Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA. LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN TRONG XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA MỚI TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.44 KB, 46 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG

BÀI TẬP LỚN
MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

LỚP: CC04 - NHÓM: 04
HỌC KỲ 221, NĂM HỌC 2022-2023
ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA.
LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN
TRONG XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA MỚI TIÊN TIẾN,
ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 10 NĂM 2022

1 | Trang

MỤC LỤC
MỤC LỤC.......................................................................................................................... 2
NỘI DUNG......................................................................................................................... 4
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa...............................................................................4

1.1. Một số nhận thức chung về văn hóa và quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực
khác................................................................................................................................. 4

1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa...........................................................4
1.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác. .6
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trị của văn hóa...........................................14
1.2.1. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng................................14
1.2.2. Văn hóa là một mặt trận..................................................................................16
1.2.3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân...........................................................18


1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới...............................21
1.3.1. Giai đoạn trước cách mạng Tháng Tám năm 1945.........................................21
1.3.2. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp........................................................22
1.3.3. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội........................................................26
2. Liên hệ đến việc phát huy vai trò của sinh viên trong xây dựng nền văn hóa mới
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay................................................28
2.1. Thực trạng về việc phát huy vai trò của sinh viên trong xây dựng nền văn hóa
mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay.......................................28
2.1.1. Ưu điểm về việc phát huy vai trò của sinh viên trong xây dựng nền văn hóa
mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay......................................28
2.1.2. Khuyết điểm về việc phát huy vai trò của sinh viên trong xây dựng nền văn hóa
mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay......................................31

1 | Trang

2.2. Giải pháp để phát huy vai trò của sinh viên trong xây dựng
nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam
hiện nay...................................................................................................................33

2.2.1. Giải pháp để phát huy vai trị của sinh viên trong xây dựng nền văn hóa mới
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay.............................................33
2.2.2. Giải pháp để khắc phục những khuyết điểm của sinh viên trong
xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt
Nam hiện nay.......................................................................................................38
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................43

2 | Trang

MỞ ĐẦU


Văn hóa, là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng của xã hội, là đời sống tinh thần
của nhân dân. Hồ Chí Minh xếp chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa là bốn vấn đề xã hội
chính, tất cả đều có mối liên hệ và đặt ngang hàng với nhau. Vì vậy, cả bốn vấn đề này
đều được lưu tâm khi xây dựng quốc gia. Văn hố khơng thể đứng ngồi mà phải đứng
trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế. Sự phát triển của đất nước chịu ảnh hưởng đáng kể của văn hóa. Đời sống tinh
thần của một nền văn minh được thể hiện bằng nền văn hóa của nó, và một xã hội chỉ có
thể phát triển và trở nên hùng mạnh khi nền văn hóa của nó trở nên vững mạnh.

Trong thời đại tồn cầu hố, quốc tế hố, bùng nổ thơng tin và giao lưu văn hoá một
cách mạnh mẽ với các nước. Trong thời kỳ hội nhập với bốn phương, bên cạnh với những
cơ hội mới được mở ra đối với Việt Nam, song cũng khơng ít thách thức. Bên cạnh những
cơ hội hợp tác đầu tư phát triển kinh tế, giao lưu chọn lọc tiếp thi những tinh hoa văn hóa
thế giới thì Việt nam cũng đang phải đối mặt với khơng ít những nguy cơ thách thức trong
việc hội nhập văn hóa. Nhiều vấn đề đang đặt ra một cách cấp bách: làm thế nào để vừa
hội nhập vừa khơng làm đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, làm thế nào để có thể ngăn
chặn tối đa sự du nhập của những luồng văn hóa phản giá trị, có nội dung khơng lành
mạnh vào đời sống nhân dân....

Tất cả đang đặt ra cho Đảng, Nhà nước cũng như toàn bộ nhân dân trước sự tìm kiếm
những biện pháp giải pháp có thể hạn chế được sự du nhập của văn hóa phản giá trị. Một
trong những biện pháp có ý nghĩa quan trọng và có thể coi là có hiệu quả nhất là chúng ta
tìm về với những giá trị của Tư Tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Đây được xem là giải
pháp tối ưu có hiệu quả và tác động lớn đến hầu khắp quần chúng nhân dân cả nước.

Vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố là một điều rất cần thiết
và cần được quan tâm, chú trọng. Đó là sự nghiệp của tồn Đảng, của hệ thống chính trị,
nhằm góp phần xây dựng thành cơng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh. Và để làm rõ hơn về việc vận dụng Tư tưởng Hồ Chí

minh trên lĩnh vực văn hóa nhóm em đã chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
vào xây dựng đời sống văn hóa mới ở nước ta hiện nay”.

3 | Trang

NỘI DUNG

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa

1.1. Một số nhận thức chung về văn hóa và quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực
khác

1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa

Văn hóa có ý nghĩa vơ cùng to lớn và giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Theo Hồ Chí
Minh, văn hố có bốn cách tiếp cận khác nhau.

Theo nghĩa rộng, văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người
sáng tạo ra với phương thức sử dụng chúng, nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời đó cũng
là mục đích của cuộc sống loài người.

Theo nghĩa hẹp, Người viết: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề
cần chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhưng
văn hóa là một kiến trúc thượng tầng”1 hay là “Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng;
những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều
kiện phát triển được; có thực mới vực được đạo; xã hội thế nào thì văn hóa thế ấy. Nhưng
mặt khác, đến lượt mình, văn hóa là động lực của sự phát triển xã hội, phát triển kinh tế;
văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”2. Ở đây, Hồ Chí Minh đặt văn hóa ngang hàng
với chính trị. kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã bội và các vấn
đề này có quan hệ với nhau rất mật thiết. Sự phát triển hài hồ, đồng bộ của các lĩnh vực

văn hố, kinh tế, chính trị, xã hội sẽ tạo thế vững chắc, duy trì trật tự, sự ổn định và phát
triển bền vững của quốc gia, dân tộc. Cho nên trong công cuộc xây dựng đất nước, cả bốn
vấn đề này phải được coi trọng như nhau.

Trong quan hệ với chính trị xã hội, Người cho rằng, chính trị, xã hội có được giải
phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng sẽ mở đường cho văn hóa
phát triển. Trong quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh chỉ rõ kinh tế là thuộc về cơ sở hạ
tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa. Phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ
sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa. Bên cạnh đó, nhìn từ góc độ
triết học, nếu kinh tế, xã hội thuộc bình diện cơ sở hạ tầng (tồn tại xã hội) thì văn hố,

1 Hồ Chí Minh (1984), Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb. Văn Học, Hà Nội, tr. 34.
2 Hồ Chí Minh (1997), Về văn hóa, Nxb. Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr. 320.

4 | Trang

chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng (ý thức xã hội), vậy nên các lĩnh vực đều có mối
quan hệ, tác động, chi phối lẫn nhau. Do đó, văn hóa khơng thể đứng ngồi mà phải ở
trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế.

Theo nghĩa rất hẹp, văn hóa đơn giản là trình độ học vấn của con người, thể hiện ở
việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người phải đi học “văn hóa”, xóa nạn mù chữ… (thường
xuất hiện trong các bài nói với đồng bào miền núi).

Theo phương thức công cụ sinh hoạt, khi còn ở trong nhà tù Tưởng Giới Thạch
(8/1943), Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm nhấn mạnh ý nghĩa của văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo

và phát minh đó tức là văn hố. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng
với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và địi hỏi của sự sinh tồn”3. Có thể nói đây là một cách tiếp cận văn hoá từ ý nghĩa
khái quát, đặc trưng nhất của nó, một định nghĩa cơ đọng và chính xác về văn hoá. Ý
nghĩa và lý lẽ của cuộc sống được liên kết chặt chẽ với văn hóa. Văn hóa khơng chỉ là
những sáng tạo, những phát minh đỉnh cao thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần, mà nó
cịn là tinh hoa được cơ đọng, kết hợp để tạo thành bản sắc của một quốc gia, một dân tộc.
Nhận thức như vậy không cho phép nghĩ văn hóa như một trị giải trí hoặc một thứ gia vị,
cũng khơng cho phép coi văn hóa như một hoạt động lơ lửng trên không hoặc như sản
phẩm phụ hay một cái đi của các hoạt động chính trị và kinh tế.

Một dân tộc có thể bị suy kiệt về vật chất, bị áp bức, bóc lột, nhưng nó vẫn có sự
sống và sẽ vươn lên khi thời thế hoàn hảo. Truyền thống văn hóa tốt đẹp và lý tưởng, giá
trị văn hóa là cội nguồn của nguồn năng lượng này. Quá trình phát triển và giữ nước của
dân tộc ta qua hàng nghìn năm đã chứng tỏ điều đó. Đất nước ta đã giành thắng lợi trong
các cuộc kháng chiến bảo vệ sự sống còn của dân tộc, trong các cuộc xung đột với giặc
ngoại xâm trước các đối thủ vượt trội hơn về kinh tế và quân sự.

3 Hồ Chí Minh (2002), Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 431

5 | Trang

Năm 1970, tại Hội nghị Văn hóa họp ở Venice (Italy), UNESCO đưa ra định nghĩa
về văn hóa: “Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc
khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán,
lối sống và lao động”4. Khái niệm này nhấn mạnh đến nỗ lực trong hoạt động sáng tạo của
các cộng đồng người gắn liền với quá trình phát triển lịch sử lâu dài của mỗi cộng đồng,
đồng thời tạo ra các giá trị nhân văn phổ quát, sở hữu nét riêng biệt của từng dân tộc, từng
cộng đồng.


Nếu đối chiếu định nghĩa về văn hoá của UNESCO với định nghĩa của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, chúng ta có thể thấy rằng hai khái niệm này có chung một nội dung cơ bản. Cả
hai định nghĩa đều thống nhất rằng văn hóa là tập hợp những phẩm chất vật chất và tinh
thần mà con người sản xuất ra và có được thơng qua hành động thực tiễn. Cả hai định
nghĩa đều thừa nhận tầm quan trọng của văn hóa đối với sự tiến bộ của lịch sử nhân loại
nói chung và phát triển kinh tế xã hội nói riêng.

Tuy nhiên, trong khi quan niệm của UNESCO chú trọng nhiều hơn đến các giá trị
văn hóa cụ thể, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nói thêm về các giá trị như “nhu cầu đời
sống” của con người đang phát triển cũng như “địi hỏi sự sinh tồn” của xã hội lồi người
phát triển ln ln nâng cao và hồn thiện. Điều đó cũng có nghĩa là khi chúng ta đề cập
đến văn hóa, chúng ta đang đề cập đến giá trị, nhưng là những giá trị kết tinh thành quả
lao động sáng tạo của con người về nỗ lực cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính
bản thân mình. Những giá trị này là những giá trị hướng tới chân, thiện, mỹ, hay cụ thể
hơn là hướng tới sự tốt đẹp, nhân văn và khơng ngừng hồn thiện của nhân loại.

1.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác

Một là, quan hệ văn hóa với chính trị

Theo lý luận về ý nghĩa tương đối của Hồ Chí Minh về văn hố, văn hóa là lĩnh vực
của hoạt động tinh thần, các chủ thể của hoạt động văn hóa (như nhà văn hóa, văn nghệ
sĩ…) ln phải gắn bó chặt chẽ với chính trị.

Là một nước thuộc địa, theo Hồ Chí Minh, Việt Nam trước hết phải được giải phóng,
giành độc lập, xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân. Giải phóng khỏi áp bức
chính trị là cần thiết cho sự phát triển của văn hóa. Chính trị khơng thể tồn tại độc lập với

4 UNESCO (1989), Tạp chí “Người đưa tin UNESCO”, số 11-1989


6 | Trang

văn hóa; đúng hơn, văn hóa phải phục vụ các mục tiêu chính trị. Tất cả các hành động tổ
chức và nhà chính trị cũng phải có hàm lượng văn hóa. Theo Hồ Chí Minh, “Có chính trị
mới có văn hóa, xưa kia chính trị bị đàn áp, nền văn hóa của ta vì thế khơng nảy sinh
được”5. Theo Người, khi dân tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự do, văn nghệ muốn
tự do thì phải tham gia cách mạng. Văn hóa, văn nghệ cũng có vai trị quan trọng khơng
kém trên các mặt trận khác.

Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa, Bác căn dặn, “Văn hóa, văn
nghệ cũng là một mặt trận - anh chị em là chiến sỹ trên mặt trận ấy”6. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định vị trí, chức năng then chốt của văn hóa, nghệ thuật trong sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc. Đồng thời tin tưởng và mong muốn đào tạo, bồi dưỡng, xây
dựng đội ngũ chiến sĩ luôn sáng tạo, đổi mới trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; xứng
đáng là chiến sĩ cách mạng trên mặt trận văn hóa văn nghệ, một trong những lực lượng
tiên tiến trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

Bác đề xuất khẩu hiệu “văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa”, để góp
phần tạo ra một nền văn hóa mới từ cuộc kháng chiến, các văn nghệ sĩ phải chuyển tải
nhận thức văn hóa đến các mặt trận của cuộc kháng chiến. Văn hóa nghệ thuật phải đồng
thời với kháng chiến, văn hóa hịa mình vào dịng sơng chảy xiết của cuộc kháng chiến,
tích cực kháng chiến, “soi đường cho quốc dân đi”, phải thấm thuần cái tinh thần và hào
khí chiến đấu, hi sinh cùng cuộc kháng chiến gian lao và anh dũng của dân tộc.

Hồ Chí Minh đặt ra một đường lối mới cho quần chúng, hướng dẫn họ đi theo con
đường cách mạng vơ sản. Ơng khơng đi theo hướng nâng cao trình độ văn hố rồi mới tính
đến độc lập tự do, mà tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính quyền, giải
phóng chính trị, giải phóng xã hội, giải phóng văn hóa, tạo cơ hội cho văn hố có cơ hội
phát triển.


Chính trị và văn hóa ln song hành. Trong thời bình, chính sách kinh tế phải đi liền
với chính sách văn hóa - xã hội, phát triển kinh tế phải gắn bó với tiến bộ và cơng bằng xã
hội. Tại kỳ họp Hội đồng Chính phủ cuối năm 1966, Bác phát biểu rằng “không sợ thiếu,
chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo, chỉ sợ lịng dân khơng n”. “Khơng sợ thiếu”,
“không sợ nghèo” không phải là cam tâm chịu nghèo, chịu thiếu. Mục tiêu của cuộc cách

5 Hồ Chí Minh (1997), Về văn hóa, Nxb. Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.10.
6 Hồ Chí Minh (1989), Hồ Chí Minh: Tồn Tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.639.

7 | Trang

mạng là nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Nhưng đứng trước cái thiếu, cái
nghèo còn đang hiện hữu thì phải làm sao cho thiếu mà được cơng bằng, nghèo mà lịng
dân vẫn n. Thái độ có trách nhiệm của các nhà lãnh đạo và quản lý được thể hiện qua sự
quan tâm của họ trước sự bất cơng và sự bất an của quần chúng. Phải có điều kiện và khả
năng phát triển cho mọi tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tầng lớp nhân dân trong hồn
cảnh khó khăn thử thách; chiến tranh, thiên tai, vùng đồng bằng, vùng lạc hậu, … được
hưởng những tiến bộ về kinh tế - xã hội.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Xây dựng
văn hóa trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng,
trong các cơ quan nhà nước và các đồn thể chính trị; coi đây là nhân tố quan trọng để
xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”7.

Người luôn đặc biệt coi trọng việc rèn luyện, nâng cao “tính văn hóa” của cán bộ,
đảng viên. Cán bộ là nền tảng của công việc, nhưng cũng phải kết hợp giữa đức và tài, hay
dùng ngôn ngữ dân gian hơn là cả cái tâm và cái tài. Trái ngược với việc học để làm quan,
vinh thân, phì gia, Người khuyên cán bộ đi học Trường Đảng để học cách làm người, học
để phụng sự giai cấp, đoàn thể và dân tộc. Người yêu cầu cán bộ phải học, phải rèn luyện,
nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân và những biểu hiện sai trái, phi

văn hóa trong quan hệ với mình, với người, với dân, với công việc.

Hai là, quan hệ văn hóa với kinh tế

Hồ Chí Minh giải thích văn hóa là một kiến trúc thượng tầng, kinh tế là thuộc về cơ
sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa. Văn hóa khơng thể đứng ngồi mà phải
đứng trong kinh tế, văn hóa khơng hồn tồn phụ thuộc vào kinh tế, mà có vai trị tác động
tích cực trở lại kinh tế. Văn hóa phải có tính tích cực chủ động, đóng vai trị to lớn thúc
đẩy kinh tế và chính trị phát triển như một động lực. Đồng thời, kinh tế phát triển thì kéo
theo văn hố phát triển.

Văn hóa hay văn hóa trong kinh tế khơng ở bên ngồi, mà là yếu tố bên trong, là
nguồn nội lực của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nghiên cứu văn hóa trong kinh tế là
nghiên cứu vai trị của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội, là nghiên cứu sự tác động
qua lại giữa văn hóa và kinh tế. Văn hóa phát huy vai trị của mình khi thâm nhập, tác

7 Đàng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.128.

8 | Trang

động vào kinh tế, đồng thời kinh tế cũng quy định và chế ước văn hóa, là điều kiện và
nguồn lực cho văn hóa hoạt động; với ý nghĩa là sức mạnh nội sinh của phát triển, văn hóa
phải dựa trên kinh tế.

Trong Thư gửi đồng bào đã thanh toán nạn mù chữ (21/12/1956), Người vạch rõ,
“Trình độ văn hố của nhân dân sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh
tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân cũng là một việc cần thiết
để xây dựng nước ta thành một nước hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh”8. Bức thư thảo luận về các sáng kiến nhằm giảm nạn mù chữ đồng thời ca ngợi

chiến thắng vẻ vang đầu tiên trên mặt trận văn hóa. Sự đồng lịng, nỗ lực to lớn của đồng
bào cả nước và toàn thể cán bộ có trách nhiệm đã làm nên thành cơng đó. Kết quả đó làm
vẻ vang đồng bào các địa phương trên và vẻ vang chung cho cả nước; sẽ giúp đất nước
đẩy mạnh công cuộc khôi phụ kinh tế, phát triển dân chủ, ...

Sự phát triển của kinh tế - xã hội sẽ mang lại cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ,
đảm bảo những điều kiện, nhu cầu thiết yếu về ăn, ở, mặc, đi lại, trên cơ sở đó con người
tham gia tích cực, chủ động vào các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Nói như C. Mác:
“Con người trước hết phải ăn, uống, ở và mặc đã, rồi mới có thể làm chính trị, khoa học,
nghệ thuật, tơn giáo”9. Nếu nền kinh tế đảm bảo sẽ chăm lo cho nhu cầu vật chất của con
người; xã hội duy trì và xây dựng mối liên hệ bền chặt; chính trị ni dưỡng lịng tin và
vạch ra con đường tương lai; thì văn hóa thực hiện sứ mệnh chăm lo đời sống tinh thần,
tạo động lực, niềm tin, sức mạnh, giúp con người vượt qua những khó khăn, thách thức.
Văn hóa, với hệ thống giá trị, truyền thống, chuẩn mực và bản sắc được truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, sẽ giúp điều chỉnh hành vi suy nghĩ, hướng con người đến những
điều tốt đẹp của chân, thiện, mỹ.

Trong Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta đã khẳng định: “Xây dựng và phát
triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội cơng bằng, văn minh, con người phát
triển tồn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của phát triển kinh
tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi

8 Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 8, Nxb. Chính trị Quốc gia, tr. 281-282.
9 , tr.116.

9 | Trang

phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương…”10. Văn hóa vừa là động lực
thúc đẩy phát triển vừa là mục tiêu, kết quả của nền kinh tế. Nhờ có văn hố, con người

hiện nay trở thành vai trị nhân tố chủ đạo trong q trình sản xuất và tạo ra các giá trị
nhân loại. Đặc biệt, nguồn nhân lực chất lượng cao – bộ phận cốt lõi của lực lượng sản
xuất - có thể được tạo ra nhờ những giá trị to lớn của nền văn hóa tinh thần (khoa học,
cơng nghệ, tri thức quản lý, …). Một lợi ích khác của văn hóa là nó giải phóng con người
khỏi sự ngu dốt và tăm tối, thúc đẩy mạnh mẽ sự đổi mới và sự tiến bộ của xã hội, đặc biệt
là trong các lĩnh vực kinh tế và khoa học - công nghệ.

Ba là, quan hệ văn hoá với xã hội

Văn hóa là tất cả những gì một cộng đồng, dân tộc sáng tạo ra trong suốt chiều dài
lịch sử, nhưng không đồng nhất với lịch sử. Văn hóa là tổng hồ của tất cả các giá trị đã
kết tinh lại, đóng vai trò là bản sắc, là nền tảng tinh thần của một cộng đồng và tạo nên sự
khác biệt giữa quốc gia này với quốc gia khác. Đó là những giá trị trường tồn!

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, xã hội thế nào thì văn hóa thế ấy. Nhưng mặt
khác, văn hóa là động lực của sự phát triển xã hội, phát triển kinh tế và “Số phận dân ta là
ở trong tay dân ta. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”11.Do văn hóa là động lực nội
sinh và là nền tảng tinh thần của xã hội, nó đóng vai trị là chất xúc tác cũng như mục tiêu
cho sự tăng trưởng kinh tế xã hội. Kết quả là, văn hoá soi đường cho sự phát triển, tiến bộ
của xã hội, của mỗi quốc gia, dân tộc trong hành trình xây dựng và phát triển. Sự toả sáng
của nó đã được nâng cao để tiếp tục đóng vai trị là cơ sở tinh thần vững chắc cho sự đổi
mới và tiến bộ. Khái niệm này đã xuất hiện như một kim chỉ nam xun suốt q trình
phát triển của văn hố Việt Nam.

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực phát triển đất nước.
Văn hóa có vai trị quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người và bản sắc, cốt
cách dân tộc. Văn hóa được xác định là một trong những yếu tố có vai trò quyết định sức
mạnh và vị thế của mỗi quốc gia, dân tộc. Tại Nghị quyết Đại hội XII tháng 11/2021,
Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đã chia sẻ quan điểm “văn hố là bản sắc dân tộc, văn
hố cịn thì dân tộc cịn, văn hố mất thì dân tộc mất”. Ơng nói văn hóa hiểu theo nghĩa


10 Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.55.
11 Hồ Chí Minh (1997), Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Nxb. Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr. 11

10 | T r a n g

rộng hay nghĩa hẹp đều nói đến những gì tinh hoa, tinh túy nhất, được kết tinh, hun đúc
thành những giá trị tốt đẹp, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân nghĩa, tiến bộ. Do đó,
văn hố đóng vai trò quan trọng, then chốt trong sự tồn tại của một quốc gia, dân tộc.

Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi
phương diện. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI Về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước nhấn mạnh “Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống
nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho
văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào tồn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”12. Có nghĩa là, văn hóa vừa
là chính nó với những sản phẩm phong phú, đa dạng, muôn vẻ, vừa là nhân tố nằm trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống con người, xác định trình độ phát triển và chất lượng, giá
trị của con người và của toàn bộ đời sống xã hội. Như vậy, phải đưa yêu cầu, chuẩn mực
văn hóa thành một nhân tố bên trong, giữ vai trò đặc biệt quan trọng của sự phát triển.

Ngày 23/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến khai mạc Hội nghị Văn hóa tồn quốc,
Người thiết tha mong muốn “Nền văn hóa mới của Việt Nam phải lấy hạnh phúc của nhân
dân, của dân tộc làm cơ sở, phải học lấy những điều tốt đẹp của văn hóa nước ngồi, tạo
ra nền văn hóa Việt Nam, sao cho văn hóa mới phải sửa đổi cho được tham nhũng, lười
biếng, phù hoa, xa xỉ, phải làm sao cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập”13. Văn hoá
phải lấy hạnh phúc của nhân dân làm gốc. Văn hóa phải ăn sâu vào tâm thức dân tộc thì
mới giải quyết được tệ nạn tham nhũng, lười biếng, phô trương, xa hoa. Tư duy của chúng

ta cũng lấy độc lập và tự do làm nền tảng. Mọi người phải nắm lấy lý tưởng tự do, độc lập
làm gốc rễ. Dân tộc phải đồng thời nêu cao tinh thần xả thân vì nước, vì lợi chung, nhưng
khơng vì lợi riêng.

Bốn là, về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại.

Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ, trong đó, nền tảng là lý tưởng độc lập dân tộc và Chủ
nghĩa Xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với mục tiêu tất cả vì

12 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, tr. 75 – 76.
13 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (2016), Hồ Chí Minh - Biên
niên tiểu sử, tập 3 Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 321.

11 | T r a n g

con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong
mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.

Những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững, là bản chất của dân tộc Việt Nam,
được vun đắp qua hàng nghìn năm xung kích lập nước và bảo vệ Tổ quốc chính bản sắc
của dân tộc, của đất nước Việt Nam. Đó là, lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân
tộc, tinh thần đồn kết, nghĩa tình đồn kết cá nhân - gia đình - Tổ quốc; lịng nhân ái, sự
khoan dung, và tơn trọng nghĩa tình và tình yêu thương; cần cù, sáng tạo trong lao động,
tinh tế trong ứng xử, giản dị trong cuộc sống; bản lĩnh, kiên cường, bất khuất trước giặc
ngoại xâm, ...

Bản sắc văn hóa dân tộc bao gồm các giá trị văn hóa lâu bền của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam, tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc và là kết quả của quá trình lao động, sản

xuất, chiến đấu và giao lưu của con người Việt Nam. Ngay từ khi còn hoạt động ở Pháp,
Hồ Chí Minh ln tố cáo chính sách ngu dân của chủ nghĩa thực dân đối với các dân tộc
thuộc địa, vạch trần tâm địa xấu xa, bỉ ổi của cái gọi là “khai hóa văn minh”. Người tin
rằng văn hóa là tinh hoa của dân tộc, góp phần khẳng định vị thế của một dân tộc. Theo
Người, càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chúng ta càng phải trân trọng những giá
trị lịch sử, văn hóa của ơng cha đi trước. Người địi hỏi phải biết giữ gìn vốn văn hố q
báu của dân tộc, khơi phục những yếu tố tích cực trong kho tàng văn hoá dân tộc, loại bỏ
những yếu tố tiêu cực trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân.

Bản sắc dân tộc ta thể hiện qua hai lớp quan hệ: Về nội dung, đó là tinh thần nồng
nàn yêu nước, tinh thần tự lập, tự cường, ... Về hình thức, đó là ngơn ngữ, lễ hội, tập quán
của dân tộc ta. Theo Hồ Chí Minh: “Dân ta phải biết sử ta - Cho tường gốc tích nước nhà
Việt Nam”14. Lời dạy của Bác khuyên chúng ta tìm hiểu về lịch sử dân tộc. “Biết sử ta”
không phải chỉ đơn thuần là ghi nhớ một số sự kiện, một vài chiến cơng nói lên tiến trình
đi lên của dân tộc hay ghi nhớ cơng lao của một số người làm nên sự nghiệp to lớn đó, mà
cịn phải biết tìm hiểu “cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”, tiếp nhận những nét đẹp
của đạo đức, của đạo lý làm người Việt Nam. Bên cạnh việc phát huy được truyền thống
quý báu và niềm tự hào dân tộc chính đáng của dân ta, việc biết và hiểu văn hóa nước nhà
cịn giúp chúng ta né tránh được những sai lầm đã xảy ra ở giai đoạn trước, khơng giẫm

14 Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh: Toàn Tập, tập 8, Nxb. Sự Thật, tr. 259.

12 | T r a n g

vào vết xe đổ của q khứ, góp cơng vào bảo vệ Tổ quốc trên mặt trận văn hoá trước các
thế lực thù địch, vững vàng trong công cuộc đấu tranh bảo vệ văn hoá dân tộc.

Hồ Chí Minh đã nỗ lực rất nhiều trong việc tiếp thu những tinh hoa của nền văn
minh nhân loại. Ông khẳng định rằng mục tiêu của việc tiếp thu văn hóa nước ngồi là
nâng cao và phát triển văn hóa Việt Nam theo tinh thần dân chủ. Tư tưởng của Chủ tịch

Hồ Chí Minh về bảo tồn văn hóa dân tộc khơng làm giảm tác dụng của các nền văn hóa
dân tộc riêng lẻ hoặc sự tương tác của chúng với nhau; ngược lại, họ khẳng định sự giao
hịa của nhiều nền văn hóa các dân tộc anh em. Yếu tố khác biệt khuyến khích sự phát
triển văn hóa của mỗi quốc gia, làm cho nền văn hóa đó trở nên tồn diện và phong phú
hơn. Người cho rằng: “Văn hoá Việt Nam ảnh hưởng lẫn nhau của văn hố Đơng phương
và Tây phương chung đúc lại…lấy kinh nghiệm tốt của văn hoá xưa và văn hoá nay trau
dồi cho văn hố Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân
chủ”15. Đề cao truyền thống, bản sắc dân tộc nhưng khơng tự bó mình vào chủ nghĩa dân
tộc hẹp hịi, thiển cận. Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa chủ nghĩa chủ
nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế trong lĩnh vực văn hóa. Bất kể thực dân của một dân
tộc có phải là kẻ thù xâm lược đất nước của chúng ta hay không, mọi người đều tơn trọng
nền văn hóa phát triển cao của các dân tộc khác.

Văn hóa chính là phương thức sinh hoạt của dân tộc, của cộng đồng, gia đình, cá
nhân... phù hợp với các đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội, truyền thống của dân tộc,
phục vụ mục tiêu phát triển đất nước. Văn hóa khơng tách rời kinh tế, chính trị, một mặt
nó chịu sự chi phối của kinh tế và chính trị, nhưng mặt khác, văn hóa có tác động trở lại to
lớn đến kinh tế và chính trị. Người nhấn mạnh: “Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến, kiến
quốc của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần rất quan trọng. Văn hóa cũng như chính trị,
kinh tế và tín ngưỡng, đạo đức đều được phát triển tự do”16. Có thể nhận thấy rằng, sức
mạnh của truyền thống lịch sử – văn hóa dân tộc đã trở thành “cái nôi nuôi dưỡng”
và thắp lên ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng, tinh thần yêu nước và dũng cảm kiên
cường của con người Việt Nam trong lửa đạn chiến tranh và khát vọng xây dựng đất
nước giàu mạnh trong thời bình.

15 Hồ Chí Minh (1971), Hồ Chí Minh: Về cơng tác văn hoá văn nghệ, Nxb. Sự thật, tr.71.
16 Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh: Tồn Tập, tập 5, Nxb. Sự Thật, tr. 577

13 | T r a n g


1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trị của văn hóa

1.2.1. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng

Tại Hội nghị Văn hóa tồn quốc lần thứ nhất, ngày 24-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh: “Lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi” như một cách khẳng định
tầm quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, cũng như
thúc đẩy bản sắc dân tộc và giá trị con người Việt Nam. Có nghĩa là, dân tộc Việt Nam
muốn xây dựng và phát triển đất nước, nhất định phải phát triển văn hóa.

Văn hoá là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng

Mục tiêu của cách mạnh Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với chính trị, kinh tế, xã hội, văn hố
nằm trong mục tiêu chung của tồn bộ tiến trình cách mạng. Theo quan điểm Hồ Chí
Minh, văn hố là mục tiêu - nhìn một cách tổng quát là quyền sống, quyền sung sướng,
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, là khát vọng của nhân dân về các giá trị chân,
thiện, mỹ. Đó là một xã hội dân chủ, dân là chủ và dân làm chủ - công bằng, văn minh, ai
cũng cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, một xã hội mà đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân luôn luôn được quan tâm và không ngừng nâng cao, con người có điều kiện
phát triển.

Mỗi quốc gia phải phát triển văn hóa và con người của mình để đạt được sự ổn định
chính trị - xã hội và tăng trưởng kinh tế ổn định. Muốn vậy văn hóa phải gắn chặt với
chính trị, kinh tế và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán quan điểm phát triển
đồng bộ, hài hòa, đồng bộ các yếu tố trên nhiều lĩnh vực, nhất là kinh tế, chính trị, xã hội,
văn hóa, đem tồn bộ sức mạnh của dân tộc để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.

Các nhà quản lý, lãnh đạo cần hiểu rõ mối liên hệ biện chứng giữa nhiều lĩnh vực
cũng như vị trí, chức năng của mỗi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Phát triển phải tránh

đánh giá thấp, thậm chí coi nhẹ, bỏ sót bất kỳ một lĩnh vực nào mà vẫn đảm bảo tính đồng
bộ, hài hịa, cân đối. Việc bỏ qua một trong các lĩnh vực có thể gây ra khủng hoảng lớn,
phá vỡ quy trình và mất cân bằng, đe doạ cho sự an toàn, an ninh và sự phát triển toàn
diện của con người.

14 | T r a n g

Văn hoá là động lực cách mạng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định “Phát triển tồn
diện các lĩnh vực văn hóa, mơi trường văn hóa, đời sống văn hóa để văn hóa thực sự là
nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội
và hội nhập quốc tế”17, nhằm tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước. Phát triển
tồn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc,
vừa tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn
hoá để văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh tế
- xã hội và hội nhập quốc tế.

Động lực là cái thúc đẩy làm cho phát triển. Di sản Hồ Chí Minh cho chúng ta một
nhìn nhận về động lực phát triển đất nước bao gồm động lực vật chất và tinh thần, động
lực cộng đồng và cá nhân, nội lực và ngoại lực. Tất cả quy tụ ở con người và đều có thể
được xem xét dưới góc độ văn hố. Thảo luận về văn hóa là thảo luận về con người, vì con
người là chủ thể sáng tạo ra văn hóa, lại vừa là đối tượng hưởng thụ văn hóa. Đồng thời,
con người lại vừa là động lực của cách mạng. Vì thế, nói đến văn hóa, ta có thể hiểu rằng,
văn hóa là động lực của cách mạng. Cụ thể, văn hóa có thể khơi dậy sự sáng tạo, truyền
cảm hứng giúp con người phát huy tiềm năng. Từ đó, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng,
xây dựng nền cách mạng vững chắc, tiên phong và phát triển.

Trong suốt những năm đánh giặc cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, đánh
giặc khơng chỉ trên mặt trận chính trị mà cịn trên mặt trận văn hóa xã hội. Qua đó, chúng

ta có thể thấy được vai trị của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng được chỉ ra ở trên với
tư cách là vai trị động lực. Văn hóa góp phần khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu
nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống
hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện
thành công mục tiêu phát triển đất nước.

Hơn thế nữa, Thế giới đang bước vào kỷ nguyên của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư. Đây là cơ hội lịch sử để Việt Nam vươn lên, thực hiện khát vọng đứng vào
hàng ngũ các quốc gia phát triển. Để thực hiện được khát vọng đó, Việt Nam cần xây

17 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, tr.47

15 | T r a n g

dựng mơ hình phát triển phù hợp, mà trong đó, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo là
động lực chính, cịn văn hóa và con người chính là nguồn lực nội sinh để phát triển. Trong
bối cảnh đó, việc xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà, đặc biệt là con người Việt
Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, phục
vụ phát triển bền vững đất nước là điều quan trọng.

Văn hóa là một nguồn lực to lớn, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại,
phát triển của mỗi con người, tổ chức, rộng hơn là của quốc gia - dân tộc. Vì vậy, Đảng và
Nhà nước rất coi trọng vai trị của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước.

Cho nên, nội dung cốt lõi trong tư tưởng của Người, văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Quan
điểm chỉ rõ vai trò to lớn của văn hóa trong tiến trình lịch sử dân tộc và tương lai đất nước.

Văn hóa khơng phải là kết quả thụ động, yếu tố đứng bên ngoài, bên cạnh hoặc đi sau kinh
tế, phụ thuộc hồn tồn vào trình độ phát triển kinh tế mà văn hóa vừa là mục tiêu, vừa
động lực thúc đẩy kinh tế.

1.2.2. Văn hóa là một mặt trận

Nói đến mặt trận văn hóa là nói đến một lĩnh vực hoạt động có tính độc lập, có mối
quan hệ mật thiết với các lĩnh vực khác như kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy khơng có tiếng
súng, khơng có kẻ thù trực tiếp nhưng tính chất của nó vơ cùng phức tạp và quyết liệt. Mặt
trận văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng và tình cảm của
thời đại. Các nội dung của mặt trận này rất phong phú, bao gồm tư tưởng, đạo đức, lối
sống được thể hiện qua các hoạt động văn nghệ, báo chí, cơng tác lý luận mang chức năng
định hướng cho các cán bộ, đảng viên nhằm hiểu rõ và quán triệt các giá trị chân, thiện,
mỹ của văn hóa nghệ thuật.

Văn nghệ là mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong
đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới. Những người chiến sĩ
nghệ thuật này có nhiệm vụ cao cả là dùng ngịi bút của mình để phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ ngịi bút của các văn nghệ sĩ cũng là những vũ khí sắc
bén trong sự nghiệp “phị chính, trừ tà”. Lấy mình làm gương, trên mặt trận văn hoá văn
nghệ, cùng với một số sáng tác văn nghệ như “bản án chế độ thực dân Pháp”, “con rồng

16 | T r a n g

tre”, Người đã lật mặt được bộ mặt tàn ác cũng như âm mưu của cướp nước, đồng thời
cũng cổ vũ được tinh thần của nhân dân, biến những sáng tạo nghệ thuật của mình thành
vũ khí sắc bén chống lại những kẻ đầu sỏ của chủ nghĩa thực dân Pháp, bè lũ vua quan
phong kiến bạc nhược.

Việt Nam đã trải qua hơn bốn nghìn năm lịch sử. Trong suốt giai đoạn lịch sử này,

đất nước đã trải qua vô số thăng trầm do hoạt động của con người và thiên nhiên, đã bồi
đắp cho nền văn hóa của quốc gia phát huy được nhiều giá trị, bản sắc văn hoá riêng của
dân tộc, hình thành hồn cốt của Dân tộc. Đồng thời tiếp thu và góp phần đóng góp vào nền
văn hố chung của nhân loại. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn
năm, biết bao nhiêu kẻ thù âm mưu “thay hình đổi dạng”, xóa bỏ các văn hóa truyền thống
của dân tộc ta nhưng đều bất thành. Chúng có thể dùng bạo lực đẫm máu để đàn áp dân
tộc ta nhưng mãi không thể du nhập một nền văn hóa phương Tây ngoại lai như cờ bạc
hay thuốc phiện để đàn áp, làm suy yếu dòng máu Lạc Hồng luôn chảy trong tim của mỗi
con người Việt ái quốc.

Không những vậy, các văn nghệ sĩ phải bám sát với thực tiễn cuộc sống, hồ mình
vào cuộc sống đời thường. Văn nghệ phải gắn với đời sống của nhân dân, phản ánh thực
tiễn đời sống, phê bình nghiêm khắc những thói xấu như tham ơ, lười biếng, lãng phí,
quan liêu và đồng thời thúc đẩy sự phát triển của thực tiễn đời sống theo quy luật của cái
đẹp. Đó chính là “chất thép” của văn nghệ theo tinh thần “kháng chiến hóa văn hóa, văn
hóa hóa kháng chiến”. Chất “thép” là tính chiến đấu, là nội dung cách mạng của thơ ca nói
riêng, đồng thời cũng là bản chất của văn hóa nghệ thuật phục vụ cơng nơng binh, góp
phần tun truyền đường lối kháng chiến.

Ngay từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930, khi đất nước chưa giành
được độc lập, Đảng ta đã đề cập đến vấn đề phát triển văn hóa của dân tộc. Đảng cũng
nhận thức sâu sắc vị trí, vai trị, ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển
của đất nước, và đã đề ra “Đề cương văn hố Việt Nam”, trong đó chỉ rõ “Mặt trận văn
hoá là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hố)”, và chủ trương phát triển văn
hoá theo ba hướng: Dân tộc - Khoa học - Đại chúng.

Những quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong Văn kiện quan trọng này đã
tạo ra một luồng sinh khí mới để tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, tập hợp nhân dân

17 | T r a n g


phát huy vai trị của văn hố, thống nhất về nhận thức, tư tưởng và tổ chức, khơi dậy khát
vọng của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, chuẩn bị tinh thần và lực
lượng cho cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ,
nhà nước cơng nơng đầu tiên ở Đông Nam Á, năm 1945.

Phát triển văn hóa là một cơng cuộc cách mạng lâu dài, địi hỏi phải có ý chí cách
mạng và sự kiên trì, bền bỉ. Cuộc đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa
ngày nay diễn ra vơ cùng gay gắt, ác liệt và khó khăn. Văn hóa là một lĩnh vực rất tế nhị,
khác biệt với các hoạt động kinh tế. Các hoạt động văn hóa tuy khơng tạo ra của cải vật
chất ngay lập tức nhưng ln có ý nghĩa chính trị - xã hội và ảnh hưởng to lớn đến đời
sống trí tuệ, tình cảm, tâm lý và tập quán cộng đồng.

Qua đó, phải kiên trì, cẩn trọng, tránh nóng vội, chủ quan, duy ý chí; phát huy tinh
thần tự nguyện, tự quản, năng lực làm chủ của nhân dân trong xây dựng và phát triển văn
hóa; đẩy mạnh phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, làm cho văn hóa
thấm nhuần trong đời sống, sinh hoạt của xã hội, của mỗi người, mỗi gia đình, tập thể,
cộng đồng, cũng như mọi lĩnh vực của đời sống hàng ngày và trong quan hệ con người.

1.2.3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân

Trong bản Di chúc của mình, Người viết điều mong muốn cuối cùng “Toàn Đảng,
toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”18.
Khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đất nước “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Tư
tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng của Người,
văn hoá phản ánh cuộc sống của nhân dân, văn hoá phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc,
văn hố góp phần nâng cao dân trí, văn hố góp phần nâng cao tư tưởng và hồn thiện đạo
đức con người, văn hố góp phần nâng cao mỹ cảm cho nhân dân.


Tại Đại hội Văn hóa tồn quốc ngày 24/11/1946, Hồ Chí Minh thiết tha mong muốn
nền văn hóa nước nhà hãy lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở. Hạnh phúc
khơng có gì khác hơn là mang lại đời sống tinh thần, vật chất tốt đẹp cho nhân dân. Đem
văn hóa phục vụ nhân dân khơng phải là cung cấp cho họ những món ăn tinh thần chế biến
vội vàng, mà phải là những tác phẩm có tính nghệ thuật cao. Người chỉ rõ: “Quần chúng

18 Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh: Tồn Tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 609-624.

18 | T r a n g

mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật, phong phú, có hình thức trong sáng,
vui tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích”19. Tác phẩm văn nghệ xứng
đáng với thời đại phải là những tác phẩm miêu tả vừa hay, vừa chân thật sự nghiệp cách
mạng của nhân dân. Tác phẩm đó phải phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân, được quần
chúng yêu thích, đem lại những chuyển biến tích cực trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn
của mọi người.

Hiểu được điều đó, để một quốc gia và dân tộc nói chung, Việt Nam nói riêng phát
triển bền vững sau nhiều năm bị nô dịch, văn hóa phải ăn sâu và gắn bó chặt chẽ với chính
trị và kinh tế. Gắn kết kinh tế, chính trị là yêu cầu sống còn để củng cố và xây dựng chính
quyền trong sạch vững mạnh, thực sự là chính quyền của dân, do dân, vì dân, nhằm thực
hiện mục tiêu cao cả là “dân quyền, lợi dân” và “phúc lợi của người dân”.

Cuộc sống thực tế của nhân dân chính là nguồn gốc của văn hoá, do vậy văn hoá
phải phục vụ nhân dân và nhân dân phải được hưởng thụ các giá trị văn hóa. Với Người
việc xây dựng nền văn hố có tính đại chúng gắn liền với nhân dân ln được quan tâm
đặc biệt. Do vậy Người luôn nhắc nhở những người làm cơng tác văn hố phải quan tâm
đến đối tượng phục vụ là nhân dân. Hồ Chí Minh luôn đề cao những giá trị tốt đẹp của nền
văn hố dân tộc đã có từ nghìn năm.


Điểm mấu chốt nhất trong tư tưởng dân chủ về văn hóa của Hồ Chí Minh là đánh giá
đúng, trân trọng, đề cao và phát huy lực lượng, tài nghệ của nhân dân trong việc phát triển
nền văn hóa Việt Nam. Tại hội nghị cán bộ văn hóa ngày 30/10/1958, Người đã nhận xét
“Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là người sáng tạo. Nhưng quần chúng
không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người
biết sáng tác nữa”20. Chính nhân dân là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa, kiểm nghiệm
sản phẩm văn hóa, đồng thời được hưởng thụ các giá trị văn hóa. Nhân dân ni dưỡng
những người hoạt động văn hóa và tạo điều kiện cho tài năng của nghệ sỹ phát triển. Nhân
dân là lực lượng quyết định thắng lợi của cách mạng, trong đó có sự thành bại của văn hóa
nghệ thuật.

Văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
luận điểm về vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ của văn hố… Trong đó nội dung văn

19 Hồ Chí Minh (1971), Hồ Chí Minh: Về cơng tác văn hố văn nghệ, Nxb. Sự thật, tr. 64.

20

19 | T r a n g


×