Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Đề tài 16 . Vận dụng quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.01 KB, 14 trang )

Đề tài 16. Vận dụng quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam.

A. MỞ ĐẦU
Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành phần kinh tế quốc
doanh, tập thể và nhiều thành kinh tế khác nhau. Đây là một kết cấu kinh tế năng
động, phong phú được phản chiếu trên nền kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi
khách quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của
cơ sở kinh tế. Do đó, trong q trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng xã hội ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là
hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội – đó là phương diện kinh tế và phương
diện chính trị xã hội. Chúng tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với
nhau, tác động lẫn nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trị quyết định đôi với
kiến trúc thượng tầng, đồng thời kiến trúc thượng tầng thường xuyên có sự tác
động trở lại cơ sơ hạ tầng.

Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội ở
nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành
phần kinh tế quốc doanh, tập thể và nhiều thành kinh tế khác nhau. Tính chất đan
xen - quá độ về kết cấu của cơ sở kinh tế vừa làm cho nền kinh tế sôi động, phong
phú, vừa mang tình phức tạp trong quá trình thực hiện định hướng xã hội. Đây là
một kết cấu kinh tế năng động, phong phú được phản chiếu trên nền kiến trúc
thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng cũng phải
đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Như vậy kiến trúc thượng tầng mới
có sức mạnh đáp ứng đó hỏi của cơ sở hạ tầng.

Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là hai nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để đổi mới thành cơng, địi hỏi
phải nắm vững và vận dụng đúng đắn quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ


sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Để làm sáng tỏ hơn về những băn khoăn đó và
giúp bản thân có cái nhìn tổng quát về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng là lí do em chọn đề tài “Vận dụng quy luật về mối quan hệ
biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu tiểu luận.

B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận

1. Khái niệm cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng
1.1. Cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một
hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Khái niệm Cơ sở hạ tầng phản ánh chức năng
xã hội của các quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã
hội. Như vậy, thực chất đây là nói cơ sở kinh tế của xã hội; khơng phải nói kết cấu
hạ tầng kỹ thuật của xã hội - là cái thuộc về lực lượng sản xuất. Ví dụ, cơ sở hạ
tầng (hay cơ sở kinh tế) của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện
nay là một kết cấu kinh tế nhiều thành phần (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh
tế tư nhân tư bản,...) trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kết
cấu đó được xác lập trên cơ sở hệ thống ba loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất, sở
hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý, sở hữu tập thể của những người lao
động, sở hữu tư nhân với nhiều hình thức cụ thể khác nhau; trên cơ sở đó, hình
thành nên nhiều hình thức tổ chức kinh doanh đan xen hỗn hợp với nhiều loại hình
phân phối đa dạng.

Cơ sở hạ tầng bao gồm ba loại quan hệ sản xuất khác nhau đồng thời cùng tồn tại:
quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sẵn xuất tàn dư của xã hội trước và những quan
hệ sản xuất là mầm mống của xã hội sau:


Quan hệ sản xuất thống trị: là quan hệ sản xuất đang thống trị trong xã hội, là cơ sở
xác lập cơ cấu kinh tế của một nước. Về cơ bản, quan hệ nền móng bảo đảm lợi ích
giai cấp cho giai cấp thống trị trong xã hội.

Quan hệ sản xuất nền móng chi phối hoạt động của các quan hệ sản tàn dư và mâm
mông, là nhân tố hàng đầu bảo dâm sự tồn tại và phát triển về kinh tế - xã hội cho
quốc gia dân tộc.

Quan hệ sản xuất tàn dư: là những bộ phận, yêu tô của quan hệ sản xuất ở phương
thức sản xuất cũ trong xã hội mới. Nó có thể là những yếu tố đã lạc hậu nhưng
chưa bị xóa bỏ, hoặc là những giá trị được kế thừa. Như vậy, các quan hệ tàn dư
vừa có thể gây cản trở, vừa góp phần thúc đẩy đối với phương thức sản xuất mới.

Quan hệ sản xuất mầm mống: là quan hệ phủ định đối với quan hệ sản xuất hiện
tại, là kết quả tất yếu của quá trình vận động biện chứng của nền sản xuất xã hội
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội hiện tại. Trong xã hội có
giai cấp đối kháng, quan hệ sản xuất mâm mơng ln bị quan hệ thơng trị tìm cách
chỉ phối nhằm ngăn cản sự tồn tại và phát triển. Ngược lại, chế độ xã hội xã hội

chủ nghĩa (đặc biệt là ở giai đoạn quá độ) quan hệ sản xuất nền móng ln tạo điều
kiện cho những quan hệ mới ra đời và phát triển.

Trong một Cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế, nhiều quan hệ sản xuất thì
kiều quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành
phần kinh tế và các kiểu quan hệ sản xuất khác; nó quy định và tác động trực tiếp
đến xu hướng chung của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Trong xã hội có đơi
kháng giai cấp, tính giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu quan hệ sản xuất thống trị
quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp và sự xung đột giai
cấp bắt nguồn từ ngay trong Cơ sở hạ tầng.


1.2. Kiến trúc thượng tầng

Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, những thiết chế
tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ
tầng nhất định. Kiến trúc thượng tầng của mỗi xã hội là một kết cấu phức tạp, có
thể được phân tích từ những giác độ khác nhau, từ đó cho thấy mối quan hệ đan
xen và chí phối lẫn nhau của chúng. Từ giác độ chung nhất, có thể thấy kiên trúc
thượng tầng của một xã hội bao gồm: hệ thống các hình thái ý thức xã hội (hình
thái ý thức chính trị, pháp qun, tơn giáo...) và các thiết chế chính trị - xã hội
tương ứng của chúng (nhà nước, chính đảng, giáo hội,...).

Kiến trúc thượng tàng của xã hội có đơi kháng giai cấp bao gồm: hệ tư tưởng và
thể chế giai cấp thống trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội trước để lại; quan
điểm và tổ chức của các giai cấp trung gian. Tính chất hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị quyết định tính chất cơ bản của Kiến trúc thượng tầng trong một hình thái
xã hội nhất định. Trong đó bộ phận mạnh nhất của Kiến trúc thượng tầng là nhà
nước - công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ xã hội về mặt chính trị,
pháp lý. Nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực và thực thi quyền lực đặc biệt
của xã hội trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp. Về danh nghĩa, nhà nước
là hệ thống tổ chức dại biểu cho quyền lực chung của xã hội để quản lý, điều khiển
mọi hoạt động của xã hội và cơng dân, thực hiện chức năng chính trị và chức năng
xã hội cùng chức năng dõi nội và đối ngoại của quốc gia. Về thực chất, bất cứ nhà
nước nào cũng là công cụ quyền lực thực hiện chuyên chính giai cấp của giai cấp
thống trị, tức giai cấp năm giữ được những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, nó
chính là chủ thể thực sự của quyền lực nhà nước. Chính nhờ có nhà nước mà tư
tưởng của giai cấp thông trị mới thông trị được tòan bộ đời sống xã hội.

2. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một quy

luật cơ bản của sự vận động, phát triển lịch sử xã hội. Mỗi hình thái kinh tế-xã hội
có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó. Do đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với
nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng, còn kiến
trúc thượng tầng tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng.

2.1. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng

Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị
thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần. Quan
hệ sản xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng. Mâu
thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư
tưởng.

Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng: nhà
nước, pháp luật, đảng phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều khơng thể giải thích
từ chính nó, bởi vì, chúng đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng
và do cơ sở hạ tầng quyết định.

Những biến đổi cơ bản trong cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng
tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ
sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì
cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các
mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực
chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những
đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như
nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo,… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc
vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.

Khi cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Quá

trình thay đổi diễn ra khơng chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã
hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân
mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến
trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến trúc
thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị,
pháp luật.

2.2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở
chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển
cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đầu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
cũ. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị
chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế.

Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trị đặc biệt quan
trọng, có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ tư
tường mà còn dựa vào chức năng kiểm soát xã hội để tăng cường sức mạnh kinh tế
của giai cấp thống trị. Ăngghen viết: "bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng
là một lực lượng kinh tế”. Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng thường
thường phải thông qua nhà nước, pháp luật.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, chỉ có kiến trúc thượng tầng tiên bộ này sinh
trong quá trình của cơ sở kinh tế mới - mới phản ánh nhu cầu của sự phát triển kinh
tế, mới có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Nều kiến trúc thượng tầng là
sản phẩm của cơ sở kinh tế đã lỗi thời thì gây tác dụng kìm hãm sự phát triển kinh
tế- xã hội. Tất nhiên sự kìm hãm chỉ là tạm thời, sớm muộn nó sẽ bị cách mạng
khắc phục.


Hiệu quả tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào
năng động chủ quan trong nhận thức và vận dụng quy luật kinh tế- xã hội, vào hoạt
động thực tiễn của con người. Kiến trúc thượng tầng có vai trò to lớn, định hướng
những hoạt động thực tiễn đưa lại phương án phát triển tôi ưu cho kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, nếu nhấn mạnh, tuyệt đối hố, phủ nhận tính tất yếu kinh tế của xã hội,
sẽ phạm sai lâm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan dưới những hình thức khác nhau.

3. Ý nghĩa phương pháp luận
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ biện chứng với nhau, do đó, khi
xem xét và cải tạo xã hội phải thấy rõ vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng và tác
động trở lại của kiến trúc thượng tầng, khơng được tuyệt đối hố hoặc hạ thấp yếu
tố nào. Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng để thấy được không những cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng mà
kiến trúc thượng tầng còn tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Thấy được vai trò
đặc biệt quan trọng của nhà nước đôi với cơ sở hạ tầng.

Trung thành với lý luận Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào tình hình thực tiên
ở Việt Nam, Đảng chủ trương tập trung đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp
bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác coi đó là

nhiệm vụ quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trên lĩnh vực chính trị: Nhà
nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý về kinh tế - xã hội bằng pháp luật, kế hoạch,
chính trị, thơng tin, tun truyền giáo dục và công cụ khác.

Cơ sở hạ tầng của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bao gồm các
thành phần kinh tế cũng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó
là nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kiến trúc
thượng tầng gồm các tư tướng xã hội và các thể chế tương ứng, trong đó chủ nghĩa
Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trị chủ đạo với thể chế chính trị bao
gồm hệ thống Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Mục đích

chung của hệ thống chính trị là nhằm phục vụ con người, thực hiện lợi ích và
quyền lực của nhân dân lao động. Vận dụng lí luận về quan hệ biện chứng giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng vào thực tiễn đổi mới, chúng ta đổi mới cả về
kinh tế và chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là nền tảng.

II. Vận dụng
1. Quan niệm về đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị
Thời kỳ trước đổi mới, về nhận thức, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức vai trò kiến
trúc thượng tầng, coi chính trị là thống sối, quyết định kinh tế và tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong quan hệ với
chính trị. Về cơ chế, chúng ta cũng nhận thức một cách đơn giản về tác động của
kiến trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở kinh tế. Chính trị can thiệp q sâu
vào các q trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những mệnh lệnh chủ quan của các
cơ quan quản lý các cấp. Và thiết chế, bộ máy hành chính cịn quan liêu, cửa
quyền, cồng kềnh, kém hiệu quả.

Từ khi đổi mới đến nay, về quan điểm Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay từ đầu
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị”. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt
thực tiễn.

Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình
chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam theo định hướng XHCN. Đó là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là
“khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh
thái và từng bước đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố.


Thực chất của đổi mới kinh tế ở Việt Nam là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận
động theo những qui luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó cơ chế thị trường được vận
dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm
phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế.

Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là đổi mới tư
duy chính trị về CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống
chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao
hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ vững ổn đinh chính trị để xây
dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ XHCN nhằm
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN và phát triển kinh tế-xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.

Đổi mới chính trị ở Việt Nam khơng phải là thay đổi chế độ chính trị hiện nay
bằng chế độ chính trị khác, mà là q trình đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đó cũng là quá trình hồn thiện tổ
chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của cả hệ thống chính trị theo
hướng tạo lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và một Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Trong đổi mới chính trị, “trọng tâm là hồn thiện nội dung và đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng, gắn quyền hạn với trách nhiệm trong thực hiện chức năng lãnh
đạo của các cấp ủy Đảng; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong toàn xã hội nhằm
phát huy vai trò chủ động của các cơ quan nhà nước, khả năng sáng tạo to lớn của

nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước”.

Để giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân, Hội nghị
lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (3-1989) quyết định các nguyên tắc
cơ bản để chỉ đạo tồn bộ q trình đổi mới theo đúng định hướng XHCN: “Đổi
mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm phong phú
những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo vào
phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin”.

4. Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam

Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị lần 6 Ban Chấp
hành Trung ương khoá VI đã chỉ rõ: “Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh
tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức
chính trị. Khơng thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa
đủ căn cứ, mở rộng dân chủ khơng có giới hạn, khơng có mục tiêu cụ thể và khơng
đi đơi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự
nghiệp đổi mới”. Một bước đi cực kỳ đứng đắn và thể hiện được bản lĩnh chính trị
của Đảng ta biểu hiện bằng nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương khố VI (8-l989) về cơng tác tư tưởng trong bối cảnh quốc tế vơ cùng phức
tạp khi đó: "Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của Đảng... Chúng ta khơng chấp nhận chủ nghĩa đa ngun
chính trị, không để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động,
không coi việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ
trương đa nguyên về kinh tế”.

Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị được
tiếp tục nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII:
“Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của
nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật

chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành
thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng
bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy
ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội”. Kinh nghiệm thành công của sự kết hợp đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”.

Đó là những quan điểm đúng đắn của Đảng ta phù hợp với nhu cầu và nguyện
vọng của nhân dân lao động, những quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong
các kỳ Đại hội IX, X với mục tiêu: “đổi mới tồn diện, đồng bộ, có kế thừa, có
bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến
hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước đến
hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị”. Đại hội XI của Đảng
đã đưa ra quan điểm về đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị: “Đổi mới chính trị
phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của

Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong
Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương..”.

5. Thực tiễn đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam
a. Thành tựu

Trong những năm đổi mới, sự kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị đã đem lại bước chuyền biến tích cực đối với đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội của đất nước, với những thành tựu nổi bật là:


Một, thành công lớn nhất và quan trọng nhất có ý nghĩa sống cịn đối với dân tộc
Việt Nam là chúng ta tiến hành quá trình đổi mới không phải bắt đầu từ việc “đổi
mới” trong lĩnh vực chính trị như ở Liên Xơ và các nước XHCN khác ở Đông Âu,
cũng không đồng thời “đổi mới” ngay lập tức cả hai lĩnh vực chính trị lẫn kinh tế.
Chúng ta rất tỉnh táo và đủ bản lĩnh giữ vững ổn định chính trị, giữ vững sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản để làm trục đỡ chính trị cho việc điều chỉnh và đổi mới
kinh tế.

Hai, nhờ có định hướng chính trị rõ ràng, bằng các chính sách chuyển đổi cơ chế
và cơ cấu phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn, kinh tế của nước ta tăng
trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rỡ rệt. Người dân tin tưởng
vào đường lối đổi mới khi nhận thấy lợi ích của mình được đảm bảo. Nhờ có tư
duy mới và dựa vào lợi ích của nhân dân nên đường lối đổi mới đã gắn chặt với
thực tiễn đất nước, mang “hơi thở” cuộc sống. Bằng các chủ trương, chính sách
vừa có tính định hướng, vừa cụ thể thiết thực, đường lối đổi mới của Đảng đã đi
vào cuộc sống, tạo tiền đề để giải phóng sức sản xuất xã hội, phát huy tinh thần
sáng tạo, tính tích cực chính trị của nhân dân. Nhân dân chủ động tham gia vào đời
sống kinh tế, đời sống chính trị để xây dựng, phát triển kinh tế, bảo vệ chế độ đã,
đang đảm bảo lợi ích cho họ. Nhờ vậy, “Sau 20 năm hiện Cương lĩnh, chúng ta đã
giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành
cơng bước đầu cơng cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đồn kết toàn dân tộc được
củng cố, tăng cường”.

Ngoài ra, sau 25 năm đổi mới, chúng ta có được bước tiến mới trong tư duy phát
triển (thể hiện trong 5 quan điểm phát triển của chiến lược kinh tế xã hội 2011-
2020), nền kinh tế có được sự tăng trưởng khá nhanh so với các nước trong khu
vực. Chúng ta đã có sự đổi mới căn bản về hình thức sở hữu, về cơ cấu và vai trò
của các thành phần kinh tế, đã hình thành các loại thị trường, tích cực và chủ động
hội nhập quốc tế... Chúng ta đã có bước tiến trong xây dựng và hoàn thiện nền dân


chủ xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, trong
đổi mới hoạt động của Mặt trận và các đồn thể, cũng như trong cơng tác xây dựng
và đổi mới phương thức hoạt động và lãnh đạo của Đảng.

b. Hạn chế

Việc vận dụng và xử lý mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị của chúng ta cịn có nhiều đem cần phải cố gắng hồn thiện hơn nữa. Đổi
mới là cả một quá trình lâu dài và phức tạp do thực tiễn luôn vận động và thay đổi.
Đường lối đổi mới và định hướng đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị của Đảng
cần phải khẳng định là đúng đắn, tuy nhiên vấn đề lại là hiệu quả của việc thực thi
đường lối đó trên từng giai đoạn cụ thể, trong từng cách làm cụ thể, của từng mối
quan hệ cụ thể.

Đại hội XI của Đảng thắng thắn nhìn nhận về hạn chế trong đổi mới chính trị so
với đổi mới kinh tế: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm”; “Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất
nước”; “công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc
phục”. Những hạn chế của đổi mới chính trị trong mọi quan hệ với đổi mới kinh tế
này đã cản trở q trình đổi mới kinh tế, thậm chí kìm hãm kinh tế phát triển. Vấn
đề đổi mới chính trị chưa thực sự có hiệu quả một phần do chúng ta chưa làm rõ và
phân định dứt khoát chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà
nước.

Nghị quyết Trung ương 5, khóa X chỉ rõ: “Hệ thống thể chế, pháp luật, nhất là thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều bất cập, vướng

mắc. Chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan trong hệ thống hành chính nhà
nước chưa đủ rõ, còn trùng lặp và chưa bao quát hết các lĩnh vực quản lý nhà nước;
cơ cấu tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chưa phù hợp. Chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức chưa đáp ứng kịp yêu cầu; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí
cịn nghiêm trọng. Thể chế, luật pháp về quản lý tài chính cơng tuy có nhiều đổi
mới, nhưng cịn bất cập. Thủ tục hành chính cịn nhiều vướng mắc, gây phiền hà
cho tổ chức và công dân; kỷ luật, kỷ cương cán bộ, công chức chưa nghiêm, hiệu
lực, hiệu quả của quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém”.

Trong đổi mới chính trị chúng ta mới chỉ tập trung nhấn mạnh ý nghĩa của đổi mới
tư duy về chính trị chứ chưa thực sự tiến hành đổi mới ở con người chính trị-chủ
thể hoạt động chính trị và cơ chế hoạt động có hiệu quả của hệ thống chính trị.

Do vậy, để đất nước phát triển hơn nữa cần tiếp tục nhận thức và giải quyết tốt mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đây cũng là thực chất, yêu cầu,
nội dung của một trong tám mối quan hệ lớn trong thời kỳ quá độ lên CNXH nước
ta mà Đảng ta đã đề ra cần giải quyết đúng đắn.

6. Giải pháp thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam
hiện nay

6.1. Về đổi mới kinh tế

Một, củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Muốn vậy, về mặt tư duy kinh
tế cần xác định: chủ đạo khơng có nghĩa là độc quyền, khơng có nghĩa là ưu đãi
tuyệt đối cho kinh tế nhà nước, mà chủ đạo trên cơ sở có thực lực, tự phát triển để
có thực lực, để đủ sức cạnh tranh bình đẳng trên thương trường. Chủ đạo bằng thực
lực, sức mạnh của chính mình chứ khơng phải bao cấp, ưu đãi, ỉ lại độc quyền vị
thế để chèn ép các thành phần kinh tế khác. Kinh tế nhà nước phải đủ sức cạnh
tranh một cách văn hóa, lành mạnh trên thương trường với tất cả các thành phần

kinh tế khác, theo hành lang pháp lý.

Hai, tổ chức, sắp xếp lại kinh tế hợp tác, trong đó vấn đề nông nghiệp, nông dân và
nông thôn theo hướng kinh tế dịch vụ, hợp tác sản xuất lớn công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương
thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Cơ chế, chính sách của Nhà
nước tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy
vai trò của kinh tế hộ.

Ba, khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản
xuất, kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần.

Bốn, tiếp tục đổi mới tư duy về kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 5 khóa XII, về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Vì, kinh tế tư nhân đem lại lợi ích to lớn cho xã hội, trong khi chỉ cần
Nhà nước thừa nhận, tạo hành lang pháp lý cho nó hoạt động. Kinh tế tư nhân ở
đây khơng ai khác đó là người dân làm kinh tế - dân doanh. Đến lúc chúng ta cần
bỏ tư duy xem tư nhân là phi xã hội chủ nghĩa; khắc phục nhanh và mạnh mẽ mâu
thuẫn lơ-gíc trong tư duy, đó là, một mặt, đề cao vai trị làm chủ của dân; mặt khác,
lại dị ứng với thành phần kinh tế tư nhân. Khắc phục được lỗi lơ-gíc này mới có

thể thay đổi được thái độ đối với kinh tế tư nhân, từ đó tạo mọi điều kiện trong
hành lang luật pháp, chính sách để kinh tế tư nhân phát triển đa dạng, phong phú.
Gắn liền với đó là, thực hiện liên kết kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân để tăng
nguồn lực đầu tư tập trung trọng điểm, đồng thời khắc phục tình trạng manh mún,
dàn trải, chia cắt, lãng phí. Kinh tế tư nhân liên kết với kinh tế nhà nước sẽ tạo
thành thế và lực của nền kinh tế để giải quyết các vấn đề về việc làm, đời sống, an
sinh, phúc lợi xã hội,... mở ra điều kiện và tạo động lực để thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài.


6.2. Về đổi mới chính trị

Một, “Tiếp tục nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ lý luận về Đảng
cầm quyền”. Đây là vấn đề quan trọng nhất về chính trị hiện nay ở Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam - đảng duy nhất cầm quyền. Cầm quyền trong điều kiện
thể chế pháp quyền, hệ thống chính trị nhất nguyên đòi hỏi Đảng làm rõ hơn nữa
những vấn đề: Tư duy về Đảng cầm quyền; quan niệm về cầm quyền trong mối
quan hệ với lãnh đạo, quản lý quản trị xã hội; nội dung cầm quyền; phương thức
cầm quyền; thể chế cầm quyền; mơ hình cầm quyền; điều kiện để cầm quyền; dự
báo những nguy cơ có thể xảy ra đối với Đảng cầm quyền và chủ động tìm kiếm
những giải pháp đẩy lùi nguy cơ, tranh thủ và tận dụng thời cơ phát triển đất nước.

Hai, giám sát và kiểm soát quyền lực cần được bắt đầu từ trong Đảng và đi liền với
nó là dân chủ trong Đảng. Hồ Chí Minh coi thực hành dân chủ là chìa khóa vạn
năng để giải quyết mọi khó khăn. Dân chủ trong Đảng tốt, xã hội sẽ dân chủ.

Ba, kiểm sốt quyền lực. Tạo ra một thói quen, một nhu cầu biết lắng nghe ý kiến
của dân từ cơ sở, tiếng nói của người dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ, quan
chức, công chức bắt đầu từ cơ sở. Cùng với đó, tìm cách khắc phục bệnh hình thức
trong việc tiếp dân. Tỉnh nào cũng có văn phịng đại biểu Quốc hội, đồn đại biểu
Quốc hội, có cả bộ máy, kinh phí định kỳ tiếp dân. Nếu làm tốt tất cả những quy
trình trên, nền chính trị của chúng ta mới thực sự là chính trị hành động, chính trị
có hiệu quả và đổi mới chính trị khi ấy mới đem lại lợi ích cho nhân dân. Vì vậy,
chúng ta cần giải quyết tốt các vấn đề về thực hành dân chủ, nghiên cứu lý luận về
Đảng cầm quyền và kiểm soát quyền lực. Tháo gỡ được những vấn đề này sẽ thúc
đẩy kinh tế phát triển chứ không cản trở, thậm chí khơng làm tổn hại đến kinh tế và
như thế nhân dân được lợi từ đổi mới chính trị.

Bốn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đây là quan hệ
giữa 3 chủ thể với chức năng nhiệm vụ khác nhau, với thẩm quyền, trách nhiệm

khác nhau. Đảng có trọng trách lãnh đạo, dẫn dắt xã hội; Nhà nước có trọng trách

về thể chế hóa, biến quan điểm đường lối của Đảng thành luật pháp, chính sách để
thực hiện; nhân dân là chủ thể gốc của quyền lực. Nó là quan hệ giữa các chủ thể
chính trị pháp lý được thể chế hóa, được hiến định. Vì vậy, trước hết, chúng ta phải
nhận thức, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng - Nhà nước - Nhân dân.

C. KẾT LUẬN

Vấn đề chính trị và đổi mới chính trị khơng chỉ là đổi mới tư duy chính trị, xây
dựng tầm nhìn chính trị, bản lĩnh chính trị,... cịn là sự hành xử chính trị thực tiễn:
bao quát thời cuộc, chiêm nghiệm sự vận động toàn cầu của các quốc gia, kiến tạo
thể chế chính trị khách quan, khoa học, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt
Nam, xây dựng thực lực chính trị, chế định những quyết sách chính trị, nâng cao
văn hóa chính trị, con người chính trị, xác định và phát huy hệ động lực tổng hợp
đổi mới chính trị của đất nước. Tiếp cận theo hướng này, từ nhận thức, tư duy đến
hành động sẽ giải quyết tốt được mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, sẽ có một
nền chính trị đồn kết và thanh khiết theo tư tưởng Hồ Chí Minh - một chính trị mở
đường, thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững.

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác-Lênin.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành

Trung ương, khóa VI.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU................................................................................................1
B. NỘI DUNG.............................................................................................1

I. Cơ sở lý luận........................................................................................2
1. Khái niệm cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng...............................2
2. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.................3

3. Ý nghĩa phương pháp luận...............................................................5
II. Vận dụng.............................................................................................6

1. Quan niệm về đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị.............................6
2. Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam7
3. Thực tiễn đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam.............8
4. Giải pháp thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở
Việt Nam hiện nay............................................................................................10
C. KẾT LUẬN..........................................................................................10
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................10
E. MỤC LỤC............................................................................................10


×