Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

TIỂU LUẬN: “CƠ CHẾ KẾ HOẠCH HÓA TẬP TRUNG Ở VIỆT NAM THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI” potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.3 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM








TIỂU LUẬN:

“CƠ CHẾ KẾ HOẠCH HÓA TẬP TRUNG Ở VIỆT
NAM THỜI KỲ TRƢỚC ĐỔI MỚI”











GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:


Huế, ngày 10 tháng 04 năm 2012




A. Mở đầu:

Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chiến thắng, miền Bắc hoàn toàn
giải phóng, bắt đầu công cuộc xây dựng CNXH và con đường cách mạng CNXH cơ
bản được hình thành. Năm 1960, sau cải cách CNXH, nước ta áp dụng mô hình kế
hoạch hóa tập trung cho cơ chế quản lý kinh tế theo quan niệm lúc bấy giờ. Năm
1975, miền Nam hoàn toàn tự do, thống nhất Tổ quốc, cơ chế kế hoạch hóa một lần
nữa được sử dụng, đẩy mạnh trên phạm vi toàn quốc. Đến tận năm 1986 thì dần dần
bộc lộ nhiều khuyết điểm to lớn không thể sửa chữa, Đảng mới thay đổi chính sách,
thực hiện Đổi mới - đưa nước ta tiến tới xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Như vậy, cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã tồn tại ở nước ta trong một thời
gian dài từ năm 1960 cho đến tận năm 1986. Tại sao một mô hình với nhiều khiếm
khuyết lại có thể tồn tại lâu đến như vậy? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu để có thể trả
lời một cách rõ ràng hơn.

B. Nội dung:

I. Cơ chế là gì?
Cơ chế là hệ thống cùng những quy tắc, phương thức nhằm vận hành hệ
thống đó.
Cơ chế kinh tế là bản thân nền kinh tế cùng với các hình thức hoạt động của
nền kinh tế đó dưới tác động của các quy luật kinh tế và quy luật khác.
Cơ chế quản lý kinh tế là các quy tắc điều chỉnh các hành vi, hoạt động kinh
tế của các cá nhân và tổ chức kinh tế; là hệ thống các biện pháp, hình thức, cách
thức tổ chức, điều khiển nhằm duy trì các mối quan hệ kinh tế phát triển phù hợp
với những quy luật kinh tế khách quan theo mục tiêu đã xác định trong những điều
kiện kinh tế xã hội của từng giai đoạn phát triển.

Hay nói ngắn gọn, đó là toàn bộ hệ thống pháp quy, gồm những hình thức, cách
thức và phương tiện mà nhà nước sử dụng để quản lí và điều hành nền kinh tế.

II.Cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở Việt Nam trước Đổi mới:
1. Khái niệm:
Sau chiến thắng ở miền Bắc, dựa vào xu thế khách quan và yêu cầu cấp bách
xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật phục vụ cho giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc, Đảng quyết định đưa miền Bắc tiến lên theo định hướng XHCN.
Nhà nước mới XHCN được xây dựng theo quan niệm lúc bấy giờ: cơ chế
quản lí kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa tập trung.
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung (bàn tay hữu hình hay cơ chế mệnh lệnh): là
cơ chế trong đó nền kinh tế vận động dưới sự kiểm soát của Nhà nước về các yếu tố
sản xuất cũng như phân phối về thu nhập. Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt
động của nền kinh tế, không coi trọng các quy luật thị trường.
* Đặc trưng ở 2 tiêu chí:
- Chế độ sở hữu:
Chế độ sở hữu toàn dân và tập thể về tư liệu sản xuất đóng vai trò chính của
mô hình phát triển: chỉ thừa nhận sở hữu toàn dân, điều tiết theo cơ chế kế hoạch
hóa, tập trung tất cả mọi vai trò vào tay Nhà nước.
Chỉ có một nền kinh tế quốc doanh hoàn toàn, kinh tế Nhà nước và kinh tế
tập thể giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác hầu như không được chú
trọng.
Các đơn vị kinh tế chủ yếu: công ty nhà nước, xí nghiệp và hợp tác xã.
- Chế độ phân phối:
Phân phối trên nền tảng kế hoạch do Nhà nước xây dựng, triển khai, điều
phối chứ không phân phối theo các quy luật kinh tế thị trường cơ bản như quy luật
giá trị, quy luật cung- cầu…
- Nhà nước tính toán “số liệu kiểm tra” rồi phân bổ chỉ tiêu cho các bộ,
ngành, tỉnh. Sau đó, số liệu được chuyển xuống các cấp thấp hơn là các
cục, vụ, xí nghiệp,…

- Mỗi cơ sở phải tự xây dựng kế hoạch của mình và trình lên cấp trên bằng
cách cân đối giữa “số liệu kiểm tra” được đưa xuống với “số liệu điều
tra” tại cơ sở.
- Kế hoạch cuối cùng được đưa ra sau khi cấp trên xem xét “số liệu điều
tra” và kế hoạch của cấp dưới. Kế hoạch này trở thành chỉ tiêu pháp lệnh
và giao lại xuống dưới.

 Quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH này của nước ta chịu
ảnh hưởng của mô hình Xô Viết. Điều này không có gì là khó hiểu khi mà Liên Xô
là cái nôi cách mạng XHCN của thế giới, là anh cả trong phong trào đi lên CNXH.
Trong giai đoạn này, tư duy và lý luận về mô hình CNXH ở Liên Xô được áp dụng
rộng rãi trong khối CNXH trên toàn thế giới. Mặt khác, do yêu cầu khách quan của
cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, Đất nước ta lúc này “tất cả đều tập trung
cho tiền tuyến, vì miền Nam, vì sự nghiệp đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”
nên mọi hoạt động đều hướng về mục tiêu phục vụ cỗ máy quân sự khổng lồ. Do
đó, Nhà nước phải đứng ra điều tiết, tập trung nguồn lực cho mục tiêu này, nếu
không thì sức mạnh của cỗ máy ấy sẽ không được như mong muốn.

2. Đặc trưng và hình thức biểu hiện:

* Đặc trưng:
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung có đặc trưng cơ bản là mọi hoạt động kinh tế
xã hội đều theo một kế hoạch thống nhất từ trung tâm, nhấn mạnh quan điểm hiện
vật, không coi trọng các quy luật kinh tế, xem nhẹ hạch toán kinh doanh.
- Phương pháp, công cụ quản lý: sử dụng công cụ mệnh lệnh hành chính
mang tính áp đặt từ trên xuống trong việc giao nhiệm vụ sản xuất – kinh doanh
thông qua hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh.
- Chức năng quản lý: Nhà nước can thiệp quá sâu vào các lĩnh vực hoạt
động của nền kinh tế.
- Nguyên tắc quản lý: thực hiện nguyên tắc tập trung cao độ. Nhà nước tập

trung trong tay 3 loại quyền là:
Quyền quản lý nhà nước về hành chính kinh tế: không chịu trách nhiệm về
vật chất và pháp lý đối với các quyết định của mình.
Quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với các doanh nghiệp: doanh nghiệp
không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh.
Quyền điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp:
doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh.
 Điều này dẫn đến tệ nạn quan liêu, cửa quyền của nhà nước và tính thụ động, ỷ
lại, nạn hối lộ, móc ngoặc của các đơn vị kinh tế.
- Hình thức quản lý: quan hệ hàng hóa- tiền tệ bị coi nhẹ, chủ yếu là nền
kinh tế hiện vật thông qua chế độ “cấp phát- giao nộp” bằng hiện vật các nguyên
liệu đầu vào và các sản phẩm đầu ra.
- Bộ máy quản lý: cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, kém năng động với đội
ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng được hưởng
quyền lợi cao hơn người lao động.

* Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu:
Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng
hóa thấp hơn giá trị trên thị trường do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân phối vật
phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu,
thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao
động.
Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách nhưng không có chế tài
ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị cấp vốn; nó làm tăng gánh nặng
ngân sách, sử dụng vốn kém hiệu quả.

Những đặc trưng và hình thức thực hiện cơ chế kế hoạch hóa trên làm nảy
sinh cơ chế “xin- cho” về hành chính. Làm xuất hiện những mặt tiêu cực như:
- Quan hệ bất bình đẳng giữa nhà nước và công dân: quan hệ cai trị.

- Nhiều thủ tục hành chính rườm rà, hành dân để thể hiện quyền lực nhà nước.
- Tư duy cũ trong quản lý: ban phát, không phải là dịch vụ hành chính cho xã
hội.
- Tính tùy tiện, không kiểm soát chặt chẽ được từ phía nhà nước và nhân dân
đối với người “cho” và sự “chạy chọt” của người “xin” để xin được và được
nhiều.
- Mối quan hệ cứng nhắc trong hệ thống hành chính nhà nước: không phát huy
được tinh thần chủ động sáng tạo, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong phạm vi
quyền hạn của mình mà phải trông chờ vào cơ quan “cho”.

Cơ chế quản lý kinh tế của Việt nam trước Đổi mới còn được gọi là “cơ chế
kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp”- tập trung trong chỉ đạo, quan liêu
trong quản lý, bao cấp trong sản xuất và tiêu thụ. Một khái niệm rõ ràng và đầy đủ,
phản ánh trọn vẹn cơ chế quản lí kinh tế của cả một thời kì của nước ta.
Chúng ta đã thực hiện quản lý theo cơ chế tập trung đến mức quan liêu. Tuy
nhiên, chúng ta cần hiểu rõ rằng: quan liêu là hậu quả chứ không phải nguyên nhân
gây nên sự trì trệ, suy kém của nền kinh tế. Nó là hậu quả của sự lãnh đạo rập
khuôn, máy móc và thậm chí mù quáng của cơ chế kế hoạch hóa, chính sách sai
lệch dẫn đến bộ máy thừa hành không thể làm đúng được
Bởi lẽ, quan liêu là thuộc tính cố hữu của một nền hành chính, là điều kiện
cần để có nền hành chính mạnh. Nó đòi hỏi bộ máy thừa hành phải nhất mực trung
thành và tuân thủ yêu cầu của lãnh đạo cấp trên trong mọi quyết định hành chính,
chính sách, hiểu đúng và đủ về chính sách ấy.
Chính sách đúng-sai, tốt-xấu chủ yếu do các nhà lãnh đạo, chính trị đưa ra.
Họ được bầu bởi người dân nên nếu chính sách của họ không tốt, họ sẽ bị thay thế.
Quan liêu chỉ giúp việc triển khai chính sách được đầy đủ. Vì vậy, bản chất của
quan liêu là tốt.

3. Tình hình Việt Nam trước Đổi mới:


Trong những năm đầu áp dụng cơ chế này ở miền Bắc, tuy những kết quả đạt
được còn thấp so với yêu cầu đề ra nhưng cơ bản đã khôi phục kinh tế, hàn gắn vết
thương chiến tranh, ổn định sản xuất và đời sống.
- Khoảng 76.6% các hợp tác xã được đưa lên bậc cao và hợp
nhất các hợp tác xã qui mô lớn hơn, tổng thu bình quân trên một ha canh tác
tăng 43,7%, cuối năm 1965 có 162 xã gần 700 hợp tác xã đạt và vượt năng
suất 5 tấn thóc trên 1 ha cả năm, lương thực bình quân đầu người đạt
15kg/tháng; đời sống xã viên có tăng, thu nhập của người lao động từ kinh tế
tập thể tăng khá, thu nhập bình quân của nông dân tăng 24%.
- Cơ sở vật chất- kỹ thuật trong nông nghiệp tăng đáng kể: vốn
đầu tư xây dựng cơ bản tăng 4,9 lần, điện cấp tăng 9 lần, số máy kéo tiêu
chuẩn tăng 11 lần so với thời kì 1958-1960, vốn bình quân cho 1 ha canh tác
tăng 2,1 lần, hệ thống các công trình thủy lợi, sửa chữa cơ khí, sân phơi,
chuồng trại… của hợp tác xã liên tục tăng.
- Phát triển công nghiệp có những thành tích đáng chú ý là công
nghiệp quốc doanh phát triển mạnh mẽ và được đánh giá là phát huy tác
dụng là lực lượng lãnh đạo nền kinh tế quốc dân phát triển có kế hoạch. Đầu
năm 1965 có 1.045 xí nghiệp, trong đó có 250 xí nghiệp lớn do Trung ương
quản lí. Một số cơ sở đầu tiên, quan trọng, quy mô tương đối lớn, kỹ thuật
hiện đại thuộc các ngành công nghiệp nặng như cơ khí, luyện kim, hóa chất
được xây dựng và đi vào sản xuất. Ngành công nghiệp nhẹ phát triển khá
nhanh, mạng lưới công nghiệp địa phương phát triển khá. Năm 1965, miền
Bắc đảm bảo được 90% về mặt hàng tiêu dùng và một phần tư liệu sản xuất.
- Văn hóa, y tế, giáo dục có những bước tiến đáng kể. Trình độ
văn hóa, khoa học kỹ thuật của cán bộ và nhân dân được nâng lên rõ rệt, số
học sinh phổ thông tăng 3,5 lần; học sinh đại học và trung học tăng 25 lần.
Công tác vệ sinh phòng bệnh, bảo vệ sức khỏe phát triển: số y, bác sĩ và
dược sĩ năm 1965 tăng 5 lần so với năm 1960, 70% huyện có bệnh viện, 90%
xã ở đồng bằng và 78% xã miền núi có trạm y tế.
- Kết cấu giai cấp và quan hệ xã hội có nhiều thay đổi. Giai cấp

công nhân, tầng lớp trí thức XHCN phát triển nhanh chóng về số lượng và
chất lượng. Giai cấp nông dân đã tổ chức lại theo hướng đi lên CNXH. Khối
liên minh công- nông được củng cố và tăng cường trên cơ sở mới.

Với khí thế cách mạng tiến công chống nghèo nàn lạc hậu, với tinh thần lao
động hăng say và sáng tạo của nhân dân hướng về miền Nam ruột thịt, miền Bắc đã
có những biến đổi lớn, trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng Việt Nam
trong cả nước với chế độ chính trị ưu việt, lực lượng kinh tế khá và quốc phòng lớn
mạnh.

Trong giai đoạn chuyển hướng xây dựng kinh tế (1965-1975), với sự chống
phá quyết liệt của đế quốc Mỹ, công cuộc xây dựng CNXH vẫn được tiến hành. Chế
độ XHCN ở miền Bắc lúc đó đã vượt qua được nhiều thử thách nghiêm trọng và
ngày càng phát huy tính ưu việt trong thời kì có chiến tranh.

- Nông nghiệp: cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp được
tăng cường, có sự thay đổi cơ cấu cây trồng, vụ đông xuân được mở rộng.
Công cuộc tập thể hóa vẫn được tiếp tục, quy mô hợp tác xã được mở rộng.
Trong chiến tranh ác liệt, lực lượng lao động trẻ khỏe được động viên ra
tuyền tuyến, nhiều vùng phải bỏ hoang nhưng nông nghiệp được duy trì như
trên thì hợp tác xã đóng một vai trò không nhỏ.
- Công nghiệp: sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn. Giá trị
sản lượng công nghiệp một số năm bị giảm sút, tốc độ phát triển bình quân
của sản xuất công nghiệp thời kì 1966-1975 là 3,9%. Mạng lưới công nghiệp
địa phương được hình thành. Tuy bị đánh phá ác liệt nhưng giao thông vận
tải vẫn được đảm bảo thông suốt, việc đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật tăng
khá nhanh. Giá trị tài sản cố định trong khu vực sản xuất tăng nhiều.
- Chính trị: xóa bỏ chế độ phong kiến, người bóc lột người. Chế
độ mới, quan hệ sản xuất mới bước đầu được xây dựng với kết cấu kinh tế-xã
hội mới, tạo sự nhất trí về tinh thần của toàn xã hội. Đây là cơ sở quan trọng

để Đảng tập hợp sức mạnh toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Xã hội: xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật ban đầu quan trọng
cho nền kinh tế quốc dân. Giáo dục, y tế, văn hóa phát triển. Đội ngũ cán bộ
được đào tạo tăng nhiều lần, mạng lưới y tế được mở rộng, hoạt động văn
hóa nghệ thuật phát triển, góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân
dân, xây dựng con người mới.

Những thành tựu nêu trên còn thấp so với những mục tiêu của CNXH,nhưng
đặt vào hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ thì những thành tựu đó có giá trị thật lớn lao.
Theo đó, với khí thế của người chiến thắng, Đảng tiếp tục áp dụng và đẩy nhanh
quá trình đi lên CNXH trên phạm vi cả nước với những đường lối, mục tiêu lớn: xây
dựng chế độ làm chủ tập thể và sản xuất lớn được nêu trong Đại hội IV (12/1976)
“nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động… đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá
độ lên CNXH, xây dựng chế độ làm chủ tập thể…” , “ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây
dựng cơ cấu công- nông nghiệp kết hợp, vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát
triển kinh tế địa phương…”.

Trong thời gian này, tuy cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã đem lại một số
thành tựu đáng chú ý: cơ bản hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế, bước đầu
bình ổn sản xuất và đời sống, mang lại cho nhân dân cuộc sống tự do, quyền làm
chủ xã hội cùng với những cải thiện đáng kể trong đời sống vật chất và tinh thần
nhưng thực tế cuộc sống trước Đổi mới đã chứng minh rằng trong nền kinh tế mang
đậm bản sắc nông dân- nông nghiệp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, mô hình
phát triển gắn với cơ chế kế hoạch hoá tập trung có những khiếm khuyết lớn trong
việc giải quyết các nhiệm vụ phát triển, nhất là trong lĩnh vực kinh tế.

Ít lâu sau Đại hội IV của Đảng nền kinh tế có chiều hướng đi xuống, đời
sống nhân dân ngày một khó khăn và từ cuối những năm 1970 nước ta lâm vào cuộc

khủng hoảng kinh tế-xã hội.

Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) được thực hiện với những chỉ tiêu
lớn, nhiều điểm duy ý chí nên phần lớn chỉ tiêu đều không đạt.
Nhà nước đầu tư khá nhiều tiền của và công sức cho sự nghiệp công nghiệp
hóa XHCN, làm cho năng lực sản xuất của các ngành kinh tế được tăng cường một
bước. Nhưng những kết quả mang lại còn thấp so với yêu cầu, chưa tương xứng với
công sức bỏ ra. Các xí nghiệp công nghiệp nhìn chung chỉ sử dụng được một nửa
công suất thiết kế; năng suất lao động giảm, chất lượng sản phẩm sút kém.

Mở rộng quy mô hợp tác xã, tổ chức lại sản xuất, thực hiện chuyên môn hóa
và áp dụng sai lệch phương thức quản lý đã làm cho lao động nông nghiệp hoàn
toàn tách rời ruộng đất, tư liệu sản xuất, sản phẩm cuối cùng. Lợi ích kinh tế của
người lao động bị vi phạm, làm triệt tiêu động lực sản xuất của nông dân. Người
nông dân chỉ còn phát huy năng lực của mình trên mảnh đất 5%.
Mô hình tập thể hóa ở miền Bắc, điều chỉnh ruộng đất và cải tạo nông nghiệp
theo kiểu chiến dịch không phù hợp với đặc điểm của một nền nông nghiệp đã bước
đầu sản xuất hàng hóa ở miền Nam. Không những không thúc đẩy sản xuất ở Nam
Bộ phát triển mà còn kìm hãm nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng
hóa.
Cải tạo công thương nghiệp miền Nam bằng cách loại bỏ kinh tế tư nhân,
xóa bỏ kinh tế nhiều thành phần, thực hiện quốc doanh hóa- thực chất là nhà nước
hóa- toàn bộ cơ sở kinh tế tư nhân, cá thể. Áp dụng cơ chế quản lý tập trung bao cấp
cho toàn bộ cơ sở kinh tế công thương nghiệp nên kìm hãm sự phát triển sức sản
xuất.
Bố trí cơ cấu đầu từ thiên về công nghiệp nặng, đưa nhiều chỉ tiêu tốc độ
phát triển quá cao và quy mô lớn, kết quả đầu tư nhiều nhưng hiệu quả rất thấp.
Tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng bình quân hàng năm 1,4%. Sản xuất đình trệ,
tăng trưởng chỉ đạt 0,4 %/ năm (kế hoạch là 13-14 %) trong khi tỷ lệ tăng dân số
hàng năm 2,24 %. Tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay gắt, năm 1980 phải nhập

1,576 triệu tấn lương thực. Ngân sách thiếu hụt lớn, giá cả tăng hàng năm 20 %,
nhập khẩu nhiều gấp 4-5 lần xuất khẩu. Nhà nước thiếu vốn đầu tư cho nền kinh tế,
nhiều công trình phải bỏ dở, hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu trầm trọng, tốc độ tăng
bình quân về phát triển sản xuất công nghiệp là 0,6%.

Trước tình hình khó khăn và trì trệ của sản xuất, nhiều quyết dịnh được thực
hiện nhằm tháo gỡ và thoát khỏi trì trệ. Cuối năm 1970 ở một số địa phương đã xuất
hiện “khoán chui”. Nhiều điểm mới trong quản lí được thực hiện. Ngày 21/1/1981,
ban hành quyết định 26 CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản
phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh của
Nhà nước.
Nghị quyết 26 NQ/TW nhấn mạnh nguyên tắc giá cả phải phù hợp với chi
phí sản xuất và lưu thông, tích cực tiến tới xóa bỏ tem phiếu.
Hai cuộc thử nghiệm quan trọng được tiến hành:
- Áp dụng chế độ khoán sản phẩm nhóm và người lao động
trong hợp tác xã nông nghiệp (chỉ thị số 100 CT/TW).
- Triển khai chế độ "kế hoạch 3 phần " ở các xí nghiệp công
nghiệp quốc doanh (quyết định 25/CP ngày 21/1/1981).

Phong trào lan rộng ra khắp nền kinh tế và đã nhanh chóng đưa lại những
thành tựu nổi bật, trước hết là trên mặt trận nông nghiệp. Nông nghiệp phát triển
khá, bình quân mỗi năm tăng 4,9% so với 1,9% bình quân những năm 1976-1980.
Sản lượng lương thực tăng đều trong 5 năm từ 15 triệu tấn 1981 lên 18,2 triệu tấn
năm 1985. năng suất lúa tăng 23,8%, cây công nghiệp tăng 62,1%. Bình quân lương
thực từ 273 kg/đầu người một năm (1981) lên 304 kg năm 1985. Nhà nước huy
động lương thực tăng gấp đôi.
Tốc độ bình quân hàng năm của công nghiệp trong các năm 1981-1985 là
9,5%.
Nhà nước Việt nam đã phải quyết định tiến hành một cuộc tổng điều chỉnh
Giá - Lương - Tiền với các mục đích: Điều chỉnh sức mua của đồng tiền, điều tiết

thu nhập của một bộ phận không nhỏ những người làm ăn bất chính, huỷ bỏ tiền mà
kẻ địch đang có trong tay làm phương tiện phá hoại kinh tế. Đồng thời đổi tiền để
tổng kiểm tra tồn quỹ tiền mặt của các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp và tổ chức kinh
tế Tuy nhiên, đợt cải cách giá qui mô lớn của Chính phủ (1981) không đem lại
hiểu quả tích cực. Những sai lầm trong tiến hành cải cách giá- lương- tiền thực sự
gây ra khủng hoảng kinh tế- xã hội vào những năm 1980.
Sau kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981-1985), nền kinh tế thiếu cân đối và lâm
vào khủng hoảng trầm trọng. Sản xuất đình trệ thể hiện trên tất cả các lĩnh vực. Nạn
lạm phát tăng nhanh, đầu những năm 80 tăng khoảng 30-50 % hàng năm, cuối năm
1985 lên đến 587,2 % và siêu lạm phát đạt đến đỉnh cao vào năm 1986, với 774,7
%. Đời sống nhân dân hết sức khó khăn.

Những khó khăn về mặt kinh tế và đời sống ngày càng gay gắt và chồng
chất, nhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân vẫn chưa
được giải quyết đầy đủ.

Kinh tế: Thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể luôn bị thua lỗ,
không phát huy được vai trò, tác dụng; trong khi đó, các thành phần kinh tế cá thể
và tư hữu bị ngăn cấm. Thu nhập quốc dân và năng suất lao động thấp, chưa đảm
bảo được nhu cầu tiêu dùng của xã hội trong khi dân số tăng nhanh, chưa tạo được
tích lũy từ bên trong. Các chủ trương kiểm soát sản xuất hàng hóa trái với qui luật
phát triển của xã hội đó làm nền kinh tế của cả nước xuống dốc một cách thê thảm.
Sản xuất công – nông nghiệp bị đình đốn. Tình hình cung ứng năng lượng,
vật tư; tình hình giao thông vận tải rất căng thẳng.
Thị trường, vật giá, tài chính, tiền tệ không ổn định: đúng 6 giờ sáng ngày
14/9/1985 Nhà nước công bố lệnh đổi tiền lần thứ tư kể từ khi thành lập Ngân hàng
quốc gia VN (1951) với tỷ lệ: một đồng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mới bằng
mười đồng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũ. Tuy vậy, do nhiều nhân tố không thể
lường trước được nên ngay sau cuộc đổi tiền, chẳng những không hạn chế được bớt
lượng tiền mặt trong lưu thông mà còn phải phát hành thêm với số lượng lớn phục

vụ nhu cầu trả lương, thu mua nguồn hàng và trang trải bội chi ngân sách Nhà nước.
Chỉ trong vòng hơn ba tháng kể từ sau ngày đổi tiền, Ngân hàng đã phải phát hành
thêm một khối lượng gấp 1,38 lần tổng giá trị tiền mới phát hành cho cuộc đổi tiền
trước đó. Nhu cầu chi tiêu sau đó lại tiếp tục gia tăng, tiền phát ra thì nhiều, quay về
NHTW thì ít mà phần lớn số tiền tín dụng không quay về đã bị "tài chính hoá".
Chênh lệch giữa thu và chi tài chính, giữa hàng và tiền, giữa xuất khẩu và
nhập khẩu còn lớn, thị trường và giá cả không ổn định. Giá thị trường tăng nhanh (
năm 1980, giá bán lẻ trên thị trường xã hội tăng 189,5% so với năm 1976; năm
1981 tăng lên 313,7%; năm 1985 tăng trên 300% so với 1984), lạm phát phi mã
trong 3 năm 1986-1988 (đỉnh cao là năm 1986 lên tới 774,7% do những tác động trễ
của nhiều nhân tố từ 10 năm sau chiến tranh dồn lại). Nền kinh tế quốc dân mất cân
đối ngày càng nghiêm trọng.

Giáo dục: chưa được quan tâm đúng mức. Trong thời gian đầu hầu như
không học hành, dạy dỗ chuyên môn. Chủ yếu tập hợp lao động, nghe giảng chính
trị, tố cáo tội ác của “Mỹ - Ngụy”,… Sau này cuộc sống còn thiếu thốn khiến cho
giáo viên cũng như học sinh cũng không nhiệt tâm lắm. Sách vở thiếu, dụng cụ cũ
kỹ, học chay nhiều hơn thực hành. Hệ thống giáo dục chưa phát triển, học chỉ mang
tính hình thức.

Lưu thông phân phối: lưu thông chưa thông suốt, phân phối không hợp lí,
tùy tiện, còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được. Trên lý thuyết thì hàng lương thực
và nhu yếu phẩm được phân phối theo kế hoạch nhưng hoàn toàn không có kế
hoạch gì cả, “có gì bán nấy”, theo kiểu ban phát. Hàng hóa được nhà nước phân
phối theo chế độ tem phiếu, hàng hóa không được mua bán tự do trên thị trường,
không được phép vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương
khác.






Một số loại tem phiếu dùng để mua lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng

Lương thực, vải mặc và hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu thốn trầm trọng.
Những cảnh chen lấn, xô đẩy, xếp hàng tranh nhau mua lương thực dù chất lượng
kém (bột sắn, mì vụn, gạo mốc…); đi mua thuốc lá (được bọc trong một bao nylon
với khoảng vài chục điếu thuốc, đôi khi không có bao bì) dù trai hay gái, dù biết hút
hay không… là điều trở nên bình thường. Chế độ hộ khẩu được thiết lập để phân
phối lương thực, thực phẩm theo đầu người. Phân phối hàng hóa hạn chế trao đổi
bằng tiền mặt. Lương đôi khi cũng được trả bằng hiện vật. Đến bây giờ vẫn còn
nhiều câu chuyện về vấn đề “phân phối” nhu yếu phẩm ở thời bao cấp mà khi được
nghe kể lại, chúng ta vẫn khó có thể hình dung. Theo giảng viên Lê Anh Tuấn (ĐH
Cần Thơ) “Có lần lớp tôi được phân phối sữa bột, có lẽ từ một nguồn viện trợ hiếm
hoi nào đó, một số đem bán ngay ở chợ trời, còn dư một ít bột bị ẩm ướt, vón cục,
cả lớp hùn lại pha uống. Hậu quả là ngay ngày hôm sau, hơn 2/3 lớp học bị tiêu
chảy vì cơ thể đã lâu không biết sữa là gì” hay “một đứa trong nhóm bạn của tôi
phát hiện ở Trạm Y tế trường có nhập về xi-rô ho, loại này có trộn mật ong, vị ngọt
lịm. Thế là cả nhóm ai nấy cũng giả bộ húng hắng ho để xin về được mỗi đứa một
chai, chúng tôi gom lại, tối cử hai thằng gan nhất bò ra ngoài đồng ăn cắp khoai
mì, đem về nấu chè chung với loại thuốc ho này. Bữa đó đứa nào cũng hỉ hả một
bữa ăn đầy chất ngọt”.


Người dân xếp hàng, chen lấn mua nhu yếu phẩm

Tài nguyên thiên nhiên: tài nguyên và các nguồn lực chưa được khai thác
tốt, phát huy đầy đủ, thậm chí bị xói mòn; bị sử dụng lãng phí, nhất là đất nông
nghiệp và tài nguyên rừng; môi trường sinh thái bị phá hoại.


Đời sống xã hội: đời sống nhân dân sa sút chưa từng thấy. Nhất là công nhân
viên chức, các vùng sâu, vùng xa, vùng gặp thiên tai còn gặp nhiều khó khăn, thiếu
thốn. Nhiều người lao động chưa có hoặc chưa đủ việc làm. Nhiều nhu cầu tối thiểu
của nhân dân về đời sống vật chất và văn hoá chưa được bảo đảm. Ở thành thị,
lương tháng của công nhân, viên chức chỉ đủ sống 10 – 15 ngày. Ở nông thôn, vào
lúc giáp hạt có tới hàng triệu gia đình nông dân thiếu ăn.

Hiện tượng tiêu cực trong xã hội: chưa được ngăn chặn, thậm chí còn phát
triển. Công bằng xã hội bị vi phạm. Pháp luật, kỉ cương không nghiêm. Những hành
vi cửa quyền, tham ô, "móc ngoặc" của một số cán bộ và nhân viên nhà nước,
những hoạt động làm ăn phi pháp… chưa bị xử lí kịp thời và nghiêm khắc.

Nhìn tổng quát, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế Việt Nam vận
động thiếu năng động và kém hiệu quả. Những mất cân đối và nguy cơ bất ổn định
tiềm tàng trong đời sống kinh tế - xã hội bị tích nén lại. Tình trạng thiếu hụt kinh
niên làm gia tăng các căng thẳng trong đời sống xã hội.Tiêu cực xã hội lan rộng.
Lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của các cơ
quan Nhà nước giảm sút. Làn sóng người vượt biên ồ ạt, đặc biệt trong giới công
chức chính quyền cũ, nhà buôn, các trí thức.
Chính việc thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp cùng
với những kết quả tiêu cực trên đã làm cho tình hình kinh tế của Đất nước rơi vào trì
trệ, khủng hoảng nghiêm trọng; cuộc sống nhân dân thực sự bi thảm. Để rồi mỗi khi
nhắc tới giai đoạn 1975-1986 người ta đều nhớ tới nó như một giai đoạn thất bại và
tù đọng nhất Việt Nam qua cái tên “thời bao cấp”.

4. Nguyên nhân gây nên sự thất bại của cơ chế kế hoạch hóa tập trung:

Đảng và nhà nước ta đã thực hiên cơ chế kinh tế kế hoạch hóa từ năm 1954–
1986.
Hiện nay, mô hình XHCN của Liên Xô được gọi là mô hình “quan liêu, bao

cấp” bởi đây là mô hình xã hội chủ nghĩa có nhiều khuyết điểm.

* Trong giai đoạn đầu (1954-1975): thời kì kinh tế còn phát triển chủ yếu
theo chiều rộng thì cơ chế quản lí bao cấp là sự phù hợp và đúng đắn. Nó cho phép
tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn
và điều kiện cụ thể, nhất là trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng ưu tiên
công nghiệp nặng.
Đất nước có chiến tranh, mục tiêu là huy động tối đa sức lực của nhân dân.
Nhà nước thực hiện bao cấp hoàn toàn giúp người lính yên tâm chiến đấu và giải
phóng dân tộc, không phải lo chuyện gia đình.
 đáp ứng được yêu cầu của thời chiến.

* Sau năm 1975: nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều
sâu dựa trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học công nghiệp hiện đại, đất nước
ta bước vào xây dựng đất nước trong thời bình, cơ chế kế hoạch hóa tập trung
không còn phù hợp, bộc lộ rõ những khuyết điểm của mình. Nó thủ tiêu cạnh tranh,
kìm hãm tiến bộ khoa học kỹ thuật, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao
động, ko kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Hơn thế nữa, đội ngũ cán bộ công chức của các cơ quan hành chính Nhà nước ngày
càng trở nên quan liêu, lộng quyền, hách dịch.
 nền kinh tế xã hội lâm vào khủng hoảng trì trệ.

Với mô hình "quan liêu, bao cấp" này, các nước XHCN đồng loạt bị khủng
hoảng toàn diện. Do vậy, nền kinh tế Việt Nam (1975-1986) ở trong tình trạng trì
trệ, ách tắc là đều dễ hiểu, là hội chứng chung ở hầu hết các nước theo mô hình
XHCN cũ.


Những khuyết điểm trong thể chế của Nhà nước XHCN cũ:
– Thể chế kinh tế: bị xơ cứng hàng thập kỷ bởi một số công thức mang

nặng tính duy ý chí. Chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất, sự điều khiển toàn
bộ nền kinh tế theo một kế hoạch tập trung, thống nhất, được qui định từ trên xuống
một cách chủ quan có thể là những cơ chế quản lí không sai trong một hoàn cảnh
lịch sử cụ thể (thành công trong hoàn cảnh chiến tranh ở miền Bắc). Tuy nhiên, khi
nó được vận dụng một cách máy móc, tuyệt đối hóa trong hoàn cảnh thời bình ở
miền Nam thì bắt đầu trở thành chướng ngại cho sự phát triển. Đó là sự nghi kỵ và
phủ nhận những thành quả của khoa học quản lý mà loài người đã đạt được trong
thế giới đương đại, là cách thức áp đặt những quyền uy trong việc xác nhận chân
lý…
– Hệ thống bất cập của các kênh truyền dẫn thông tin từ thực tiễn tới tư
duy và từ tư duy tới chính sách: khép kín, chậm chạp, nghèo nàn và méo mó. Ý kiến
người dân, những cuộc điều tra thăm dò khách quan, vai trò của báo chí, vai trò của
Quốc Hội, các cơ quan nghiên cứu độc lập… không có điều kiện để phát huy hết
hiệu quả, mang nặng tính hình thức hơn là những công cụ hữu hiệu của xã hội. Sự
méo mó cộng với quyền uy chính là cơ bản dẫn tới những sai lầm mang nặng tính
chủ quan, duy ý chí.
– Vai trò của tƣ duy kinh tế: của các nhóm chuyên gia rường cột bị suy yếu,
thậm chí bị tê liệt. Đó là yếu tố quan trọng tạo ra sức mạnh kinh tế của một quốc
gia, nhưng ở đây tư duy kinh tế lại mang nặng chức năng thực hiện thụ động những
thực đơn có sẵn, là người thể hiện cho tư duy của những nhà lãnh đạo.
Một cơ chế có nhiều khiếm khuyết nhưng vẫn tồn tại, vẫn được sử dụng
trong một thời gian dài như vậy (từ khoảng 1960 đến 1986) vì nhiều nguyên nhân
cả khách quan lẫn chủ quan.
Khách quan:
Do mối quan hệ cũng như sự ảnh hưởng lớn của Liên Xô.
Do sau khi giải phóng, miền Bắc vẫn chưa thực sự hòa bình, các cuộc chiến
tranh biên giới Tây Nam, phía Bắc vẫn tiếp diễn  gây ra những đảo lộn và khó
khăn. Do miền Nam tuy giải phóng nhưng chủ yếu lo xóa bỏ “tàn dư chế độ cũ” nên
cơ chế này vẫn được sử dụng.
Do trong chiến tranh, những khuyết tật của cơ chế chưa bộc lộ hết.

Chủ quan:
Sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động
trong thời kỳ quá độ.
Mắc bệnh chủ quan duy ý chí, giản đơn hóa, muốn thực hiện nhanh chóng
nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên.
Có thành kiến không đúng, chưa thực sự thừa nhận những quy luật của sản
xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan  không chú ý vận dụng chúng vào việc
định chế các chủ trương, chính sách kinh tế.
Không tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của mình và các nước XHCN khác:
Tâm lí ỷ lại, thỏa mãn sau chiến thắng trước những thành tựu đạt được ở miền Bắc.

Do tâm lí ngại thay đổi trong đa số lãnh đạo của ta đang phổ biến nên càng
thiếu động lực chuyển đổi.
 Những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách; những
sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.


5. Nhu cầu cấp thiết về đổi mới cơ chế quản lí:

Trước những kết quả yếu kém do cơ chế kế hoạch hóa tập trung gây ra cho
kinh tế các nước XHCN, các nước XHCN lần lượt tiến hành các biến đổi quan trọng
về cơ chế quản lý.
- Trung Quốc tiến hành công cuộc cải cách theo hướng thị trường - mở cửa
bắt đầu diễn ra từ năm 1978 và đạt được những thành tựu nổi bật, vang dội.
- Liên Xô tiến hành công cuộc cải tổ nhưng không thành công, kéo theo sự
sụp đổ của hệ thống XHCN ở Đông Âu. Sự sụp đổ đó là bằng chứng về sự thất bại
của con đường cải tổ theo kiểu "phủ định sạch trơn", sử dụng "liệu pháp sốc", giải
quyết không đúng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình cải tổ.

Những biến đổi trên đã tác động tới Việt Nam, giúp ta nhận thức rõ phải đổi

mới tư duy phát triển, đặt trọng tâm vào phát triển kinh tế theo một phương thức
mới. Chúng ta cần một tư duy mới, cơ chế mới, tri thức mới và một kiểu dũng cảm
mới. Sự dũng cảm chấp nhận sự thật, đánh giá đúng sự thật và tìm ra những giải
pháp xử lý tận gốc những sự thật bất cập đang hoành hành lúc đó. Mặt khác, nó tạo
ra các cơ hội và điều kiện để sự thay đổi đó diễn ra thuận lợi.

Kết quả là trong kỳ Đại hội Đảng lần thứ VI vào cuối năm 1986, Đảng tuyên
bố chủ trương Đổi mới, đề cập sự cần thiết và cấp bách của việc đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo
được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế XHCN, hạn chế việc sử dụng và cải
tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng,
hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu
cực trong xã hội". Cuối năm 1986 trở đi, nền kinh tế nước ta đã dần thoát ra được
cuộc khủng hoảng. Chế độ bao cấp từng bước được xóa bỏ, chấm dứt thời kì ảm
đạm, cay đắng trong lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam.
C. Kết luận:

Bài tiểu luận đã giúp chúng ta hiểu về những khái niệm, đặc trưng và hình
thức thể hiện của cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Hiểu những đóng góp to lớn của nó
trong công cuộc khôi phục kinh tế sau chiến tranh, việc tập trung sức người sức của
cho bộ máy quân sự nhằm đảm bảo thành công của cách mạng giải phóng Đất nước.
Hiểu về cuộc sống khó khăn của nhân dân dưới thời bao cấp, sự giảm sút ngày càng
nhanh chóng của nền kinh tế, khủng hoảng trầm trọng và những chính sách, quyết
định của Nhà nước, của Đảng trong nỗ lực thay đổi tình hình hiện tại. Tuy có nhiều
khuyết tật, gây ra những hệ lụy to lớn, đẩy nước ta vào khủng hoảng nghiêm
trọng… nhưng việc áp dụng nó trong thời kỳ đó là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với
xu thế thế giới cũng như là tất yếu khách quan trên lịch sử phát triển kinh tế, chính
trị Việt Nam. Sai lầm có chăng là do chúng ta tiếp nhận một cách máy móc, lệch lạc
và không sớm nhận ra những khuyết điểm, sữa chửa kịp thời.

Qua đây, chúng ta đã có cái nhìn tổng quát hơn về cơ chế kế hoạch hóa tập
trung bao cấp; sự đúng đắn, cần thiết trong quyết định Đổi mới cũng như thấy được
những thành tựu to lớn mà Nhà nước đạt được từ khi Đổi mới đến nay.
* Tài liệu tham khảo:
Sách:
- Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Đề cương bài giảng dùng trong các
trường đại học và cao đẳng năm học 1991-1992 )/ NXB Giáo Dục năm 1996/ trang
166-172.
- Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (chương trình cao cấp lý luận
chính trị) / Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005/ trang 223; 234;
235.
- Giáo trình Trung học chính trị Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam/ Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 1997/ trang 212; 213; 219-224.
- Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam/ NXB
Chính trị quốc gia năm 2011/ trang 142- 145.
Web:

×