Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

QUẢN TRỊ HỌC.Docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.49 KB, 22 trang )

BÀI BÁO CÁO

MÔN QUẢN TRỊ HỌC

CÂU HỎI :
Quản trị học là gì ? Tầm quan trọng của quản trị học đối
với đời sống con người và sự phát triển của xã hội . Liên
hệ bằng những ví dụ cụ thể để lí giải và phân tích những

ví dụ trên.

Hà Nội- 2023

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
NỘI DUNG:

I, Quản trị học là gì ?
II, Tầm quan trong của quản trị học đối với đời sống con người và sự phát
triển của đời sống xã hội
III, Liên hệ thực tiễn và những ví dụ cụ thể
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

LỜI NĨI ĐẦU

Vì sao quản trị là hoạt động cần thiết đối với mọi tổ chức? Không phải
mọi tổ chức đều tin rằng họ cần đến quản trị. Trong thực tiễn, một số
người chỉ trích nền quản trị hiện đại và họ cho rằng người ta sẽ làm việc
với nhau tốt hơn và với một sự thoả mãn cá nhân nhiều hơn, nếu khơng
có những nhà quản trị. Họ viện dẫn ra những hoạt động theo nhóm lý


tưởng như là một sự nỗ lực đồng đội. Tuy nhiên họ khơng nhận ra là
trong hình thức sơ đẳng nhất của trò chơi đồng đội, các cá nhân tham gia
trị chơi đều có những mục đích rõ ràng của nhóm cũng như những mục
đích riêng, họ được giao phó một vị trí, họ chấp nhận các qui tắc/luật lệ
của trị chơi và thừa nhận một người nào đó khởi xướng trò chơi và tuân
thủ các hướng dẫn của người đó. Điều này có thể nói lên rằng quản trị là
thiết yếu trong mọi sự hợp tác có tổ chức.
Thật vậy, quản trị là hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi con
người kết hợp với nhau trong các tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu
chung. Hoạt động quản trị là những hoạt động chỉ phát sinh khi con
người kết hợp với nhau thành tập thể, nếu mỗi cá nhân tự mình làm việc
và sống một mình khơng liên hệ với ai thì khơng cần đến hoạt động quản
trị. Khơng có các hoạt động quản trị, mọi người trong tập thể sẽ khơng
biết phải làm gì, làm lúc nào, công việc sẽ diễn ra một cách lộn xộn.
Giống như hai người cùng điều khiển một khúc gỗ, thay vì cùng bước về
một hướng thì mỗi người lại bước về một hướng khác nhau. Những hoạt
động quản trị sẽ giúp cho hai người cùng khiêng khúc gỗ đi về một
hướng. Một hình ảnh khác có thể giúp chúng ta khẳng định sự cần thiết
của quản trị qua câu nói của C. Mác trong bộ Tư Bản: Một nghệ sĩ chơi
đàn thì tự điều khiển mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có người
chỉ huy, người nhạc trưởng

* Mục tiêu nghiên cứu:
- Khái quát chung lịch sử hình thành cũng như một số lý thuyết về quản
trị học.

- Định nghĩa về nhà quản trị, các chức năng, vai trò cũng như kỹ năng
của nhà quản trị.
* Đối tượng nghiên cứu: Nhà quản trị
* Phương pháp nghiên cứu:

- Thu thập thông tin dữ liệu
- Tổng hợp thông tin
- Phân tích và nhận xét, đánh giá những thơng tin thu thập được.

NỘI DUNG

I, Quản trị học là gì ?

- Đây là câu hỏi của rất nhiều người, vì vốn dĩ định nghĩa về quản trị học rất
khó để diễn giải ra. Quản trị học có thể hiểu là một mơn học trong trường đại học,
môn quản trị học thường được giảng dạy cho các sinh viên ngành kinh tế, ngành
quản trị kinh doanh.

Cũng có một định nghĩa phổ biến khác về quản trị học đó chính là quản trị là
hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi con người kết hợp với nhau trong các
tổ chức để nhằm đạt đến các mục tiêu lớn, các mục tiêu chung.

- Thuật ngữ quản trị dùng ở đây có nghĩa là một phương thức hoạt động
hướng đến mục tiêu được hoàn thành với hiệu quả cao, bằng và thông qua những
người khác. Hoạt động quản trị là những hoạt động tất yếu phát sinh khi con người
kết hợp với nhau để cùng hoàn thành mục tiêu. Trong bộ tư bản, Mác có đưa ra
một hình ảnh về hoạt động quản trị, đó là hoạt động của con người chỉ huy dàn
nhạc, người này không chơi một thứ nhạc cụ nào mà chỉ đứng chỉ huy các nhạc
công tạo nên 1 bản giao hưởng .

Ngày nay, về nội dung, thuật ngữ quản trị có nhiều cách hiểu khác nhau, sau đây là
một vài cách hiểu:

- Quản trị là một quá trình do một hay nhiều người thực hiện nhằm phối hợp
các hoạt động của những người khác để đạt được những kết quả mà một người

hoạt động riêng rẽ không thể nào đạt được. Với cách hiểu này, hoạt động quản trị
chỉ phát sinh khi con người kết hợp với nhau thành tổ chức.

- Quản trị là sự tác động của chủ thể quản trị đến đối tượng quản trị nhằm
thực hiện các mục tiêu đã vạch ra một cách tối ưu trong điều kiện biến động của
môi trường. Với cách hiểu này, quản trị là một q trình, trong đó chủ thể quản trị
là tác nhân tạo ra các tác động quản trị; đối tượng quản trị tiếp nhận các tác động
của chủ thể quản trị tạo ra; mục tiêu của quản trị phải được đặt ra cho cả chủ thể
quản trị và đối tượng quản trị, được xác định trước khi thực hiện sự tác động quản
trị.

- Quản trị là quá trình hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm sốt cơng việc
và những nổ lực của con người, đồng thời vận dụng một cách có hiệu quả mọi tài

nguyên, để hoàn thành các mục tiêu đã định. Từ các khái niệm trên, chúng ta có thể
đưa ra một số nhận xét:

- Phương thức quản trị: là các hoạt động cơ bản hay là những chức năng quản
trị mà nhà quản trị sử dụng để tác động vào các lĩnh vực quản trị nhằm đạt được
các mục tiêu của tổ chức, nó bao gồm các chức năng như hoạch định, tổ chức, điều
khiển và kiểm soát.

- Con người: nếu mỗi cá nhân tự mình hoạt động thì khơng có hoạt động
quản trị, lúc này hoạt động của họ hồn tồn mang tính cá nhân, phục vụ cho lợi
ích cá nhân chứ khơng cho một tổ chức nào và cũng khơng có ai sẽ quản trị ai.
Vậy, hoạt động quản trị xảy ra chỉ khi:

+ Có một số người kết hợp với nhau thành một tổ chức (điều kiện cần).

+ Do tính cần thiết của hoạt động quản trị (điều kiện đủ). Vì nếu khơng có

điều kiện này, mọi người trong tổ chức sẽ khơng biết làm gì, khi nào sẽ làm và làm
như thế nào…, từ đó sẽ tạo ra tình trạng lộn xộn, giống như hai người cùng chèo
một chiếc thuyền, thay vì phải chèo về 1 hướng thì 2 người lại chèo 2 hướng khác
nhau.

Những hoạt động khiến hai người cùng chèo một chiếc thuyền đi về một hướng
chính là những hoạt động quản trị.

- Tổ chức là một thực thể có mục đích riêng, có những thành viên và có một cơ cấu
có tính hệ thống (ví dụ như: doanh nghiệp, trường học, bệnh viện…). Tất cả các tổ
chức đều có ba đặc tính chung:

+ Tổ chức phải có mục đích: đó là mục tiêu hay hệ thống các mục tiêu. Mục
tiêu là những kết quả mong đợi sẽ đạt được sau một thời gian nhất định. + Tổ chức
phải gồm nhiều thành viên, nhiều bộ phận cấu thành, tổ chức không thể là một
người, một cá nhân nào đó.

+ Tổ chức phải gồm nhiều thành viên, nhiều bộ phận cấu thành, tổ chức
không thể là một người, một cá nhân nào đó.

+ Tổ chức phải có một cơ cấu mang tính hệ thống: Có nghĩa là tổ chức phải
có sự sắp xếp, phân công lao động, quy định quyền hạn và trách nhiệm của từng cá
nhân, bộ phận nhằm thực hiện các mục tiêu chung cho cả tổ chức của mình.

- Hiệu quả quản trị: có thể nói rằng, chỉ khi nào quan tâm đến hiệu quả thì con
người mới quan tâm đến hoạt động quản trị. Nói cách khác, lý do tồn tại của hoạt
động quản trị chính là vì muốn có hiệu quả. Có nhiều cách hiểu về hiệu quả. Theo
cách hiểu thông thường nhất, hiệu quả là tỷ lệ so sánh giữa kết quả đạt được với
mục tiêu đặt ra. Hiệu quả cao có nghĩa là đạt được mục tiêu với chi phí thấp nhất .


- Hoạt động quản trị trong đơn vị kinh doanh và đơn vị hành chính có những
khác biệt nhất định về mục tiêu. Đối với các đơn vị kinh doanh, thường lợi nhuận
được dùng để đo lường thành quả. Còn đối với các đơn vị hành chính, các tổ chức
phi lợi nhuận thì thành qủa hoạt động thường được xem xét tùy theo mục đích sứ
mệnh của đơn vị đó .

II, Tầm quan trong của quản trị học đối với đời sống con người và sự phát
triển của đời sống xã hội :

Nhìn ngược dịng thời gian, chúng ta có thể thấy ngay từ xa xưa đã có những
nỗ lực có tổ chức dưới sự trơng coi của những người chịu trách nhiệm hoạch định,
tổ chức điều khiển và kiểm sốt để chúng ta có được những cơng trình vĩ đại lưu
lại đến ngày nay như Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc hoặc Kim Tự Tháp ở
Ai Cập… Vạn Lý Trường Thành, cơng trình được xây dựng trước công nguyên,
dài hàng ngàn cây số xuyên qua đồng bằng và núi đồi một khối bề cao 10 mét,
bề rộng 5 mét, cơng trình duy nhất trên hành tinh chúng ta có thể nhìn thấy từ trên
tàu vũ trụ bằng mắt thường. Ta sẽ cảm thấy cơng trình đó vĩ đại biết chừng nào, và
càng vĩ đại hơn, nếu ta biết rằng đã có hơn một triệu người làm việc tại đây suốt
hai chục năm trời ròng rã. Ai sẽ chỉ cho mỗi người phu làm gì. Ai là người cung
cấp sao cho đầy đủ nguyên liệu tại nơi xây dựng?… Chỉ có sự quản trị mới trả lời
được những câu hỏi như vậy. Đó là sự dự kiến công việc phải làm, tổ chức nhân
sự, nguyên vật liệu để làm, điều khiển những người phu và áp đặt sự kiểm tra,
kiểm sốt để bảo đảm cơng việc được thực hiện đúng như dự định. Những hoạt
động như thế là những hoạt động quan trọng dù rằng người ta có thể gọi nó bằng
những tên khác.

Quản trị càng có vai trị đáng kể cùng với sự bộc phát của cuộc cách mạng
công nghiệp (Industrial Revolution), mở màn ở nước Anh vào thế kỷ 18, tràn qua
Đại Tây Dương, xâm nhập Hoa Kỳ vào cuối cuộc nội chiến của nước này (giữa thế
kỷ 19). Tác động của cuộc cách mạng này là sức máy thay cho sức người, sản xuất

dây chuyền đại trà thay vì sản xuất một cách manh mún trước đó, và nhất là giao

thông liên lạc hữu hiệu giữa các vùng sản xuất khác nhau giúp tăng cường khả
năng trao đổi hàng hóa và phân công sản xuất ở tầm vĩ mô.

Từ thập niên 1960 đến nay, vai trị quản trị ngày càng có xu hướng xã hội
hóa, chú trọng đến chất lượng, khơng chỉ là chất lượng sản phẩm, mà là chất lượng
của cuộc sống mọi người trong thời đại ngày nay. Đây là giai đoạn quản trị chất
lượng sinh hoạt (quality-of-life management), nó đề cập đến mọi vấn đề như tiện
nghi vật chất, an toàn sinh hoạt, phát triển y tế giáo dục, môi trường, điều phối việc
sử dụng nhân sự v.v. mà các nhà quản trị kinh doanh lẫn phi kinh doanh hiện nay
cần am tường và góp sức thực hiện.

Những kết luận về nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các doanh nghiệp có
thể minh chứng cho vai trị có tính chất quyết định của quản trị đối với sự tồn tại và
phát triển của tổ chức. Thật vậy, khi nói đến nguyên nhân sự phá sản của các
doanh nghiệp thì có thể có nhiều ngun nhân, nhưng nguyên nhân hàng đầu
thường vẫn là quản trị kém hiệu quả, hay nhà quản trị thiếu khả năng. Trong cùng
hoàn cảnh như nhau, nhưng người nào biết tổ chức các hoạt động quản trị tốt hơn,
khoa học hơn, thì triển vọng đạt kết quả sẽ chắc chắn hơn. Đặc biệt quan trọng
không phải chỉ là việc đạt kết quả mà sẽ cịn là vấn đề ít tốn kém thì giờ, tiền bạc,
ngun vật liệu và nhiều loại phí tổn khác hơn, hay nói cách khác là có hiệu quả
hơn. Chúng ta có thể hình dung cụ thể khái niệm hiệu quả trong quản trị khi biết
rằng các nhà quản trị luôn phấn đấu để đạt được mục tiêu của mình với nguồn lực
nhỏ nhất, hoặc hồn thành chúng nhiều tới mức có thể được với những nguồn lực
sẵn có.

Vì sao quản trị là hoạt động cần thiết đối với mọi tổ chức? Không phải mọi tổ
chức đều tin rằng họ cần đến quản trị. Trong thực tiễn, một số người chỉ trích nền
quản trị hiện đại và họ cho rằng người ta sẽ làm việc với nhau tốt hơn và với một

sự thỏa mãn cá nhân nhiều hơn, nếu khơng có những nhà quản trị. Họ viện dẫn ra
những hoạt động theo nhóm lý tưởng như là một sự nỗ lực ‘đồng đội’. Tuy nhiên
họ khơng nhận ra là trong hình thức sơ đẳng nhất của trò chơi đồng đội, các cá
nhân tham gia trị chơi đều có những mục đích rõ ràng của nhóm cũng như những
mục đích riêng, họ được giao phó một vị trí, họ chấp nhận các qui tắc/luật lệ của
trò chơi và thừa nhận một người nào đó khởi xướng trị chơi và tn thủ các hướng
dẫn của người đó. Điều này có thể nói lên rằng quản trị là thiết yếu trong mọi sự
hợp tác có tổ chức.

Thật vậy, quản trị là hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi con người
kết hợp với nhau trong các tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu chung. Hoạt
động quản trị là những hoạt động chỉ phát sinh khi con người kết hợp với nhau
thành tập thể, nếu mỗi cá nhân tự mình làm việc và sống một họat động quản trị.
Khơng có các hoạt động quản trị, mọi người trong tập thể sẽ khơng biết phải làm
gì, làm lúc nào, cơng việc sẽ diễn ra một cách lộn xộn. Giống như hai người cùng
điều khiển một khúc gỗ, thay vì cùng bước về một hướng thì mỗi người lại bước về
một hướng khác nhau. Những hoạt động quản trị sẽ giúp cho hai người cùng
khiêng khúc gỗ đi về một hướng. Một hình ảnh khác có thể giúp chúng ta khẳng
định sự cần thiết của quản trị qua câu nói của C. Mác trong bộ Tư Bản: Một nghệ
sĩ chơi đàn thì tự điều khiển mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có người chỉ
huy, người nhạc trưởng. Quản trị là nhằm tạo lập và duy trì một mơi trường nội bộ
thuận lợi nhất, trong đó các cá nhân làm việc theo nhóm có thể đạt được một hiệu
suất cao nhất nhằm hoàn thành mục tiêu của tổ chức.

Khi con người hợp tác lại với nhau trong một tập thể cùng nhau làm việc,

nếu biết quản trị thì triển vọng và kết quả sẽ cao hơn, chi phí sẽ ít hơn. Trong

nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, phải ln tìm cách hạn chế chi phí và


gia tăng hiệu năng. Hoạt động quản trị là cần thiết để đạt được hai mục tiêu trên,

chỉ khi nào người ta quan tâm đến hiệu quả thì chừng đó hoạt động quản trị mới

được quan tâm đúng mức. Khái niệm hiệu quả thể hiện khi chúng ta so sánh

những kết quả đạt được với những chi phí đã bỏ ra. Hiệu quả cao khi kết quả đạt

được nhiều hơn so với chi phí và ngược lại, hiệu quả thấp khi chi phí nhiều hơn

so với kết quả đạt được. Không biết cách quản trị cũng có thể đạt được kết quả

cần có nhưng có thể chi phí q cao, khơng chấp nhận được.

Trong thực tế, hoạt động quản trị có hiệu quả khi: Giảm thiểu chi phí ở đầu

vào mà vẫn giữ nguyên sản lượng ở đầu ra hoặc giữ nguyên các yếu tố đầu vào
trong khi sản lượng đầu ra nhiều hơn hoặc vừa giảm được chi phí đầu vào vừa tăng

được sản lượng đầu ra. Hiệu quả tỉ lệ thuận với kết quả đạt được nhưng lại tỉ lệ

nghịch với chi phí bỏ ra. Càng ít tốn kém các nguồn lực thì hiệu quả sản xuất kinh
doanh càng cao.

Quản trị là tiến trình làm việc với con người và thông qua con người nhằm đạt
được mục tiêu của tổ chức trong một môi trường biến đổi.Trọng tâm của q trình
này là sử dụng có hiệu quả nguồn lực có giới hạn. Hoạt động quản trị là để cùng
làm việc với nhau vì mục tiêu chung, và các nhà quản trị làm việc.Đó trong một
khung cảnh bị chi phối bởi các yếu tố bên trong lẫn bên ngoài của tổ chức. Thí dụ,
một người quản lý cơng việc bán hàng trong khi đang cố gắng quản trị các nhân

viên của mình vẫn phải quan tâm đến các yếu tố bên trong như tình trạng máy móc,
tình hình sản xuất, công việc quảng cáo của công ty, cũng như những ảnh hưởng
bên ngoài như các điều kiện kinh tế, thị trường, tình trạng kỹ thuật, cơng nghệ có
ảnh hưởng tới sản phẩm, những điều chỉnh trong chính sách của nhà nước, các mối
quan tâm và áp lực của xã hội… Tương tự, một ông Chủ tịch công ty trong khi cố
gắng để quản lý tốt cơng ty của mình phải tính đến vơ số những ảnh hưởng bên
trong lẫn bên ngồi cơng ty khi đưa ra quyết định hoặc những hành động cụ
thể.Mục tiêu của hoạt động quản trị có thể là các mục tiêu kinh tế, giáo dục,y tế
hay xã hội, tuỳ thuộc vào tập thể mà trong đó hoạt động quản trị diễn ra, có thể đó
là một cơ sở sản xuất, cơ sở kinh doanh, cơ quan công quyền, một trường học…

Về cơ bản, mục tiêu quản trị trong các cơ sở kinh doanh và phi kinh
doanh là giống nhau. Các cấp quản lý trong các cơ sở đó đều có cùng một loại
mục tiêu nhưng mục đích của họ có thể khác nhau. Mục đích có thể khó xác
định và khó hồn thành hơn với tình huống này so với tình huống khác, nhưng
mục tiêu quản trị vẫn như nhau.
III, Liên hệ thực tiễn và những ví dụ cụ thể :
* Liên hệ thực tiễn :

- Quản trị là hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi con người kết hợp với
nhau trong các tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu chung.

Hoạt động quản trị là những hoạt động chỉ phát sinh khi con người kết hợp
với nhau thành tập thể, nếu mỗi cá nhân tự mình làm việc và sống một mình khơng
liên hệ với ai thì khơng cần đến hoạt động quản trị. Khơng có các hoạt động quản
trị, mọi người trong tập thể sẽ khơng biết phải làm gì, làm lúc nào, cơng việc sẽ
diễn ra một cách lộn xộn. Giống như hai người cùng điều khiển một khúc gỗ, thay
vì cùng bước về một hướng thì mỗi người lại bước về một hướng khác nhau.
Những hoạt động quản trị sẽ giúp cho hai người cùng khiêng khúc gỗ đi về một
hướng. Một hình ảnh khác có thể giúp chúng ta khẳng định sự cần thiết của quản

trị qua câu nói của C. Mác trong bộ Tư Bản: “Một nghệ sĩ chơi đàn thì tự điều
khiển mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có người chỉ huy, người nhạc
trưởng”.

- Quản trị là nhằm tạo lập và duy trì một mơi trường nội bộ thuận lợi nhất, trong
đó các cá nhân làm việc theo nhóm có thể đạt được một hiệu suất cao nhất nhằm
hoàn thành mục tiêu chung của tổ chức.

Khi con người hợp tác lại với nhau trong một tập thể cùng nhau làm việc, nếu
biết quản trị thì triển vọng và kết quả sẽ cao hơn, chi phí sẽ ít hơn. Trong nền kinh
tế thị trường cạnh tranh gay gắt, phải ln tìm cách hạn chế chi phí và gia tăng hiệu
năng. Hoạt động quản trị là cần thiết để đạt được hai mục tiêu trên, chỉ khi nào
người ta quan tâm đến hiệu quả thì chừng đó hoạt động quản trị mới được quan
tâm đúng mức.

Khái niệm hiệu quả thể hiện khi chúng ta so sánh những kết quả đạt được với
những chi phí đã bỏ ra. Hiệu quả cao khi kết quả đạt được nhiều hơn so với chi phí
và ngược lại, hiệu quả thấp khi chi phí nhiều hơn so với kết quả đạt được. Khơng
biết cách quản trị cũng có thể đạt được kết quả cần có nhưng có thể chi phí q
cao, khơng chấp nhận được.

Trong thực tế, hoạt động quản trị có hiệu quả khi:

 Giảm thiểu chi phí đầu vào mà vẫn giữ nguyên sản lượng ở đầu ra.

 Hoặc giữ nguyên các yếu tố đầu vào trong khi sản lượng đầu ra nhiều hơn.

 Hoặc vừa giảm được các chi phí đầu vào, vừa tăng sản lượng ở đầu ra.

Hiệu quả tỉ lệ thuận với kết quả đạt được nhưng lại tỉ lệ nghịch với chi phí bỏ

ra. Càng ít tốn kém các nguồn lực thì hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao.

- Quản trị là tiến trình làm việc với con người và thông qua con người nhằm đạt
được mục tiêu của tổ chức trong một môi trường luôn thay đổi. Trọng tâm của q
trình này là sử dụng có hiệu quả nguồn lực có giới hạn. Hoạt động quản trị là để
cùng làm việc với nhau vì mục tiêu chung, và các nhà quản trị làm việc đó trong
một khung cảnh bị chi phối bởi các yếu tố bên trong lẫn bên ngồi của tổ chức. Thí
dụ, một người quản lý công việc bán hàng trong khi đang cố gắng quản trị các
nhân viên của mình vẫn phải quan tâm đến các yếu tố bên trong như tình trạng máy
móc, tình hình sản xuất, cơng việc quảng cáo của cơng ty, cũng như những ảnh
hưởng bên ngoài như các điều kiện kinh tế, thị trường, tình trạng kỹ thuật,
cơng nghệ có ảnh hưởng tới sản phẩm, những điều chỉnh trong chính sách cuả nhà
nước, các mối quan tâm và áp lực của xã hội.v.v. Tương tự, một ông chủ tịch công
ty trong khi cố gắng để quản lý tốt công ty của mình phải tính đến vơ số những ảnh
hưởng bên trong lẫn bên ngồi cơng ty khi đưa ra quyết định hoặc những hành
động cụ thể.

* Các ví dụ :

Câu 1:Lấy ví dụ thực tế để chứng minh sự cần thiết phải sử dụng phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong việc nghiên cứu và vận dụng các vấn
đề khoa học về quản trị.

Trả lời:

- Khái niệm Duy vật biện chứng : Các sự vật hiện tượng luôn biến đổi do sự
tác động của nhiều nhân tố với những chiều hướng mức độ khác nhau . Vì
vậy để thấy được bản chất của nó cần phải nghiên cứu nó trong mối quan hệ
tác động qua lại của nhiều nhân tố có như vậy mới đưa ra những kết luận
khoa học đảm bảo thuyết phục hiệu quả.


- Phương pháp duy vật lịch sử: Các sự vật hiện tượng luôn thay đổi theo thời
gian, do đó để thấy được bản chất và xu hướng thay đổi của nó cần phải
nghiên cứu nó trong 1 khoảng thời gian nhất định.

Ví dụ: Trong 1 công ty cổ phần điện lực hà nam có 8 phịng chức năng : Phịng
Thương mại, Kỹ thuật, Kế hoạch vật tư, Cơ điện, Hành chính, Tổ chức nhân sự, tài
vụ.

- Phòng thương mại: Thực hiện các công tác tiếp thị, lập hồ sơ đấu thầu, tham
gia đấu thầu. Quản lý thực hiện các hợp đồng kinh tế của công ty. Tổng kết
tình hình sản xuất kinh doanh của cơng ty.

- Phịng kỹ thuật: Thực hiện nhiệm vụ quản lý kỹ thuật, quản lý chất lượng,
áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào các hoạt động sản xuất của công ty.

- Phòng tài vụ:Là bộ phận quản lý tài chính, thực hiện chế độ hạch tốn kinh
tế, hạch toán giá thành sản phẩm, giám sát việc chấp hành kỷ luật tài chính,
nghiên cứu sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn.

- Phịng kế hoạch vật tư: Thực hiện công tác cung ứng, quản lý vật tư. Lập kế
hoạch sản xuất theo dõi và hiệu chỉnh kế hoạch.

- Phòng tổ chức nhân sự: Là bộ phận có chức năng tham mưu cho Giám đốc
trong lĩnh vực tổ chức bộ máy quản lý sản xuất, tuyển dụng, đào tạo, quản lý
lao động, thực hiện các chế độ, chính sách đối với người lao động.

- Phịng hành chính:Phục vụ, tham mưu cho Ban Giám đốc trong công tác
hành chánh quản trị, đảm bảo điều kiện làm việc và phương tiện phục vụ sản
xuất kinh doanh của cơng ty.


- Phịng cơ điện:Quản lý trang thiết bị của công ty, định lịch sửa chữa và bảo
dưỡng.

- Phòng KCS:Chịu trách nhiệm kiểm tra bán thành phẩm trên dây chuyền sản
xuất và thành phẩm cuối cùng. Kiểm tra nguyên liệu và bán thành phẩm đầu
vào. Thống kê bán thành phẩm hư hỏng trên dây chuyền sản xuất nhằm
thông báo kịp thời cho Ban Lãnh Đạo và các phịng ban có liên quan.

Các phịng có tác động qua lại và hỗ trợ cho nhau trong việc thực hiện cơng việc
của mình thơng qua sự chỉ đạo của Ban Giám đốc.Cơng ty cịn có mối quan hệ với
các viện nghiên cứu, trường đại học nhờ đó việc tiếp nhận thông tin, tiếp thu và
ứng dụng vào thực tế những đổi mới công nghệ diễn ra tương đối thuận lợi. Công
tác lựa chọn hướng đầu tư công nghệ, đổi mới thiết bị được các cán bộ có trách
nhiệm trong công ty bàn luận kỹ lưỡng trước khi triển khai.

 Trong việc tuyển nhân sự thì có những phương pháp.
1. Nghiên cứu, kiểm tra nền tảng học vấn, kinh nghiệm và các lời giới thiệu:

Việc nghiên cứu, kiểm tra này thường được áp dụng bao quát từ kiến thức, bằng
cấp, kinh nghiệm trong quá trình làm việc trước đây, cũng như kiểm tra độ chính
xác của các lời giới thiệu, sơ yếu lý lịch của ứng viên.

2. Làm bài kiểm tra, sát hạch.

Các bài kiểm tra được phân thành bốn loại để đánh giá khả năng nhận thức, sức
khỏe, tính cách, sở thích, hoặc thành tựu của ứng viên.

- Kiểm tra khả năng nhận thức bao gồm các bài kiểm tra tổng quát về mức độ
thông minh, thái độ ứng xử theo tình huống, khả năng lý luận, trí nhớ và khả

năng tính tốn, sắp xếp.

- Kiểm tra thành tựu để biết ứng viên đã học hỏi, thu thập được những gì từ
trường học hoặc công việc. Các chứng nhận, bằng cấp, đánh giá, giấy khen
từ một tổ chức uy tín nào đó là bằng chứng tốt nhất.

- Kiểm tra tính cách và sở thích, bao gồm thái độ, động cơ, sự tận tâm, ngay
thẳng, khả năng hịa nhập, thích ứng, thường dành cho các vị trí quản lý.

3. Phỏng vấn.

Phỏng vấn là phương pháp giúp nhà tuyển dụng quyết định họ và ứng viên có
tương thích với nhau về cơng việc, nhu cầu, và khả năng đáp ứng khơng, thơng qua
hình thức hỏi đáp để trao đổi thông tin. Đây là cách lựa chọn, sàng lọc ứng viên
được nhiều công ty áp dụng nhất trong tuyển dụng.

Việc tuyển nhân sự áp dụng phương pháp duy vật biện chứng qua việc tìm hiểu sơ
yếu lý lịch của người đó và áp dụng phương pháp duy vật lịch sử để biết quá trình
làm việc từ trước, phỏng vấn hay làm một số bài kiểm tra để biết khả năng hiện tại
và dự đoán khả năng phát triển trong tương lai.

 Trong quá trình hoạt động
 Tìm hiểu thơng tin về khách hàng, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh tuỳ

thuộc từng thời điểm đưa ra những phương án hợp lý

Thay đổi con người: Đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện; Xây dựng tổ đội; Phát triển
quản trị

Thay đổi cơng nghệ: Máy móc; tự động hố;rơ bốt


Câu 2: Lấy ví dụ thực tế để minh chứng cho hiệu quả (thành công) của hoạt động
quản trị ở một tổ chức mà bạn biết.

Trả lời:

Ví dụ trong trường Đại học Mỏ - Địa Chất

1. Ban Giám Hiệu
2. Các Phòng, Trung Tâm
- Phòng tổ chức cán bộ và quản lý HSSV
- Phòng Tài chính kế tốn
- Phịng đào tạo
- Phịng hành chính quản lý
- Phòng quản lý khoa học
- Phòng thanh tra khảo thí và bảo đảm chất lượng
- Trung tâm bồi dưỡng các bộ và hợp tác quốc tế
- Trung tâm tin học ngoại ngữ
- Trung tâm công nghệ sinh học và Vệ sinh an toàn thực phẩm
- Trung tâm Hán ngữ thương mại

3.Các khoa bộ môn:

- Khoa công nghệ thông tin
- Khoa cơ điện
- Khoa dầu khí
- Khoa Khoa học và kĩ thuật Địa Chất
- Khoa Mỏ
- Khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh
- Khoa môi trường

- Khoa Xây Dựng
- Khoa trắc địa - bản đồ và quản lý đất
- Bộ môn khoa học cơ bản
- Bộ mơn chính trị Mác-Lênin
- Bộ môn ngoại ngữ
- Bộ mơn Giáo dục thể chất và Giáo dục quốc phịng

4.Các Bộ môn

- Ban Giám Hiệu giữ chức vụ cao nhất chịu trách nhiệm về thành quả cuối
cùng của trường.

- Đưa chỉ dẫn, phương hướng mang tính chiến lược, cơ hội và nguy cơ từ mơi
trường bên ngoài tổ chức.

Ví dụ: Hồn thành mục tiêu hết năm 2022 số học sinh hệ Đại học khoá 63 ra
trường đạt 95%..xây dựng, trang bị bàn ghế, máy điều hồ, máy tính hỗ trợ việc
giảng dạy các phòng, trung tâm hỗ trợ qua lại lẫn nhau, quyết định nhữnh chiến
lược chính sách của nhà trường và ban giám hiệu đưa ra. Các phịng, trung tâm
phải linh hoạt, khuyến khích những sự hợp tác từ bên ngoài với nhà trường và giải
quyết những xung đột. Trong quan hệ với những phòng, trung tâm khác, phải đóng
vai trị như là mối liên kết, thu thập và cung cấp thông tin phản hồi cho các bộ
phận.

Ví dụ: Phịng thanh tra khảo thí và bảo đảm chất lượng hợp tác với phịng quản lý
HSSV để có thể quản lý học sinh tốt hơn.

Phòng đào tạo phổ biến những quy định về việc học tập, tuyển sinh các trung tâm
hỗ trợ thêm cho học sinh những kĩ năng về Tin học, Tiếng Anh. Các khoa bộ môn
trực tiếp theo dõi, giám sát kiểm tra công việc của các bộ môn, việc học tập của

học sinh. Phân công các nhiệm vụ cụ thể cho nhân viên thừa hành và đảm bảo công
việc được thực hiện theo kế hoạch đã đề ra. Có thể là người trực tiếp tham gia
giảng dạy, có kiến thức chun mơn, hiểu biết về công việc.

- Hàng năm, đội ngũ cán bộ giảng dạy của Trường tham gia các chương trình
nghiên cứu khoa học và thực hiện nhiều đề tài cấp Bộ, cấp Trường. Các đề
tài đã có nhiều đóng góp tích cực cho việc phát triển kinh tế - xã hội của
ngành, địa phương và nâng cao chất lượng đào tạo.

- Hiên nay, Trường được xác định là trường trọng điểm của Bộ Công thương
đào tạo đa cấp, đa ngành. Với bề dày truyền thống hơn 50 năm xây dựng và
phát triển đến nay, Nhà trường đã đào tạo cho đất nước và ngành Công
nghiệp hơn 80.000 cán bộ công nhân kỹ thuật, Trường thường xuyên tuyển
mới từ 8.000 – 9.000 học sinh, sinh viên / năm và mở các lớp bồi dưỡng
ngắn hạn cho cán bộ trong ngành, với lưu lượng khoảng 500 lượt người/
năm.

+Với những thành tích tiêu biểu:

- Huân chương Độc lập Hạng Ba (2016)
- Hn chương Lao động Hạng Nhì cho Đồn TNCS của trường (2004);

- Huân chương Độc lập Hạng Nhì (1996)
- Huân chương Độc lập Hạng Ba (1996)
- Huân chương HCM (2006)

Câu 3:Tại sao nói quản trị con người là khó nhất nhưng cũng mang tính quyết định
nhất tới hiệu quả của hoạt động quản trị? Cho ví dụ minh hoạ

Trả lời: Việc quản lý cá nhân, tập thể con người là nhiệm vụ chính của việc quản lý

khơng chỉ đối với tồn xã hội và đối với từng cấp, ngành, xã hội. Có thể nói, con
người có vai trị chủ đạo trong hệ thống quản lý. Trong lĩnh vực quản lý người ta
xém xét con người và hoạt động của con người trên 3 góc độ.

- Con người với tư cách là chủ thể quản lý: cùng với năng lực, uy tín, nhân
cách của mình giúp co người đưa ra các quyết định quản lý của mình. Điều
này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của tổ chức và sự phát triển
của tổ chức.

Con người với tư cách là khách thể quản lý (hay đối tượng quản lý): Đó là những
người dưới quyền ở nhiều cấp độ cá nhân, tập thể với những đặc điểm văn hoá,
nhân cách riêng của họ.

- Thứ 3 nhìn nhận con người trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể
quản lý (mối quan hệ giữa những người lãnh đạo và người dưới quyền)

Tuy nhiên, con người và tập thể không thụ động trước tác động quản lý bởi mỗi
người đều có ý chí, ý thức, có những lợi ích và nhu cầu riêng, có nhận thức về các
sự kiện. Trong hệ thống quản lý, con người có thể tiếp nhận các quyết định quản
lý, tuân theo nó hoặc có thể không tiếp nhận hay chỉ tiếp nhận ở một mức độ nhất
định. Chính vì thế trong việc quản lý con người không thể theo các quyết định
cứng nhắc mà mang tính linh hoạt, mềm dẻo.

Ví dụ: Quản trị một sản phẩm máy tính từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ. Là quản trị:

- Những công nhân ở vị trí sản xuất.
- Những kĩ sư trong bộ phận kĩ thuật.
- Những nhân viên trong bộ phận kiểm tra sản phẩm.
- Những nhân viên trong bộ phận xuất kho.
- Những nhân viên trong bộ phận vân chuyển.

- Những nhân viên trong bộ phận bán hàng.

Suy ra: quản trị một sản phẩm máy tính là quản trị con người thông qua những kết
quả công việc mà họ đã hoàn thành do cấp trên giao cho.

Câu 4: Tại sao quản trị phải tác động thường xuyên liên tục? Cho ví dụ về những
trường hợp khơng thực hiện quản trị thường xuyên liên tục nên đã dẫn tới những
kết quả khơng tốt (thậm chí người lãnh đạo có thể bị xử lý hình sự về trách nhiệm
này). Từ ví dụ này hãy bình luận ý nghĩa của việc nghiên cứu?

Trả lời:

Quản trị phải tác động thường xuyên liên tục là vì làm như vậy sẽ đạt được các
mục tiêu đã đề ra và đem lại hiệu quả cao trong công việc dựa trên cơ sở khai thác
sử dụng hợp lý , tiết kiệm các nguồn lực. Nhưng ngược lại nếu một tổ chức nào đó
mà khơng thực hiện việc quản trị thường xuyên , liên tục thì sẽ dẫn đến những kết

quả không tốt như : các hoạt động quản trị trong tổ chức đó sẽ bị đảo lộn , khó
kiểm sốt và quản lý tổ chức đó sẽ kém phát triển và lại phải mất nhiều thời gian ,
nguồn lực để xây dựng và phát triển lại từ đầu.

Ví dụ:

Trong cơng ty có quy định cán bộ công nhân viên không được phép đi làm muộn ,
nếu đi làm muộn thì sẽ bị kỷ luật một cách nghiêm khắc . Lúc đầu mọi người thực
hiện một cách rất nghiêm chỉnh , nhưng có một hơm giám đốc cơng ty lại đi làm
muộn , vì người đi làm muộn là giám đốc của công ty nên khơng ai trong cơng ty
giám nói gì về việc này , nhưng sau đó lại xảy ra hiện tượng là nhân viên trong
cơng ty đi làm muộn ( vì mọi người nghĩ rằng giám đốc cịn đi làm muộn thì tội gì
mà mình khơng đi muộn ). Từ đó các quy tắc , kỷ luật của công ty không được

nhân viên trong công ty chấp hành đầy đủ và nghiêm túc nữa.

=>Qua ví dụ trên ta thấy , nếu người đứng đầu trong một tổ chức mà không quản
trị thường xuyên , liên tục các hoạt động của tổ chức đó thì sẽ dẫn đến những kết
quả khơng tốt cho tổ chức đó và làm cho tổ chức đó kém phát triển.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu : Nghiên cứu sẽ giúp cho chúng ta hiểu sâu , hiểu
rộng về một vấn đề nào đó ,giúp ta biết rõ ưu điểm và nhược điểm cuả vấn đề để
phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm.

Câu 5: Ví dụ minh họa “ quá trình đề ra quyết định quản trị”.

Công ty Precision Interiors chuyên thiết kế và sản xuất ghế ngồi và nội thất xe
cho các nhà sản xuất ô tô ở châu Âu và Bắc Mỹ. Để cạnh tranh, công ty phải liên
tục cải tiến thiết kế và các vật liệu của mình nhằm nâng cao tính an tồn và tiện
nghi cho hành khách với mức chi phí và độ bền phù hợp. Trên tinh thần đó, một kỹ
sư trong nhóm đã làm việc với Cơng ty FiberFuture - một nhà cung ứng nhỏ đã
phát triển thành cơng một vật liệu mới tên là Zebutek, có tính năng chống cháy,
giảm xóc và cách âm tốt hơn tất cả các vật liệu khác đang có trên thị trường. Anh
lập luận: "Nếu sử dụng vật liệu Zebutek để gia cố mui xe và lớp lót cửa, sản phẩm
của chúng ta sẽ có lợi thế thật sự. Tuy Zebutek có giá thành đắt hơn loại vật liệu
mà chúng ta đang dùng nhưng chắc chắn khách hàng sẽ công nhận giá trị của nó".
Tuy nhiên, quyết định chấp nhận sử dụng loại vật liệu mới này lại không đơn giản.
Sẽ phải đánh đổi nhiều thứ và có khơng ít rủi ro. Ngồi khía cạnh lợi ích, người kỹ
sư cũng đưa ra một danh sách gồm nhiều vấn đề phải xem xét:
- FiberFuture là một công ty nhỏ và tương đối mới trên thị trường. Liệu cơng ty có
khả năng cung cấp số lượng vật liệu mà chúng ta yêu cầu khơng? Chúng ta có thể
hy vọng họ sẽ cung cấp đúng lịch trình khơng? Và quan trọng nhất là chất lượng có
ổn định khơng?


- Điều gì sẽ xảy ra nếu FiberFuture phá sản? Chúng ta sẽ phải vất vả tìm nhà cung

ứng khác khơng?

- Các quy trình sản xuất hiện tại của chúng ta có phù hợp với Zebutek, hay phải
trang bị thêm những thiết bị khác?

- Khách hàng của chúng ta - các hãng ô tô - đang phải rất vất vả để giữ chi phí
khơng tăng. Liệu họ có đồng ý khi chúng ta tính giá cao hơn cho loại vật liệu mới
này không? Hay chúng ta chấp nhận khoản chi phí phụ trội đó nhằm xác lập và giữ
thị phần?

- Nhà cung cấp các vật liệu nội thất hiện tại của chúng ta là một đối tác đáng tin
cậy và đã hợp tác trong nhiều năm qua. Mối quan hệ này sẽ ra sao nếu 20 đến 30%
thương vụ sẽ được chuyển sang cho FiberFuture?

- Liệu có nhà cung ứng nào khác cũng đang phát triển một loại vật liệu tương tự,
hay thậm chí cịn tốt hơn Zebutek?

KẾT LUẬN

Quản trị là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản trị
lên đối tượng bị quản trị nhằm đạt được mục tiêu chung của tổ chức đã đề ra trong
điều kiện biến động của môi trường và sự thay đổi của các nguồn lực.

Bao gồm 5 yếu tố thành phần :

- Chủ thể quản trị và đối tượng bị quản trị : Chủ thể quản trị là tác nhân tạo ra
các tác động. Tác động này có thể là một lần nhưng cũng có thể là nhiều lần. Đối
tượng bị quản trị phải tiếp nhận các tác động của chủ thể quản trị. Thông thường

chủ thể là một hoặc nhiều ngƣời cịn đối tƣợng có thể là máy móc thiết bị, tiền
vốn, vật tư hay con người. Căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động là mục tiêu của
quản trị.

- Có mục tiêu quản trị rõ ràng : Các mục tiêu của các cá nhân được thực hiện
trong phạm vi nỗ lực của cá nhân, còn các mục tiêu của tổ chức địi hỏi phải có
những nỗ lực chung, những hoạt động tập 3 thể và sự phối hợp giữa các cá nhân
trong tổ chức khi thực hiện chúng. Các mục tiêu của tổ chức tạo ra sự hỗ trợ và
định hướng đối với tiến trình quản trị và chúng cũng là cơ sở để đo lường mức độ
hoàn thành cơng việc. Nếu một tổ chức khơng có mục tiêu hoạt động, thì tiến trình
quản trị của nó sẽ giống như một chuyến đi khơng có nơi đến, khơng có mục đích
cụ thể và hồn tồn vơ nghĩa.

- Kết quả và hiệu quả : Kết quả là những hoạt động nhằm đạt được mục tiêu
đã định, còn hiệu quả thể hiện cách thức tiến hành các hoạt động đó trong điều kiện
có sự hạn chế về các nguồn lực. Vấn đề trong hiệu quả trong kinh doanh được đặt
ra như một tiền đề cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Trách nhiệm của các nhà quản
trị là phải duy trì sự cân bằng giữa hai phạm trù này, đảm bảo vừa đạt đƣợc kết
quả trong việc thực hiện những mục tiêu đã đặt ra, đồng thời cũng phải duy trì tính
hiệu quả bằng cách tiết kiệm được càng nhiều chi phí càng tốt và lợi trừ sự lãng phí
các nguồn tài nguyên hạn chế

- Có nguồn tài nguyên hạn chế : Các yếu tố được sử dụng trong quá trình kinh
doanh của các doanh nghiệp đều là những nguồn tài nguyên hạn chế. Điều này đòi
hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên, nguyên liệu sản
xuất và bảo vệ môi trường khi tiến hành các hoạt động kinh doanh.

- Môi trường quản trị luôn thay đổi : Các nhà quản trị phải đối mặt với một
nhiệm vụ hết sức khó khăn là phải chuẩn bị cho sự thay đổi thế giới nói chung và



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×