Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Đề tài nghiên cứu kỹ thuật mỹ thuật trình bày một cuốn sách đẹp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 75 trang )

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

LỜI NÓI ĐẦU.

Đã từ rất lâu, những cuốn sách luôn là một phần khơng thể thiếu, là
món ăn tinh thần, là người bạn, là nguồn cổ vũ, chỉ dẫn của con người. Đọc
sách vẫn ln là một việc cá nhân và do đó ln đa dạng và phức tạp như
chính bản thân đời sống xã hội. Dù là một cuốn sách công cụ hay sách giải trí,
một cuốn từ điển chuyên ngành hay một cuốn tiểu thuyết…, thì giao tiếp giữa
người với sách vẫn luôn là một giao tiếp riêng tư và mật thiết. Tác động của
sách không hề bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Con người ngày nay
vẫn không hề giảm sút hứng thú tìm lại những trang sách đã có hàng mấy
nghìn năm nay, từ những hình vẽ bí hiểm trên những phiến đất sét, những chữ
cái từ lâu đã trở nên lạ lùng trên các tấm da cừu,…cho đến hôm nay, những
cuốn sách được in hàng loạt bằng những máy in điện tử hiện đại.

Sách đưa đến cho người đọc những hiểu biết mới mẻ về thế giới xung
quanh, về vũ trụ bao la, về những đất nước và những dân tộc xa xơi. Những
quyển sách khoa học có thể giúp người đọc khám phá ra vũ trụ vô tân với
những qui luật của nó, hiểu được trái đất trịn trên mình nó có bao nhiêu đất
nước khác nhau với những thiên nhiên khác nhau. Những quyển sách xã hội
lại giúp ta hiểu biết về đời sống con người trên các phần đất khác nhau đó với
những đặc điểm về kinh tế, lịch sử, văn hoá, truyền thống, những khát vọng.

Sách, đặc biệt là những cuốn sách văn học giúp ta hiểu biết về đời sống
bên trong của con người, qua các thời kì khác nhau, ở những dân tộc khác
nhau, những niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ, những khát vọng
và đấu tranh của họ.

SV: Nguyễn Thị Nga. 3 Lớp CĐ 08- CNI


KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

Sách còn giúp người đọc phát hiện ra chính mình, hiểu rõ mình là ai,
hiểu mỗi người có mối quan hệ như thế nào với người khác, với tất cả mọi
người trong cộng đồng dân tộc và cộng đồng nhân loại này. Sách giúp cho
người đọc hiểu được đâu là hạnh phúc, đâu là nỗi khổ của con người và phải
làm gì để sống cho đúng và để đi tới một cuộc đời thực sự. Sách mở rộng
những chân trời ước mơ và khát vọng... “Sách là của cải vô giá để lại kinh
nghiệm, bài học… cho muôn đời sau”.

Cuốn sách tốt sẽ là cuốn sách khi xem nó, bên cạnh sự tiếp thu, cảm
nhận về nội dung sách, người đọc sẽ tiếp tục suy nghĩ về những vấn đề của
bản thân mình. Những cuốn sách như thế được độc giả đón nhận khơng chỉ
bởi nội dung tác giả muốn truyền tải mà còn ở vẻ đẹp của nghệ thuật trình
bày. Bao giờ cũng vậy, hình thức trang trí, trình bày ln được biết đến trước
tiên khi sách đến với người đọc. Một cuốn sách dù có nội dung hay nhưng lại
qua loa trong cách trình bày thì chắc chắn cuốn sách sẽ mất đi một nửa giá trị
của nó. Vì vậy việc trình bày thế nào cho phù hợp, có thẩm mỹ là một yếu tố
quan trọng để tạo ra một cuốn sách đẹp. Quan tâm tới vấn đề này, em thực
hiện đồ án với đề tài “Nghiên cứu kỹ thuật- mỹ thuật trình bày một cuốn
sách đẹp” nhằm mục đích tìm hiểu kỹ lưỡng hơn nghệ thuật trình bày một
cuốn sách đạt yêu cầu kỹ thuật và có giá trị cao về thẩm mỹ, hướng tới một
sản phẩm in đẹp trên mọi phương diện. Đồ án sẽ chú ý tới sự nhất quán trong
việc trình bày sách phù hợp với từng nội dung; tạo sự hài hịa, dễ đọc, dễ
nhìn, dễ cảm nhận… khi độc giả tiếp cận với sách.

Đồ án bao gồm các nội dung chính sau:
- Phần I: Sơ lược về sự hình thành những cuốn sách đầu tiên của
nhân loại.
- Phần II: Các yếu tố liên quan làm đẹp cuốn sách.

- Phần III: Kỹ thuật - Mỹ thuật trình bày sách.
- Phần IV: Kết luận.

SV: Nguyễn Thị Nga. 4 Lớp CĐ 08- CNI

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

PHẦN I:
SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH
NHỮNG CUỐN SÁCH ĐẦU TIÊN CỦA NHÂN LOẠI

I.1. Sự hình thành của chữ viết.
I.1.1. Khái niệm và vai trò của chữ viết.
Chữ chỉ hệ thống ký tự ghi lại ngôn ngữ. Nếu ngôn ngữ là hệ thống ký
tự thì chữ viết là hệ thống ký tự của ký tự. Chữ viết có quan hệ mật thiết với
ngơn ngữ nhưng không thể đồng nhất ngôn ngữ và chữ viết (người ta có thể
khơng biết chữ nhưng vẫn có ngơn ngữ để giao tiếp; nhiều dân tộc có ngơn
ngữ riêng nhưng vẫn chưa có chữ viết).
Chữ viết có vai trị to lớn đối với lịch sử phát triển của lồi người vì
chữ viết thắng được không gian, thời gian và tránh được sự sai lệch. Chữ viết
giúp cho thế hệ sau biết được lịch sử, quá khứ của loài người; hơn nữa chữ
viết cịn phát huy tác dụng trong hồn cảnh giao tiếp…
Chữ viết là sự sáng tạo của con người nhưng phải trải qua quá trình
phát triển lâu dài; thúc đẩy quá trình thống nhất, chuẩn hóa ngơn ngữ.
Con người lúc ban sơ, tuy chưa có tư duy rõ rệt, nhưng trong cuộc sống
hàng ngày đã có những cảm giác biểu lộ ra ngồi bằng âm thanh, đó là sự ra
đời của tiếng nói. Tư duy của con người hình thành dần, xã hội ngày càng
phát triển- lời nói- những âm thanh bị tiêu tan qua khơng gian, lãng qn dần
qua thời gian, khơng thể làm trịn nhiệm vụ trước yêu cầu mới, nên con người
tìm cách giữ lại lời nói, do đó chữ viết ra đời, và chữ viết chính là vật chất của

tư duy.

SV: Nguyễn Thị Nga. 5 Lớp CĐ 08- CNI

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

I.1.2. Nguồn gốc và sự phát triển của chữ viết.
Những hệ thống chữ viết đầu tiên không tự xuất hiện. Chúng bắt nguồn
từ các tập quán cổ xưa của các hệ thống biểu tượng. Hệ thống này không
được coi là chữ viết nhưng chúng có những đặc điểm liên quan với chữ viết
sau này (có thể gọi là hệ thống tiền ký tự) - Nguồn gốc của chữ viết.
Chữ hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội
loài người. Lúc ban đầu con người vẽ hình lên vách đá, lá cây, thanh tre,
xương thú… để ghi lại những cảm xúc và những diễn biến trong sinh hoạt cá
nhân và xã hội. Từ đơn giản này đến cách điệu kia, qua nhiều thế hệ, loài
người mới đi đến dùng một số nét (ngang, đứng, nghiêng, cong) dưới một quy
thức nhất định, dần dần tới những đường nét phức tạp hơn.
a. Hệ thống biểu tượng tiền ký tự (thời kỳ đồ đá).

Hình 1: Chữ viết thời kỳ đồ đá

Hệ thống biểu tượng tiền ký tự là các hệ thống biểu tượng khá dễ nhớ
và ghi lại ý, cho phép truyền đạt thông tin nhất định. Tuy vậy, chúng khơng
có nội dung ngơn ngữ. Những hệ thống này xuất hiện ở đầu thời kỳ đồ đá
mới, khoảng thiên niên kỷ thứ 7 TCN. Đáng chú ý có hệ biểu tượng Vinca có
những cải tiến về biểu tượng giản đơn ở đầu thiên niên kỷ 7 TCN, dần tăng

SV: Nguyễn Thị Nga. 6 Lớp CĐ 08- CNI

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP


tính phức tạp trong thiên niên kỷ tiếp theo và lên đến đỉnh cao là những bản
ghi Tartaria vào thiên niên kỷ 5 TCN. Những biểu tượng được xếp theo hàng
lối chặt chẽ, giúp chúng ta liên tưởng ngay đến văn bản. Các ký tự tượng hình
của Cận đơng thời cổ đại (Ai Cập) dường như không bắt nguồn từ những hệ
thống biểu tượng trên. Vì vậy, khó có thể kết luận rằng hệ thống chữ viết đã
kế thừa biểu tượng tiền chữ viết ở thời điểm nào.

b. Chữ viết thời kỳ đồ đồng.
Lịch sử chữ viết bắt đầu khi các hệ thống chữ viết đầu tiên của loài

người xuất hiện vào đầu thời kỳ đồ đồng (cuối thiên niên kỷ 4 trước Công
nguyên) từ các biểu tượng tiền ký tự của thời kỳ đồ đá mới.

Người ta tin rằng hệ thống chữ viết đầu tiên của loài người ra đời cuối
thiên niên kỷ 3 TCN tại vùng Sumer (Lưỡng Hà) ở dạng chữ hình nêm cổ.

Sự phát triển của chữ viết tượng hình Ai cập song song với những ký tự
vùng Lưỡng Hà và không nhất thiết độc lập với nhau. Hệ thống tiền ký tự của
người Ai Cập tiến hóa thành những ký tự tượng hình cổ xưa vào khoảng
3.200 năm TCN và phổ biến rộng rãi ở giữa thiên niên kỷ 3 TCN.

Ký tự của nền văn minh sông Ấn phát triển trong suốt thiên niên kỷ 3
cả ở dạng tiền chữ viết hoặc dạng chữ viết cổ xưa, tuy vậy quá trình phát triển
này tiến nhanh hơn khi nền văn minh đi qua giai đoạn đỉnh điểm vào khoảng
1.900 năm TCN.

Chữ viết của người Trung Quốc có lẽ là khơng cùng nguồn gốc với các
nền văn minh Trung Đông. Từ hệ thống biểu tượng tiền chữ viết ở cuối thời
kỳ đồ đá mới khoảng 6.000 năm TCN, chữ viết Trung Quốc ra đời khoảng

1.500 năm TCN vào thời nhà Thượng.

Phần lớn các hệ thống chữ viết trên thế giới ngày này đều bắt nguồn từ
Ai Cập hoặc Trung Quốc, ngồi ra cịn có hệ thống tượng ý của người Maya
(châu Mỹ) xuất hiện thế kỷ thứ 3 TCN…

 Chữ hình nêm:

SV: Nguyễn Thị Nga. 7 Lớp CĐ 08- CNI

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

Hình 2: Chữ hình nêm

Hệ thống chữ viết nguyên thủy của người Sumer bắt nguồn từ những
phiến đất sét được sử dụng để chỉ tên đồ vật. Cho đến cuối thiên niên kỷ 4
TCN, hệ thống này đã phát triển thành một phương pháp lưu lại các bản kê,
sử dụng bút trâm đầu trịn ấn lên tấm đất sét theo các góc khác nhau để ký
hiệu con số. Ghi chép sử dụng bút trâm đầu tròn và bút trâm đầu sắc, theo thời
gian, được thay thế bằng bút trâm đầu hình nêm (vì thế mà có tên chữ viết
hình nêm) vào khoảng 2.700 – 2.500 năm TCN. Ban đầu chỉ có những ký
hiệu ghi hình nhưng đã phát triển, đưa vào yếu tố ngữ âm ở thời gian thế kỷ
29 TCN. Khoảng 2.600 năm TCN, chữ viết hình nêm bắt đầu thể hiện âm tiết
trong nhóm ngơn ngữ Xume (Sumer) vùng Lưỡng Hà. Cuối cùng, chữ viết
hình nêm trở thành hệ thống chữ viết phổ biến ghi lại ký hiệu ghi hình, âm tiết
và con số.

 Chữ tượng hình Ai Cập cổ đại:
Chữ viết đóng vai trị quan trọng trong việc duy trì đế chế Ai Cập, đọc
và viết là đặc quyền của nhóm người được giáo dục để ghi chép và giữ gìn

văn bản. Chỉ những người với xuất thân nhất định mới được đào tạo để trở
thành người ghi chép và giữ gìn văn bản. Hệ thống chữ viết tượng hình Ai
Cập ln phức tạp, khó học, nhưng trong nhiều thế kỷ sau khi ra đời, chúng
còn trở nên khó học hơn nhiều. Chủ ý của thực tế này là nhằm duy trì đặc
quyền của những người ghi chép và giữ gìn văn bản.
 Chữ viết Trung Hoa:
Ở Trung Quốc, các nhà sử học biết được rất nhiều điều về những triều

SV: Nguyễn Thị Nga. 8 Lớp CĐ 08- CNI

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

đại Trung Hoa đầu tiên nhờ những văn bản cịn sót lại. Từ thời nhà Thượng,
đa số những ghi chép này tìm thấy trên xương động vật hoặc bản ghi bằng
đồng. Những chữ ghi trên mai rùa, qua phương pháp xác định tuổi carbon cho
thấy chúng được viết khoảng 1.500 năm TCN. Các nhà sử học phát hiện ra
rằng loại vật liệu được sử dụng có ảnh hưởng đến văn bản được ghi chép và
cách thức sử dụng chúng.

Hình 3: Chữ viết trên mai rùa
Những chữ cái cổ Semitic (Trung Đông):

Những chữ cái đúng nghĩa đầu tiên (những chữ cái phụ âm, gán mỗi
biểu tượng tương ứng với một âm vị, nhưng không nhất thiết mỗi âm vị ứng
với một biểu tượng) xuất hiện khoảng 1.800 năm TCN ở Ai Cập Cổ đại, như
một cách miêu tả ngôn ngữ được phát triển bởi những người Semitic phục vụ
ở Ai Cập, nhưng những nguyên tắc chữ cái này không được du nhập vào hệ
thống chữ viết tượng hình của Ai cập trong suốt thiên niên kỷ. Những chữ cái
phụ âm ban đầu này vẫn ít được coi trọng trong nhiều thế kỷ. Và chúng chỉ
trở nên quan trọng khi vào cuối thời kỳ đồ đồng, khi ký tự tiền chữ viết

Sinaitic phân thành hai nhánh là hệ thống tiền chữ cái Canaanite (khoảng
1.400 TCN) và hệ thống chữ cái nam Ả rập (khoảng 1.200 TCN).

c. Chữ viết thời kỳ đồ sắt.
Chữ cái Phoenician là hệ thống tiền chữ cái Canaanite được tiếp tục

phát triển ở thời kỳ đồ sắt (được cho là kế thừa từ sự chấm dứt của hệ thống

SV: Nguyễn Thị Nga. 9 Lớp CĐ 08- CNI

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

này năm 1.050 TCN). Hệ thống chữ cái này đưa đến sự ra đời của chữ viết
Aramaic và chữ viết Hy Lạp; rồi thông qua người Hy Lạp, dẫn đến sự ra đời
của các chữ cái Tiểu Á và chữ cái Italic cổ (bao gồm tiếng Latin) vào thể kỷ 8
TCN. Chữ cái Hy Lạp đưa vào các ký hiệu nguyên âm.

Cũng thời gian này (thế kỷ 4 đầu Công nguyên), chữ viết Nhật Bản ra
đời từ chữ viết Trung Hoa.

Hình 4: Hệ chữ cái a, b, c

I.1.3. Sự phát triển của chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ.
a. Chữ Hán:
Chữ Hán vào Việt Nam theo con đường giao lưu văn hóa bắt đầu từ
thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Hiện nay, ở Việt Nam còn lưu giữ
được số hiện vật như đỉnh cổ có khắc chữ tượng hình (chữ Hán cổ). Ðiều này
là một phần chứng minh được rằng chữ Hán cổ xuất hiện ở Việt Nam khá
sớm và thực sự trở thành phương tiện ghi chép và truyền thông trong người
Việt kể từ những thế kỷ đầu Công nguyên trở đi. Ðến thế ký VII - XI chữ Hán

và tiếng Hán được sử dụng ngày càng rộng rãi ở Việt Nam. Thời kỳ này tiếng
Hán được sử dụng như một phương tiện giao tiếp, giao lưu kinh tế thương

SV: Nguyễn Thị Nga. 10 Lớp CĐ 08- CNI

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

mại với Trung Quốc. Do Việt Nam bị ách đô hộ của phong kiến phương Bắc
trong khoảng thời gian hơn một ngàn năm, vì vậy hầu hết các bài văn khắc
trên tấm bia đều bằng chữ Hán.

Từ sau thế kỷ thứ X, tuy Việt Nam giành được độc lập tự chủ, thoát
khỏi ách thống trị của phong kiến phương Bắc, nhưng chữ Hán và tiếng Hán
vẫn tiếp tục là một phương tiện quan trọng để phát triển văn hóa dân tộc.

Hình 5: 80 chữ Hán cơ bản
b. Chữ Nôm:
Dù chữ Hán có sức sống mạnh mẽ đến đâu chăng nữa, một văn tự
ngoại lai không thể nào đáp ứng, thậm chí bất lực trước địi hỏi, yêu cầu của
việc trực tiếp ghi chép hoặc diễn đạt lời ăn tiếng nói cùng tâm tư, suy nghĩ và
tình cảm của bản thân người Việt. Chính vì vậy chữ Nôm đã ra đời để bù đắp
vào chỗ mà chữ Hán không đáp ứng nổi.
Chữ Nôm là một loại văn tự xây dựng trên cơ sở đường nét, thành tố và
phương thức cấu tạo của chữ Hán để ghi chép từ Việt và tiếng Việt. Q trình
hình thành chữ Nơm có thể chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn đầu, tạm gọi là giai đoạn "đồng hóa chữ Hán", tức là dùng
chữ Hán để phiên âm các từ Việt thường là tên người, tên vật, tên đất, cây cỏ
chim muông, đồ vật... xuất hiện lẻ tẻ trong văn bản Hán. Những từ chữ Nôm
này xuất hiện vào thế kỷ đầu sau Công nguyên (đặc biệt rõ nét nhất vào thế kỷ
thứ VI).

Giai đoạn sau: Ở giai đoạn này, bên cạnh việc tiếp tục dùng chữ Hán để
phiên âm từ tiếng Việt, đã xuất hiện những chữ Nôm tự tạo theo một số
nguyên tắc nhất định. Loại chữ Nôm tự tạo này, sau phát triển theo hướng ghi
âm, nhằm ghi chép ngày một sát hơn, đúng hơn với tiếng Việt.

SV: Nguyễn Thị Nga. 11 Lớp CĐ 08- CNI

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

Từ thời Lý thế kỷ thứ XI đến đời Trần thế kỷ XIV thì hệ thống chữ
Nơm mới thực sự hồn chỉnh. Ðến thế kỷ XVIII - XIX chữ Nôm đã phát triển
tới mức cao, át cả địa vị chữ Hán.

Hình 6: Chữ Nơm
Như vậy, có thể thấy chữ Hán và chữ Nơm có những khác nhau cơ bản
về lịch sử ra đời, mục đích sử dụng và mỗi chữ có bản sắc riêng về văn hóa.
c. Chữ Quốc ngữ:
Đến thế kỷ XVII, với mục đích du nhập Thiên Chúa giáo vào Việt
Nam, các giáo sĩ người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha được sự giúp đỡ của các
giáo sĩ người Việt đã La tinh hóa chữ viết để truyền giáo (thường chữ viết gắn
liền với tôn giáo), đồng thời tách người Việt ra khỏi khn viên của chữ
vng và văn hóa Khổng giáo.
Quá trình xây dựng chữ viết trên cơ sở chữ La tinh mà ngày nay gọi là
chữ quốc ngữ đã lặp lại quy trình sáng tác chữ nôm. Alexandre de Rhodes và
các giáo sĩ người Âu phải giải quyết hai vấn đề: một là thêm những dấu phụ
để phù hợp với cách đọc của người Việt khác với tiếng La tinh, tiếng Bồ Đào
Nha..., hai là (khác với chữ nôm) phải ghi riêng biệt từng tiếng khác với cách
viết liền như tiếng châu Âu đa tiết.
Chính vì địa vị khơng chính thức và tính khơng chuẩn hóa của chữ nôm
mà chữ quốc ngữ dễ dàng thay thế. Hơn nữa hệ chữ La tinh lại rất dễ đọc và

tiện lợi.
Trong bối cảnh quốc tế hóa hiện nay, tiếng Việt được đánh giá như một

SV: Nguyễn Thị Nga. 12 Lớp CĐ 08- CNI

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

trong những nhân tố quan trọng, đóng vai trị tích cực vào quá trình hội nhập
của Việt Nam với thế giới.

I.2. Sự hình thành những cuốn sách đầu tiên của nhân loại.
Chữ viết ra đời cũng cần có nơi nương tựa, vì vậy cuốn sách xuất hiện.
Vào khoảng 3000 năm TCN, ở vùng sông Nile- Ai Cập đã có cơng nghệ làm
giấy bằng sợi cây papyrus. Đó là một cuộn giấy cao từ 15 đến 17 cm, chiều
dài cuốn sách phụ thuộc vào nội dung. Chữ ghi trên sách là những hình vẽ,
những ký tự khó hiểu nhằm diễn đạt những suy nghĩ của người đương thời.
(Hình 9 - trang 16, Hình 10 - trang 17).
Trong khi đó, ở phía Đơng của địa cầu - Trung Quốc - cũng có một
nền văn minh đang nảy nở, chữ Trung Quốc ra đời vào khoảng 3000 năm
TCN và được khắc trên mai rùa, xương thú; sau đó là những cuốn sách bằng
gỗ, thẻ tre rồi đến sách lụa phù hợp với lối viết bút lơng. (Hình 8 - trang 15).
Ngoài Ai Cập, Trung Quốc ra cịn có một trung tâm văn hóa lớn thứ ba
khá nổi tiếng là vùng Cận Đông, nhất là vùng Medopotami (cái nôi của nền
văn minh Tây Phương). Cuốn sách ở đây là những tấm đất sét có chiều dài
khoảng 50 cm, rộng khoảng 40 cm. Khi đất còn ướt, người ta ấn những con
chữ hình nêm lên rồi phơi khơ hoặc nung trong lửa… (Hình 7 - trang 14).
Dưới đây là một số hình ảnh những cuốn sách đầu tiên của nhân loại
được tìm thấy:

SV: Nguyễn Thị Nga. 13 Lớp CĐ 08- CNI


KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

Hình 7: Cuốn sách là những tấm đất sét.

SV: Nguyễn Thị Nga. 14 Lớp CĐ 08- CNI

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

Hình 8: Cuốn sách là mai rùa.

SV: Nguyễn Thị Nga. 15 Lớp CĐ 08- CNI

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

Hình 9: Cuốn sách trên giấy papyrus.

SV: Nguyễn Thị Nga. 16 Lớp CĐ 08- CNI

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

Hình 10: Cuốn sách trên giấy papyrus.

SV: Nguyễn Thị Nga. 17 Lớp CĐ 08- CNI

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

Như vậy, từ xa xưa con người đã có kỹ thuật, cách nhìn riêng để có thể
viết ra những cuốn sách phản ánh suy nghĩ, tư duy, kinh ngiệm trong sản xuất,
chiến đấu, cải tạo thiên nhiên… ở các vùng lãnh thổ với đặc trưng tập quán

khác nhau.

Sách ra đời và được chép bằng tay để có thể phổ biến, truyền bá
tri thức nhưng khơng mang tính rộng rãi, mất nhiều thời gian, bản chép tay so
với bản gốc có thể có sự sai lệch. Để có được những cuốn sách đẹp, giống
nhau, con người đã nghiên cứu và sáng tạo ra những phương pháp nhân bản
sách, và ngành in ấn xuất hiện.

Lịch sử in ấn bắt đầu hình thành và phát triển đầu tiên ở Trung Quốc.
Kỹ thuật in khối dùng gỗ sơ khai đã bắt đầu phổ biến ở thế kỷ thứ 6. Sách in
khối cổ nhất còn tới ngày nay có từ năm 868 sau CN là cuốn kinh Kim
Cương. Đến thế kỷ thứ 12 và 13, các thư viện ở Ả Rập và Trung Quốc đã có
tới hàng chục nghìn bản sách, sự phát triển của in ấn là một bước đột phá
trong phổ biến tri thức. Vào thế kỷ 8 - 9, nghề ấn loát với sự trợ giúp của
những bản khắc chữ bằng gỗ đã phổ biến ở Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn
Quốc. Đến thế kỷ 14, nghề in đã được du nhập vào châu Âu. Năm 1436, với
sự ra đời của kỹ thuật in bằng chữ kim loại có thể dịch chuyển được đã giúp
cho việc in ấn trở nên đơn giản hơn. Cha đẻ của phát minh này là Johannes
Gutenberg – người được mệnh danh là “ơng tổ nghề in” ( Hình 11 – Hình 12).

SV: Nguyễn Thị Nga. 18 Lớp CĐ 08- CNI

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

Hình 11: Ông tổ nghề in ( Johannes Gutenberg).

Hình 12: Bàn in của Gutenberg

SV: Nguyễn Thị Nga. 19 Lớp CĐ 08- CNI


KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

Với mong muốn người nghèo cũng có thể đọc sách để tiếp cận tri thức,
(vì sách thời kỳ này là của rất hiếm, được coi là thứ xa xỉ dành riêng cho giới
thượng lưu và những ai có tiền), nên Gutenberg đã tìm ra được kỹ xảo in mới.
Lúc đầu ông tạo chữ in bằng loại gỗ cứng, mỗi chữ in là một bản khắc nhỏ
với một chữ duy nhất trên đá. Tuy nhiên loại chữ in bằng gỗ không tạo ra nét
chữ sắc nét và riêng biệt nên ông chuyển đổi qua kiểu chữ in bằng kim loại có
thể di chuyển được. Bằng phương pháp này, Gutenberg là người đi tiên phong
trong việc in sách Kinh Thánh bằng tiếng La tinh. Bộ Thánh Kinh gồm hai
tập, mỗi tập dày 300 trang với 42 dòng mỗi trang. Đây được xem là bộ sách
đầu tiên được in bằng kiểu chữ kim loại có thể dịch chuyển được với những
nét chữ rất đẹp và sắc nét.

Trên đây là một số nét sơ lược về sự hình thành những cuốn sách đầu
tiên cùng với lịch sử của ngành ấn loát. Đây cũng là những tiền đề đầu tiên, là
nền móng cho sự hình thành và phát triển về kỹ thuật - mỹ thuật để trình bày
một cuốn sách đẹp.

SV: Nguyễn Thị Nga. 20 Lớp CĐ 08- CNI

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

PHẦN II:
CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN LÀM ĐẸP CUỐN SÁCH

II.1. Hình thức bên ngồi.
II.1.1. Sự lựa chọn nguyên vật liệu.
a. Giấy.
 Giấy là ngun vật liệu chính của cơng việc sản xuất ra sách hay của

ngành in nói chung. Có nhiều loại giấy với những giá trị khác nhau, và giá trị
của giấy phải phù hợp với thiết kế của từng loại sách. Dưới đây là một số loại
giấy phổ biến:

- Giấy Ford (giấy offset): là loại giấy phổ biến và thông dụng, định
lượng thường là 70-80-90g/m2 ... Giấy ford có bề mặt nhám, bám mực tốt,
dùng để làm những cuốn sách có giá trị trung bình, ngồi ra cũng được dùng
làm bao thư lớn, nhỏ, hóa đơn, tập học sinh ...

- Giấy in báo: Là loại giấy khơng tráng dùng để in báo, có tỷ trọng sợi
gỗ thu được từ phương pháp chế biến cơ học hoặc cơ - hoá học lớn hơn hoặc
bằng 65% tổng lượng sợi, không hồ hoặc dát rất mỏng, định lượng từ 40 g/m²
đến 65 g/m².

- Giấy Bristol : có bề mặt hơi bóng, mịn, bám mực tốt vừa phải, vì thế
in offset đẹp, có thể dùng in bìa sách, hộp xà bơng, mỹ phẩm, dược phẩm,
card, tờ rơi, thiệp mời ... định lượng thường thấy ở mức 230 - 350g/m2.

- Giấy Couche : có bề mặt bóng, mịn, láng, in rất bắt mắt và sáng.
Thường dùng để in tờ rơi quảng cáo, catalogue, poster, brochure... Định lượng
vào khoảng 90-210g/m2. Giấy couche cũng thường được dùng để in những
cuốn sách có giá trị cao, thời gian sử dụng lâu dài.

SV: Nguyễn Thị Nga. 21 Lớp CĐ 08- CNI

KỸ THUẬT- MỸ THUẬT TRÌNH BÀY MỘT CUỐN SÁCH ĐẸP

- Giấy Duplex : có bề mặt trắng và lán gần gần với Bristol, mặt kia
thường sẫm như giấy bồi. Có thể dùng in bìa sách, các hộp sản phẩm kích
thước hơi lớn, cần có độ cứng, chắc chắn vì định lượng thường trên 300g/m2.


 Tính chất giấy: Tính chất của giấy cũng liên quan tới vẻ đẹp của
cuốn sách, ví dụ như:

- Định lượng: Trọng lượng của một đơn vị diện tích của giấy được xác
định theo phương pháp tiêu chuẩn. Đơn vị biểu thị kết quả là g/m2.

- Độ dày: Khoảng cách giữa hai mặt của giấy đo theo phương pháp tiêu
chuẩn. Đơn vị biểu thị kết quả là mm. Độ dày giấy thường từ 0,04 đến 0,4
mm. Giấy có độ dày càng lớn thì độ bền càng cao, khả năng thấu quang nhỏ,
khả năng co giãn giảm… làm tăng chất lượng sản phẩm in.

- Độ chịu kéo: Lực kéo lớn nhất mà mẫu thử chịu được trước khi đứt
trong điều kiện xác định của phương pháp thử tiêu chuẩn.

- Độ dài đứt:
Chiều dài tính được của băng giấy với chiêu rộng đồng nhất có trọng
lượng đủ nặng để làm đứt chính nó khi treo một đầu lên.
- Độ dãn dài: Độ dãn dài đo được tại thời điểm đứt của băng giấy các
cáctông khi nó được kéo dãn dưới điều kiện xác định của phương pháp thử
tiêu chuẩn; đơn vị biểu thị thường là % so với chiều dài ban đầu của mẫu thử.
- Độ hút nước: Khả năng hấp thụ và giữ lại khi tiếp xúc với nước của
giấy và cáctông; hoặc tốc độ hút nước, được xác định bằng các phương pháp
thử tiêu chuẩn…
 Khổ giấy in.
Khổ giấy nói chung do cơ quan Tiêu chuẩn quốc tế (ISO: International
Standard Organisation) công nhận gồm 3 nhóm A, B, C.

SV: Nguyễn Thị Nga. 22 Lớp CĐ 08- CNI



×