng nghề đó
mời một số giảng viên trong các trường mỹ nghệ, mỹ thuật về giảng dạy. Một
trong những ưu điểm nổi bật cảu kiể học truyền nghề là thời gian học linh hoạt,
tùy thuộc vào từng làng nghề và điều kiện của người học Tuy nhiên học nghề
theo cách này có những hạn chế, như kiến thức nghề không đồng bộ, năng lự hành
nghề và khả năng dịch chuyển nghề nghiệp của người lao động gặp nhiều khó
khăn, nhất là khi thị trường có nhiều biến động; khả năng cập nhật ứng dụng công
nghệ mới, kiến thức mới cũng bị hạn chế do “đầu vào “ người học khác nhau và

theo các nghệ nhân ở các làng nghề, để đào tạo được một người thợ làm hàng gỗ
mỹ nghệ phải mất 4 tháng; trở thành thợ đúc gang hay thợ làm gốm lành nghề phải
có thời gian chuyên tâm trên 1 năm và thợ tạc đá mỹ nghệ phải từ 3 đến 5 năm. Vỡ
vậy, áp lực thiếu lao động giỏi tại các làng nghề truyền thống ngày càng lớn
Hiện nay một số nghệ nhân mở đó mở lớp truyờn nghề trong một số làng nghề
nhưng cũn mang tớnh tự phỏt khụng được sự hỗ trợ nên cũn nhiờự hạn chế. Một
số nghệ nhõn tuổi đó cao và một số đó mất, nờn cú tỡnh trạng thất truyền nghề.
Công tác dạy nghề có nhiều bất cập và hạn chế, chưa đáp ứng với nhu cầu
học nghề của nông dân để phát triển sản xuất;kinh doanh và dịch vụ. Quy mô và
chất lượng dạy nghề cho nông dân cũng thấp, phương thức dạy nghề đơn điệu,
kinh phí chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước, cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội
ngủ giáo viên chưa đáp ứng với nhu cầu, chưa huy động được sức mạnh các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia đào tạo nghề.
Nguyên nhân do các cấp Hội chưa làm tốt công tác tuyên truyền vận động
hội viên học nghề, một số chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc học
nghề để tỡm kiếm việc làm ổn định nuôi sống bản thân và gia đình, một số khác
chỉ muốn học những nghề đơn giản ngắn ngày, chưa mạnh dạn học những nghề có
kỹ thuật cao để chuyển đổi nghề nghiệp.
Công tác tư vấn, giới thiệu việc làm sau đào tạo chưa đạt hiệu quả cao, nhiều
học viên sau khi học nghề xong vẫn chưa tỡm được việc làm, trỡnh độ tay nghề
chưa đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động

5. Đánh giá
a. Những mặt đạt được.
Trong những năm đổi mới vừa qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu
kinh tế to lớn, kinh tế luôn tăng trưởng với tốc độ cao. Để góp phần vào thành
công đó thì lực lượng lao động nông thôn có phần đóng góp quan trọng.
Với sự hội nhập kinh tế thế giới, các làng nghề Việt Nam đó chủ động tỡm
kiếm thị trường sang các nước khác. Hiện hàng hóa của các làng nghề đó cú mặt ở
trờn 100 nước trên thế giới với kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng. Nếu như năm

2004, kim ngạch xuất khẩu mới đạt 450 triệu USD, thì năm2007 đó tăng lên 756
triệu USD (nếu cả sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu thỡ tổng kim ngạch đạt trên 2,3 tỉ
USD),điều này thúc đẩy việc sản xuất ở các làng nghề tăng cao,các cở sở sản xuất
ngày càng dược mở rộng với qui mô lớn, tạo điều kiện cho người lao động có việc
làm và tăng thêm thu nhập.
Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tích cực giảm dần lao
động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp tăng dần lao động làm việc làm việc
trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ thúc đẩy nhanh quá trình thực hiện CNH -
HĐH. Cơ sở hạ tầng ở nông thôn cũng phát triển, tạo điều kiện phát triển sản xuất.
Số lao động có việc làm ngày một tăng, kết quả là trong năm 2009 đó có trên 50%
lao động làng nghề (dưới 30 % lao động thời vụ và trên 20% lao động thợ giỏi) đã
giải quyết việc làm cho người lao động .
Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông
thôn là từ đó nó đã cơ bản giải quyết được vấn đề thất nghiệp và bán thất nghiệp ở
nông thôn.
b. Những hạn chế còn tồn tại.
Tuy những thành tựu đạt được là rất to lớn và có ý nghĩa quan trọng trong
công cuộc phát triển đất nước. Nhưng bên cạnh đó nó vẫn còn tồn tại nhiều bất cập
làm kìm hảm quá trình phát triển kinh tế đặc biệt là kinh tế nông thôn. Trong vấn
đề lao động và sử dụng lao động ở nông thôn cũng tồn tại những hạn chế sau:
- Về chất lượng lao động: hầu hết lao động nông thôn nước ta đều có chất
lượng thấp chủ yếu chưa qua đào tạo, chưa đáp ứng được yêu cầu khắt khe trong
bối cảnh đất nước đang hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy nhanh CNH - HĐH.
- Về mặt cơ cấu lao động: tuy cơ cấu lao động đang chuyển dịch theo xu
hướng tích cực (giảm tỷ lệ lao động trong nông nghiệp tăng tỷ trong lao động
trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ trong nông thôn) nhưng chuyển dịch chậm
hiện nay lao động vẫn chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp. Tuy tỷ lệ
tương đối lao động nông nghiệp có giảm nhưng tỷ lệ tăng tuyệt đối của lao động
trong khu vực này vẫn tăng
Do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, nhiều làng nghề đang đứng

trước nguy cơ phá sản do đọng vốn, đọng sản phẩm vỡ phớa đối tác nước ngoài
cắt sản phẩm tiêu thụ. Theo báo cáo của 38 tỉnh, thành phố, đó cú ớt nhất 9 làng
nghề phỏ sản; 124 làng nghề sản xuất cầm chừng; hơn 2100 hộ đăng kí kinh doanh
bỏ nghề. Có những làng nghề như đồ gỗ mĩ nghệ Đông Kỵ (Bắc Ninh) có 200 cơ
sở sản xuất, chủ yếu là xuất hàng sang Trung Quốc, nhưng đến nay có 80% cơ sở
đó ngừng sản xuất, sản phẩm tồn kho ước tính khoảng 20 triệu USD. Một số cơ sở
của làng trước đây có hàng trăm lao động làm việc, nay giảm xuống chỉ cũn 7-8
người, thậm chí chỉ 1-2 người để trông coi máy móc, thiết bị. Làng nghề giấy
Phong Khê (Bác Ninh) , thu hút khoảng 1 vạn lao động nhưng đến nay có 50 % cơ
sở sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng, mỗi cơ sở tồn đọng trung bỡnh khoảng 1 tỉ
đồng. Làng nghề lụa ở Vạn Phúc (Hà Nội) là một trong những làng nghề truyền
thống lâu đời nhất nước ta, có 600 co sở sản xuát thỡ hiện nay 30 % số này đó
đóng cửa Với xu thế khủng hoảng hiện nay, theo dự báo của Hiệp Hội làng
nghề, nếu không có những giải pháp hỗ trợ kịp thời, sẽ có khoảng 40% số làng
nghề có nguy cơ phá sản, kéo theo là hàng vạn người lao động bi mất việc làm.
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT ngày 11/2/2009. Số liệu báo cáo từ 38
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hiện cả nước có 9 làng nghề phá sản, 124
làng nghề sản xuất cầm chừng do gặp khó khăn. Khoảng 2.166 hộ sản xuất có
đăng ký kinh doanh phá sản. Báo cáo cũng cảnh báo, nếu trong thời gian tới,
không có các giải pháp cấp bách, kịp thời, tình hình phá sản của các làng nghề có
thể nhiều hơn nữa và hệ lụy tiếp theo là số lao động mất việc làm sẽ ngày càng
nhiều, tăng gánh nặng cho xã hội. Hiện có rất nhiều làng nghề từ đầu năm 2008
vay tiền lãi suất cao mua nguyên vật liệu sản xuất, nhưng đến cuối năm hàng lại
đắp đống không bán được nên nếu không được hỗ trợ nguồn vốn, sẽ rất khó giải
quyết đầu ra, tạo công ăn việc làm cho người lao động.

Phần III
Một số giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả nguồn lao động nông thôn ở
c á c làng nghề
I. Quan điểm sử dụng nguồn lao động

1. Quan điểm phát triển nguồn lao động
Trước xu thế phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ, của toàn cầu
hoá và đặc biệt sự nổi lên của nền kinh tế tri thức, đầu tư vào nguồn nhân lực con
người đang thức sự được coi là hướng ưu tiên số một. Nhiều quốc gia Châu á đã
đầu tư mạnh mẽ vào việc tăng trí tuệ để thực hiện chiến lược "công nghiệp hoá
đón đầu" tạo ra chiếc chìa khoá thần kì mở lối cho "con đường tắt đến sự phát
triển". Đầu tư vào con người, vào nguồn nhân lực đang trở thành yếu tố có tác
động mạnh mẽ nhất đến tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh các lợi thế cạnh tranh hữu hình như tài nguyên thiên nhiên, vị trí
địa lí, nguồn vốn thì lực lượng lao động dồi dào, có tiềm năng trí tuệ chính là lợi
thế cạnh tranh lớn nhất của nước ta. Nói cách khác, phát triển nguồn nhân lực đã
được Đảng và nhà nước ta coi là khâu đột phá trong qúa trình phát triển kinh tế xã
hội đất nước.
Vì vậy, các quan điểm phát triển nguồn nhân lực với chất lượng nguồn
nhân lực đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế đất nước trong qúa trình hội
nhâp
a. Giáo dục giữ vị trí quyết định trong phát triển nguồn lao động
Giáo dục và đào tạo giữ vị trí quyết định đến chất ượng nguồn lao động,
giáo dục, đào tạo là một bộ phận hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế xã hội
nhằm tạo ra nguồn lao động có chất lượng cao để thực hiện cac mục tiêu kinh tế xã
hội của đất nước.
Giáo dục được coi là một dạng quan trọng nhất của sự phát triển tiềm năng
của con người theo nhiều nghĩa khác nhau, yêu cầu chung đối với giáo dục là rất
lớn, nhất là đối với giáo dục phổ thông, con người ở mọi nơi đều tin rằng giáo dục
rất có ích cho bản thân mình và con cháu họ.
Kết quả giáo dục làm tăng trình độ lao động, tạo khả năng thúc đẩy nhanh
quá trình đổi mới công nghệ, công nghiệp phát triển càng nhanh càng thúc đầy
tăng trưởng kinh tế. Vai trò của giáo dục còn được đánh giá qua tác động của nó
đối với việc tăng năng suất lao động của mỗi cá nhân nhờ có nâng cao trình độ và
tích luỹ kiến thức.

b. Phát triển nguồn nhân lực là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và
nhân dân.
Xã hội hoá công tác đào tạo, bồi dưỡng lao động nông thôn, tính chất xã
hội thể hiện ở chỗ mọi cấp, mọi ngành, mọi hội quần chúng (hội làm vườn, hội
phụ nữ, hội cựu chiến binh ), mọi người lao động cũng như các tổ chức hợp tác
quốc tế cùng tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng lao động nông nghiệp, nông
thôn, trong việc xây dựng chương trình biên soạn tài liệu, xây dựng cơ sở vật chất
ở các trường lớp. Xã hội hoá còn thể hiện ở chỗ người được đào tạo, bồi dưỡng
trước dạy cho người chưa được đào tạo bồi dưỡng. Các gia đình tham gia truyền

×